Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Quản lý Nhà nước đối với báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.3 KB, 83 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam
đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo chí đã bám
sát đời sống xã hội, cung cấp những thông tin đa chiều, sâu sắc; tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày càng
nâng cao trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí. Trước tình hình đó, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về việc tiếp
tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Đây chính
là động lực để kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Báo chí ngày 12-6-1999. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã thể
hiện sự cố gắng trong quá trình quản lý hoạt động báo chí phù hợp với điều kiện, tình
hình mới.
Tuy nhiên, khi mà sự phát triển không đi cùng với việc nâng cao năng lực
quản lý phù hợp đã làm cho hoạt động báo chí bộc lộ nhiều bất cập, thiếu ổn định.
Đó chính là xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ;
làm lộ bí mật, an ninh quốc gia; nhiều tờ báo chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng bài
ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần phong mỹ tục; nhiều địa phương vì lý
do này hoặc lý do khác đã gây cản trở hoạt động của phóng viên, cung cấp thông tin
sai lệch v.v... Trong khi đó, dưới góc độ Nhà nước thì các công cụ quản lý về báo chí
mà chủ yếu là pháp luật chưa hoàn thiện, không phù hợp với thực tiễn phát triển sinh
động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây.
Tất cả đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu để nâng cao
hiệu quả quản lý Nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn. Chính từ bức
xúc như vậy mà tác giả đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với báo chí”
để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là một lĩnh vực tương đối mới. Trong quá khứ cũng như hiện nay chỉ có
một số nghiên cứu chính thức về lĩnh vực này có thể kể đến như:
+ PGS.TS Lê Thanh Bình, ThS.Phí Thị Thanh Tâm: Quản lý Nhà nước và


pháp luật về báo chí (sách chuyên khảo dành cho học viên ngành báo chí truyền
thông) - NXB Văn Hóa Thông Tin, 2009.
1
+ TS.Lê Minh Toàn (chủ biên): Quản lý Nhà nước về thông tin và truyền
thông (sách chuyên khảo dành cho cán bộ, viên chức, học viên, sinh viên) - NXB
Chính Trị Quốc Gia, 2009.
Đây là các công trình mang tính chất tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
thông tin truyền thông và cũng rất giá trị đối với những người nghiên cứu vấn đề này
dưới góc độ khoa học pháp lý, chuyên ngành Luật Hành chính.
Và trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các sách khảo cứu chuyên đề về
quản lý báo chí không nhiều. Những khó khăn khách quan trên là những trở ngại
không nhỏ đối với việc nghiên cứu của tác giả. Do vậy, tác giả ngoài việc thu thập tài
liệu sẽ thực hiện một số chuyến đi thực tế đến các nơi như: Các cơ quan quản lý về
lĩnh vực báo chí các cấp, các trụ sở của các cơ quan báo chí điển hình để tìm hiểu
hoạt động và ghi nhận những phản hồi từ các cơ quan này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích:
+ Xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về hoạt động báo chí và quản
lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời
sống xã hội. Phân tích những bất cập của pháp luật nước ta trong những quy định về
quản lý hoạt động báo chí. Trình bày các ưu khuyết diểm trong công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động báo chí của Nhà nước ta và tìm ra các nguyên nhân.
+ Từ cơ sở trên, các tác giả đề ra những biện pháp mang tính khả thi cho công
tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí và đưa ra những ý kiến mới cho việc
xây dựng pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ hơn, nhằm tạo ra hành lang pháp lý tích
cực cho công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nội dung được đề cập chủ yếu của đề tài là báo chí ở Việt Nam, những quy
định pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động báo chí và thực trạng quản lý
Nhà nước đối với hoạt động này. Từ đó phân tích những bất cập cơ bản nhất cả về lý

luận cũng như thực tiễn của nội dung này. Đề tài sẽ không đề cập các nội dung liên
quan đến vấn đề về nghiệp vụ báo chí.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu để tiến hành nghiên cứu đề tài này dưa trên cơ sở
của phép biện chứng duy vật, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra,
tác giả cũng sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp hệ thống hóa, phân tích, so sánh
trên cở sở từ kết quả đi thực địa.
2
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài khi được hoàn thành sẽ là một tập luận văn trong đó bao hàm những lý
luận cơ bản nhất về quản lý Nhà nước hoạt động báo chí, thực trạng và hướng hoàn
thiện liên quan đến quản lý Nhà nước về hoạt động báo chí.
Đây sẽ nguồn tư liệu tham khảo và là ý tưởng đề xuất chân thành đối với các
cơ quan, tổ chức hoạt động liên quan đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu Luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 2 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý Nhà nước đối với báo chí.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối
với báo chí.
Phần kết luận
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ
1.1. Khái quát về báo chí
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và lịch sử hình thành báo chí
1.1.1.1. Khái niệm báo chí
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới như
hiện nay, hoạt động thông tin nói chung và báo chí nói riêng ngày càng đóng vai trò

quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí đang thực sự có những bước đột biến, đi
vào chiều sâu về cả lượng và chất. Trong những năm qua, thông tin trên báo chí nước
ta đã góp phần quan trọng vào mọi mặt của đời sống xã hội, phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hơn 20 năm thực hiện
chính sách và đường lối đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, các phương tiện truyền thông
đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm.
Báo chí thực sự đã trở thành một trong những kênh thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà
nước; phát hiện và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; những vấn đề bức
xúc trong đời sống xã hội; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, quan
liêu lãng phí và suy thoái đạo đức, lối sống… Báo chí cũng đã góp phần giáo dục
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao dân trí,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng về đời sống tinh thần của
nhân dân… Bên cạnh những vấn đề trên, báo chí nước ta trong quá trình đổi mới và
hội nhập đã góp phần nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại, góp phần quan trọng
giới thiệu đất nước, văn hóa con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của
Đảng, Nhà nước ta; góp phần nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo các nhà nghiên cứu nói chung, báo chí là một mặt của đời sống xã hội,
từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của loài người.
Trong quá trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã hội loài người được
thể hiện trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, lối sống v.v…
Do vậy, việc nhận thức vai trò của báo chí là một vấn đề bức thiết trong mọi
thời đại, mọi hình thái Nhà nước. Nó có ý nghĩa rất lớn góp phần vào việc điều hoà
4
các mối quan hệ xã hội theo định hướng chung của Nhà nước, tạo ra một môi trường
ổn định để phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì thế, trong quá khứ cũng như hiện tại có
nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra những khái niệm khác nhau về báo chí dưới
những góc độ khác nhau.

Theo triết học cổ Hy Lạp: “Chữ báo chí xuất phát từ chữ information có
nghĩa là thông tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho
sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện
thực khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ
giữa nhà báo - tác phẩm - công chúng”.
1
Trong khi đó, chính các tác giả quyển sách này lại cho rằng: “Báo chí là bao
gồm tất cả các tổ chức thông tin thuật những loại hình khác nhau (xuất bản, radio,
vô tuyến truyền hình…) và ở những cấp độ khác nhau từ trung ương đến địa phương,
với ý nghĩa là tất cả các phương tiện thông tin đại chúng”.
2
Một số quan điểm khác thì không định nghĩa báo chí riêng biệt mà gắn liền
báo chí với truyền thông. Ở cách hiểu này, trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học định nghĩa báo chí truyền thông hiểu theo nghĩa chung nhất và trừu tượng
nhất là “quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng”.
3
Trong Từ điển xã hội học do G. Endruweit và G. Trommsdorff chủ biên, định
nghĩa báo chí truyền thông là “sự tạo ra mối liên hệ giữa hai đối tượng có thể mang
bản chất sự sống hay không”.
4
Còn tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học truyền thông đại chúng
thì khẳng định: “Báo chí truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao
đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người”. Theo đó,
tác giả này định nghĩa, “truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt thông tin một
cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng như phát thanh, truyền hình”.
5
Nhìn chung, các tác giả trên bằng cách này hay cách khác, đã cố gắng đưa ra
những định nghĩa chung nhất về báo chí và tựu trung lại đều xem báo chí như một
phương tiện diễn đạt, chia sẻ thông tin giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội.

Những định nghĩa được đưa ra như một sự cố gắng để khẳng định nội hàm cơ bản
1
Dương Xuân Sơn (1995), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tr. 6
2
Dương Xuân Sơn (1995), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, tr. 47
3
Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tr. 1053
4
G.Endruweit và G.Trommsdorff chủ biên (2002), Từ điển xã hội học dịch từ tiếng Đức, Nhà Xuất bản Thế
giới, tr. 517
5
Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học truyền thông đại chúng, Nhà Xuất bản Trẻ, tr. 3
5
của báo chí. Tuy nhiên, trong một phạm vi nhất định, đây là những định nghĩa khá
rộng và chưa biểu thị hết các loại hình báo chí đang hiện diện trong xã hội và các loại
hình ấy được hiểu như thế nào, diễn đạt ra sao.
Chính từ những khiếm khuyết này mà, Luật Báo chí nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1989, được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 5 sửa đổi, bổ sung
và thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 (sau đây được gọi là Luật Báo chí sửa đổi,
bổ sung 1999) trong phần định nghĩa về báo chí đã không tập trung vào giải thích rõ
nội hàm của báo chí mà chỉ làm công tác liệt kê các loại hình báo chí. Điều 3 Luật
Báo chí quy định: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in
(báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh),
báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện
bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng
thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước
ngoài.
Điều 3 Luật Báo chí chưa được xem như một định nghĩa chính thức về báo chí
nhưng với cách liệt kê như trên đã chỉ rõ các loại hình báo chí trong xã hội và sẽ
được làm căn cứ chủ yếu để tìm hiểu tất cả các nội dung liên quan đến quản lý Nhà

nước đối với hoạt động báo chí.
1.1.1.2. Đặc điểm của báo chí
Với các khái niệm được trình bày như trên, phần nào đã cho chúng ta tiếp cận
một cách khái quát về báo chí và những biểu hiện cụ thể của nó. Dù các khái niệm
chưa được hoàn chỉnh, chuẩn mực bởi yếu tố lịch sử và những biểu hiện của hoạt
động báo chí nhưng nhìn chung báo chí có những đặc điểm chính sau:
a. Báo chí mang tính lịch sử
Trước nhu cầu thông tin và truyền tin của xã hội, báo chí đã xuất hiện và phát
triển cùng với sự phát triển của người. Báo chí là một phạm trù lịch sử, nó sẽ tồn tại
lâu dài cùng với sự tồn tại con người. Ngày nay, chưa có một nhà nghiên cứu nào có
thể tiên liệu trước sự mất đi của báo chí.
Chính một quá trình tồn tại song hành cùng với xã hội loài người và có những
ảnh hưởng, tác động đến đời sống, suy nghĩ, sinh hoạt và nhu cầu hưởng thụ văn hoá
của con người nên báo chí sẽ phải luôn có sự biến đổi cho phù hợp với thực tại. Vì
thế, qua mỗi thời kỳ lịch sử, báo chí đều có những biểu hiện rất khác nhau. Bên cạnh
đó, nội dung chuyển tải thông tin của báo chí và các hình thức biểu hiện của báo chí
cũng có sự thay đổi. Điều này có thể nhận thấy rõ nét nhất qua những thay đổi như
6
vũ bão của báo chí thế giới cũng như Việt Nam cùng với khả năng đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu của quần chúng. Cụ thể, khi mới hình thành, báo chí chỉ là những
trang chép tay, truyền nhau đơn giản và rất sơ khai, tường thuật các lễ hội, chiến trận,
phục vụ nhu cầu của một bộ phận nhất định trong xã hội. Thời kỳ này, báo chí
thường không gắn liền với lịch ích kinh tế và không mang tính thương mại mà chủ
yếu vì nhu cầu tìm hiểu thông tin của con người. Kể từ đó, báo chí có những bước
phát triển khá dài. Sau những bản chép tay là những bản báo in đầu tiên và phát triển
cho tới đa phương tiện như ngày nay, tất cả điều đó đều là kết quả của quá trình phát
triển lâu dài với nhiều thách thức. Tùy theo điều kiện lịch sử và xu hướng của công
chúng, hệ thống báo chí có những bước đi riêng của mình để đáp ứng lại những điều
đó. Trong xã hội hiện đại, báo chí dần dần mang tính toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tập
trung và độc quyền hóa với sự hiện diện của các tập đoàn thông tin, truyền thông đa

phương tiện, các loại hình báo viết, báo hình, báo nói, báo mạng và cả báo chí công
dân. Không những thế, theo một số nhà nghiên cứu chuyên ngành, báo chí hiện nay
càng có xu hướng “lá cải”.
Tại Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây, báo chí đã có nhiều thay đổi để
đuổi kịp sự phát triển của thế giới. Bên cạnh các loại hình báo in, báo truyền hình,
phát thanh đã hình thành khá lâu thì loại hình báo điện tử đã được triển khai mạnh mẽ
và đang hứa hẹn là một loại hình phát triển nhanh tại Việt Nam trong thời gian tới.
Nằm trong hệ thống báo chí thế giới, báo chí Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều
từ các xu hướng trong làng báo quốc tế.
Trên cơ sở tận dụng những thành tựu tiến bộ của nền báo chí thế giới, nền báo
chí Việt Nam đã tích cực đổi mới. Từ những trang báo nghèo nàn về mặt thiết kế, đến
nay những trang báo đã được thực hiện maquette đẹp hơn, không còn tình trạng cả
trang báo chỉ toàn chữ, các yếu tố đồ họa đã được chú trọng.
b. Báo chí mang tính quần chúng
Đây là một đặc điểm cơ bản và đặc thù của báo chí. Xuyên suốt quá trình hình
thành và phát triển của báo chí, tính chất quần chúng luôn có một vị trí rất quan trọng
và là yếu tố chủ yếu để báo chí tồn tại.
Nguyên nhân của sự xuất hiện báo chí cũng từ những nhu cầu có thực của một
bộ phận quần chúng trong xã hội. Từ nhu cầu tìm hiểu và truyền tải thông tin cũng
như mong muốn thông báo đến cộng đồng xã hội những sự kiện về quân sự, lễ hội
văn hóa xảy ra, báo chí xuất hiện và mang lại các giá trị to lớn về mặt tinh thần cho
con người. Bởi những biểu hiện tích cực ngay từ buổi sơ khai nên báo chí ngày càng
7
gắn chặt với quần chúng khó thể tách rời. Báo chí cần đến quần chúng để làm cơ sở
tồn tại của mình. Ngược lại, quần chúng cần đến báo chí như một món ăn tinh thần,
nhịp cầu chia sẻ thông tin và các chỉ dẫn có tính định hướng trong cuộc sống. Trong
giai đoạn hiện nay, khi mà công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và trở nên thông
dụng thì tính quần chúng của báo chí được biểu hiện rất rõ. Các thông tin mà báo chí
cung cấp hàng ngày có sức lan tỏa, huy động và hiệu triệu to lớn, tác động trực tiếp
và có hiệu quả đến các mối quan hệ xã hội và thực tiễn điều hành, quản lý xã hội của

Nhà nước.
Chính vì lẽ đó mà, ngay từ khi xây dựng Luật Báo chí đầu tiên, Nhà nước ta
đã thống nhất xác định: “Báo chí ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn
luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi
chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân”.
6
Nhận thức một cách sâu sắc đặc điểm này của báo chí sẽ giúp cho các nhà
quản lý rất nhiều trong nhiệm vụ quản lý hiệu quả các hoạt động báo chí, phát triển
các yếu tố tích cực của báo chí, giảm thiểu và hạn chế những nguy cơ gây hại trong
hoạt động báo chí, góp phần vào sự giữ gìn, ổn định an ninh trật tự xã hội, phát triển
kinh tế và chủ động hội nhập với thế giới.
c. Báo chí mang tính chính trị
Báo chí tự bản thân không mang tính chính trị nhưng các giai cấp, các lực
lượng xã hội luôn muốn lợi dụng nó để phục vụ cho lợi ích chính trị của mình. Vì thế
báo chí mang tính chính trị sâu sắc. Ngoài ra, báo chí không chỉ là nhu cầu thông tin,
giải trí về mặt tinh thần mà còn ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội, đến quan hệ quần
chúng, quan hệ dân tộc và quan hệ quốc tế. Báo chí chính là một sợi dây liên kết mọi
người và có tính hiệu triệu rất cao nên dễ dàng tác động đến các vấn đề nhạy cảm về
chính trị.
Khi mới hình thành, với hình thức sơ khai thì tính chính trị của báo chí không
được biểu hiện một cách rõ nét, hay nói cách khác, vấn đề chính trị trong báo chí
không được con người đề cập đến. Theo sự phát triển của xã hội và khi báo chí ngày
càng phát huy vai trò trong việc hiệu triệu quần chúng, sự đối kháng về quyền lợi
giữa các giai cấp khác nhau, giữa các quốc gia dân tộc, các vùng miền lãnh thổ với
nhau ngày càng cao thì tính chính trị của báo chí bộc lộ mạnh mẽ bằng quyền lực và
các chiêu bài được toan tính kỹ càng. Các lực lượng lãnh đạo tìm cách biến báo chí
6
Điều 1, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999
8

thành một công cụ để điều hành xã hội, bóc lột các tầng lớp nhân dân lao động, ru
ngủ ý thức phản kháng trong con người. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà báo
chí được coi là “quyền lực thứ tư”. Với phạm vi rộng, sức tác động tới công chúng
lớn của báo chí, nhiều nhà nước không thể bỏ qua công cụ hữu hiệu này để tác động
đến đời sống chính trị của người dân.
Trong giai đoạn hiện nay, do phạm vi ảnh hưởng và sức mạnh tác động to lớn
của mình, các tập đoàn báo chí trên thế giới đã trở thành một thế lực hay một thứ
quyền lực toàn cầu. Nó tác động vào dư luận xã hội một cách tự nhiên, vạch ra hướng
đi cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành thái độ, quan điểm chính trị - xã hội. Bằng
cách ấy, báo chí đã tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi cho những hành động
chính trị cụ thể nào đó. Muốn vận động quần chúng cho một chính sách hay một
quan điểm chính trị thì phải thông qua báo chí, bởi chỉ qua báo chí mới đến được
quảng đại quần chúng. Cho nên các hoạt động chính trị nào không được báo chí,
truyền thông loan tải xem như không đáng quan trọng hay thậm chí không hiện hữu.
Thành phần nào có khả năng thu hút và thuyết phục quần chúng, nhất là trước những
sự chọn lựa chính sách khó khăn hay phức tạp, thì sẽ thành công. Thiếu sự hỗ trợ của
báo chí thì thường dẫn đến tình trạng bị động, và dễ đưa đến những phản ứng cho
xong hơn là nắm lấy cơ hội hướng dẫn dư luận một cách chủ động về một hay nhiều
vấn đề nào đó.
Chính vì lẽ đó mà các quốc gia trên thế giới đang dần có xu hướng tập trung
nguồn lực vào báo chí. Ngay tại một quốc gia không thống nhất về chính trị như
Malaysia thì đảng chính trị cầm quyền và nhà nước vẫn chủ động tạo ra các nguồn
lực và điều kiện kinh tế, xã hội kỹ thuật, công nghệ để xây dựng các tập đoàn báo chí
nhằm mục đích tạo ra sức mạnh truyền thông chi phối sự kiện xã hội, phục vụ cho
các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị.
d. Báo chí mang tính kinh tế
Tuy báo chí ra đời với nhu cầu truyền tải thông tin cho xã hội nhưng các mục
tiêu thương mại cũng đã được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết. Nhất là trong nền
kinh tế thị trường và trong bối cảnh thương mại hóa toàn cầu hiện nay, hầu như mọi
lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng cáo, thương mại và

báo chí cũng không là ngoại lệ.
Nguồn lợi mà các tập đoàn báo chí mang lại thông qua hai dạng thức chủ yếu:
trực tiếp và gián tiếp. Nguồn lực trực tiếp thu được qua việc bán các sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ báo chí và hoạt động quảng cáo. Ở các nước công nghiệp phát triển,
9
nguồn thu từ quảng cáo ngày càng lớn, chiếm phần chủ yếu tổng doanh thu của các
tờ báo, các đài phát thanh truyền hình, còn những tờ báo phát không, có nghĩa là các
hợp đồng quảng cáo trở thành nguồn thu duy nhất. Nguồn lợi gián tiếp mà các tập
đoàn báo chí, truyền thông thu được qua việc tạo ra những ảnh hưởng chính trị, làm
thay đổi các chính sách của nhà nước, hình thành những điều kiện đầu tư thuận lợi,
những đơn đặt hàng béo bở. Về sâu xa thì đây mới là nguồn lợi to lớn hơn mà các tập
đoàn báo chí muốn hướng đến. Và là lý do quan trọng nhất để dẫn tới sự liên kết báo
chí với giới công nghiệp, tài chính, dịch vụ để hình thành những tập đoàn độc quyền
khổng lồ.
Tại các nước phương Tây, tập đoàn tư bản thông qua báo chí để quảng bá,
quảng cáo, giữ gìn, đánh bóng thương hiệu của mình, dùng báo chí làm cầu nối giữa
sản phẩm của mình với công chúng. Hơn nữa, báo chí lại là ngành kinh doanh hái ra
tiền. Vì thế mà từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ ràng. Tờ
Anzeiger (nghĩa là Người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730, theo nhà
nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những ai trong hay
ngoài thành phố muốn mua hay bán, cho thuê hay đi thuê, cho vay hay đi vay. Ở Mỹ,
trong thời gian thuộc địa, thương mại là một yếu tố tiên quyết của báo chí
7
. Riêng
ngành công nghiệp báo in Mỹ, thu nhập tăng từ 12.2 tỉ USD vào năm 1975 lên 54.9
tỉ USD năm 2000. Nói cách khác, báo in thu nhập tăng 2.5 lần từ quảng cáo năm
2000 so với năm 1950
8
.
Ngày nay, khi internet phát triển, các báo mạng xuất hiện cũng là môi trường

tốt để báo chí thu lợi nhuận bằng nhiều cách thức khác nhau. Và dần dần, đời sống
kinh tế bắt đầu chi phối sâu sắc đến các hoạt động của báo chí.
1.1.1.3. Lịch sử hình thành, phát triển của báo chí thế giới và Việt Nam
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, báo chí chính là một
hiện tượng xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thông tin, giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Mặc dù ra đời chậm hơn các hình thái ý thức xã hội khác nhưng báo
chí đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực xung kích bởi khả năng phản
ánh hiện thực xã hội đa dạng, sinh động và luôn vận động phát triển. Báo chí là một
bộ phận không thể thiếu trong đời sống của mọi người, mọi dân tộc. Vì thế, báo chí
luôn là công cụ hoạt động quan trọng của các nước trong cuộc đấu tranh không mệt
7
M, Emery và E, Emery (1988), The Press and America: An Interpretive History of the Mass Media, xuất bản
lần thứ 6, NXB Prentice-Hall, tr.19, 20
8
Robert G. Picard (2004), “Commercialism and newspaper quality”, Tạp chí Newspaper Research Journal, tr.
54
10
mỏi vì sự tiến bộ và văn minh nhân loại. Việc tìm hiểu về lịch sử phát triển của báo
chí là điều hết sức cần thiết.
a. Lịch sử hình thành và phát triển của nền báo chí thế giới
Mặc dù báo chí định kỳ trên thế giới mới xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII, nhưng
việc trao đổi thông tin giữa con người với nhau đã có từ thời cổ đại. Chính xác hơn,
những hình thức trao đổi thông tin đã xuất hiện trong buổi bình minh của nhân loại.
Sự phát triển của xã hội làm các thành viên phải quan hệ mật thiết với nhau và xuất
hiện nhu cầu cần phải trao đổi vể một vấn đề nào đó. Nhu cầu trao đổi chính là
nguyên nhân của sự ra đời ngôn ngữ và các hình thức giao tiếp.
Trong chế độ thị tộc, chức năng trao đổi thông tin đã hình thành nhưng chưa
trở thành một lĩnh vực độc lập. Khi nhà nước xuất hiện, hoạt động của các nhà hùng
biện giữ vai trò quan trọng trong việc phổ biến thông tin. Những nhà hùng biện nổi
tiếng như Démosthène (384-322 trước Tây lịch), Marcus Tullius Cicero (106-43

trước Tây lịch)… đã tạo ra những hiện tượng của thời tiền báo chí. Sự tuyên truyền
trong dân chúng của những người đưa tin nhằm mục đích tác động tới các hoạt động
tâm lý, tư tưởng của họ, hình thành nên quan điểm, ý niệm, mong muốn hướng họ
vào các hoạt động này hoặc hoạt động khác.
Thời kỳ này, ở các quốc gia rộng lớn, bên cạnh hình thức phổ biến tin tức
bằng truyền miệng đã xuất hiện việc gởi công văn bằng chữ viết đi khắp nơi. Những
bản tin khẩn cấp có hình dạng như những quyển sổ ghi chép tin tức bắt đầu được sử
dụng. Trong vương triều Ai Cập cổ đại đã xuất hiện loại “báo chí thảo” như viết trên
lá cây, ván gỗ, vỏ cây… Các nhà nước La Mã cổ đại (từ thế kỷ thứ I trước Tây lịch
đến thế kỷ thứ IV sau Tây lịch) đã xuất bản những bản tin tổng hợp, ban đầu được
xem như sắc lệnh, chỉ thị của Cesar. Tin tức được viết trên một tấm bảng bằng thạch
cao và treo nơi công cộng, dễ nhìn thấy. Các bản tin tổng hợp này được sao ra nhiều
bản và được gởi đến các thành phố, tỉnh thuộc đế quốc La Mã cho các quan chức địa
phương, các thủ lĩnh quân sự và dân chúng biết để thi hành mệnh lệnh của chính
quyền trung ương.
Ở Nhật Bản, trước khi xuất hiện kỹ thuật ấn loát, đã có các tờ báo bằng đất sét
nung có khắc tin tức. Tấm bảng đất sét nung cổ nhất được tìm thấy ở Nhật Bản có từ
năm 1615. Ở Anh cũng có những bản tin viết tay từ năm 1615. Riêng ở Nga, thời kỳ
Nga hoàng đã thực hiện bản tin với tên gọi “Đồng hồ chuông”. Song song đó, trong
xã hội cũng xuất hiện một bộ phận người làm công tác truyền tin. Trong thời kỳ
Trung cổ ở châu Âu, có những khu vực đã thành lập những văn phòng để lựa chọn và
11
phổ biến tin tức như Novellanti ở Roma, Serittori d’awiso ở Thụy Sĩ. Mặc dù chưa
hình thành nên những cơ quan thông tấn báo chí đúng nghĩa nhưng vẫn có những
nhóm có tổ chức thực hiện công việc phổ biến tin tức trong đại bộ phận công chúng
khác nhau. Những năm 30 của thế kỷ XVI, khi công nghệ in xuất hiện ở châu Âu thì
các bản tin bắt đầu được tập hợp và in hàng loạt. Đây được xem là các tiền đề vật
chất đầu tiên của báo chí.
Đến thế kỷ XVI, khi chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh, việc buôn bán giữa các
nước tăng lên làm nảy sinh nhu cầu tin tức về thương mại và các tin tức khác trong

tình hình mỗi nước và trên thế giới. Từ đó báo chí hình hình thành kèm và phát triển
cùng với tham vọng chính trị của giai cấp tư sản. Chính vì thế mà giai cấp tư sản đã
sử dụng kỹ thuật ấn loát cho việc xuất bản báo chí với mục đích kiếm tiền. Những tờ
báo in được phát hành định kỳ đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII ở châu Âu, trước hết
dành cho nhà buôn. Những tờ báo này chủ yếu đăng tải những tin tức về con đường
buôn bán, giá cả, nguồn hàng, sự dao động về giá hàng, tình hình thị trường trong
nước và thế giới… Các nhà xuất bản đã đáp ứng được mối quan tâm của giai cấp tư
sản đang lên trong việc cung cấp thông tin kinh tế. Riêng tờ “Gazette” phát hành
năm 1631 ở Pháp đã bắt đầu đăng những tin tức về tình hình chính trị.
Trong khi đó, cuộc đấu tranh cách mạng tư sản Anh vào thế kỷ XVII đã làm
xuất hiện những ấn phẩm cỡ nhỏ và cuối thế kỷ XVII đã có báo và tạp chí ra hàng
ngày. Ở Pháp thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều tờ báo liên chính trị. Riêng ở Nga vào
năm 1702 đã phát hành tờ Công báo để tuyên truyền cho cuộc cải cách của vua Nga
Piôt I (1672-1725).
Vào đầu thế kỷ XIX, báo chí đã trở thành yếu tố quan trọng trong đời sống
chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa v.v... Các tổ chức chính trị, khoa học, văn hóa và
cả giai cấp lãnh đạo đều sử dụng báo chí như một phương thức tạo ảnh hưởng của
mình đối với xã hội. Báo chí cũng trở thành phương tiện để tiến hành các cuộc đấu
tranh giai cấp và đã tạo ra nhiều trường phái khác nhau. Trong đó, báo “Sông Ranh
mới” (1848-1849) do Karl Marx làm Tổng Biên tập và Engel làm cộng tác viên đắc
lực đã trở nên khá nổi tiếng gắn với phong trào cộng sản thế giới.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, phim ảnh được chế tạo và sau đó radio, vô tuyến
truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, radio
đã trở thành phương tiện thông tin đại chúng quan trọng và từ cuối những năm 40 thì
vô tuyến truyền hình trở nên phổ biến.
12
Ngày nay, báo chí thế giới đã phát triển một bước vượt bậc và trở thành những
tập đoàn to lớn, hiện diện ở nhiều quốc gia. Không những thế, hoạt động báo chí trở
nên quốc tế hóa, thương mại hóa, chuyên môn hóa và độc quyền, tác động sâu sắc
đến đời sống xã hội và cũng ngày càng đáp ứng tốt hơn, hiệu quả hơn, toàn diện hơn

nhu cầu về thông tin của con người.
b. Lịch sử hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam
Lịch sử báo chí Việt Nam tính từ năm 1865 khi tờ “Gia Định báo” ra đời
đến nay đã được 145 năm. So với lịch sử báo chí trên thế giới, báo chí nước ta ra
đời và phát triển tương đối muộn nhưng với điều kiện Việt Nam chừng ấy năm cũng
là một dấu mốc lớn. Trong dòng chảy chung ấy có nhiều khuynh hướng báo chí khác
nhau: báo chí của thực dân đế quốc xâm lược; báo chí của những người Việt Nam
yêu nước, báo chí cách mạng và nổi bật lên là dòng báo chí cách mạng.
Theo các cột mốc thời gian, lịch sử báo chí Việt Nam diễn ra như sau: Ngày
15-4-1865, tờ báo Quốc ngữ Việt Nam đầu tiên - Gia Định báo ra số 1 tại Sài Gòn,
đánh dấu cột mốc khởi nguyên của báo chí Việt Nam. Tuy nhiên trong thời gian này,
thực dân Pháp đã siết chặt sự quản lý đối với báo chí và chính vì lẽ đó, trước sự đấu
tranh của công luận, vào năm 1881, chính quyền thực dân Pháp buộc phải ban hành
đạo luật để nới lỏng kiểm soát báo chí tại Nam Kỳ.
Đến năm 1888, tờ nguyệt san “Thông loại khóa trình” số 1 - tờ báo Quốc ngữ
thứ tư đầu tiên được phát hành. Và sau đó một thời gian dài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
sáng lập báo Thanh Niên và cho phát hành số đầu tiên vào ngày 21-6-1925, khai sinh
ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ngày 21-6-1925 đã trở thành ngày kỷ niệm Báo
chí cách mạng Việt Nam hàng năm. Tiếp theo đó, vào ngày 5-8-1930, tạp chí Cộng
sản - tạp chí lý luận và chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, ban đầu có
tên là Tạp chí Đỏ.
Liên tiếp trong các năm 1945 và 1946, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã
Việt Nam được thành lập. Cũng trong năm 1946, những người viết báo Việt Nam đã
tập hợp lại trong một tổ chức gọi là Đoàn Báo chí Việt Nam - tiền thân của Hội Nhà
báo Việt Nam hiện nay. Đến tháng 4-1949, lớp học về báo chí đầu tiên trong lịch sử
nước ta mang tên Huỳnh Thúc Kháng được Đoàn Báo chí kháng chiến mở để đào tạo
cán bộ báo chí, thu hút gần 60 học viên. Đây là lớp học báo chí đầu tiên trong lịch sử
báo chí Việt Nam. Và một năm sau, Đoàn Báo chí cách mạng được chấn chỉnh thành
Hội Những người viết báo Việt Nam. Ngày 2-6-1950, Chính phủ chính thức ban hành
quyết định thành lập Hội Những người viết báo Việt Nam và Hội gia nhập ngay Mặt

13
trận Liên Việt. Đại hội lần thứ nhất, Hội Những người làm báo Việt Nam họp ở chiến
khu Việt Bắc năm 1950. Đại hội đã ra bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội gồm 10
nhà báo, ông Xuân Thủy được bầu làm Hội trưởng. Hội Nhà báo Việt Nam cũng
chính thức được kết nạp vào tổ chức Tổ chức Quốc tế Các nhà báo (OIJ) nhân Đại
hội lần thứ III của tổ chức này, họp ở Phần Lan vào tháng 7-1950. Đúng 20 năm sau,
ngày 7-9-1970, Đài Truyền hình Việt Nam được thành lập và Việt Nam đến thời
điểm này đã hội đủ 3 loại hình báo chí truyền thống: báo viết, báo nói và báo hình.
Vào ngày 7-7-1976, sau khi miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Hội
Những người viết báo Việt Nam cùng với Hội Những người viết báo yêu nước và
dân chủ miền Nam hợp nhất thành Hội Nhà báo Việt Nam. Nhân kỳ họp thứ 6 vào
tháng 12-1989, Quốc hội khóa VIII quyết định thông qua Luật Báo chí (Luật Báo chí
được công bố và có hiệu lực từ năm 1990). Luật này thay thế Luật số 100-L002 ngày
20-5-1957, quy định chế độ báo chí. Và luật này được sửa đổi, bổ sung vào kỳ họp
thứ 5 Quốc hội khóa X diễn ra trong tháng 6-1999. Trước đó, vào tháng 4-1995, Hội
Nhà báo Việt Nam chính thức là thành viên Liên đoàn Báo chí các nước trong Hiệp
hội Đông Nam Á (CAJ).
Từ năm 1997, internet bắt đầu hoạt động tại Việt Nam đến nay, số lượng báo
điện tử, trang tin điện tử chính thức được thành lập. Loại hình này cũng tăng lên
nhanh chóng và dần chiếm ưu thế trong lĩnh vực báo chí.
Trong năm 2005, Đại hội lần thứ VIII Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua
Quy định về đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam gồm 9 điều, thông qua
Điều lệ sửa đổi Hội Nhà báo Việt Nam. Và gần đây nhất, vào tháng 8 - 2010, Đại hội
lần thứ IX Hội Nhà báo Việt Nam tiếp tục thông qua Điều lệ sửa đổi Hội Nhà báo
Việt Nam và khẳng định, báo chí Việt Nam tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận thức
chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân, động viên mọi tiềm năng, sức mạnh của
toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, báo chí cũng có trách nhiệm vạch
trần và làm thất bại mọi âm mưu phá hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch, tuyên
truyền quảng bá văn hóa dân tộc, những thành tựu mọi mặt của công cuộc xây dựng,

phát triển đất nước, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đồng thuận
xã hội, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước trên thế giới. Báo chí phải
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, tăng cường tính chuyên nghiệp, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp đổi mới của đất nước và nhu cầu thông tin ngày càng cao của xã
hội.
14
1.1.2. Các loại hình báo chí trong giai đoạn hiện nay
Bởi tính chất đặc thù của hoạt động báo chí và cách hiểu của từng quốc gia
khác nhau nên cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất chung về các loại hình báo chí.
Hơn nữa, hoạt động báo chí ở Việt Nam là hoạt động tuy đã có hơn gần 150 năm
nhưng so với thế giới vẫn còn khá mới mẻ. Chính vì lẽ đó mà những quan niệm và
các loại hình báo chí ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt và cần có thời gian tiếp thu,
hội nhập. Dù vậy, căn cứ vào Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999 và trên cơ sở tổng
hợp các nguồn tài liệu khác nhau, có thể khái quát các loại hình báo chí hiện nay như
sau:
1.1.2.1. Báo in
Báo in là tên gọi chung cho báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn…
Báo in là loại hình báo chí ra đời sớm nhất trong trong lịch sử nhân loại. Nhờ vận
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới đã giúp báo in có những bước tiến
trong công nghệ cũng như quy trình làm báo. Đồng thời báo in cũng ngày càng phong
phú, chất lượng hơn về nội dung thông tin và hình thức trình bày.
Chính thức có mặt như một tờ báo vào thế kỷ thứ XVII, từ một bản tin nhỏ
đến nay trên thế giới, báo in đã phát triển vượt bậc mà biểu hiện cụ thể là nhiều tập
đoàn truyền thông xuất hiện, chi phối đến các hoạt động khác của xã hội. Ở báo in,
có một đặc điểm cơ bản mà khó có thể tồn tại ở các loại hình báo chí khác, đó chính
là tính hiện diện. Báo in có thể hiện diện khắp nơi trên thế giới mà không phụ thuộc
kỹ thuật công nghệ hiện đại hay phương tiện truyền tải kỹ thuật số. Ngoài ra, tính
hiện diện của báo in còn được biểu hiện qua việc tiếp cận đến tất cả các đối tượng
độc giả khác nhau. Có lẽ nhờ đặc điểm này, báo in đã tồn tại với bạn đọc dù gặp sự
cạnh tranh khốc liệt bởi các loại hình báo chí khác, nhất là ở các nước phương Đông.

Ngày nay, báo in được thực hiện dưới nhiều hình thức: nhật báo, tuần báo, bán
nguyệt san, nguyệt san, lưỡng nguyệt san… Riêng ở các nước phát triển thì có báo
buổi sáng, báo buổi chiều, báo bình dân, báo quốc gia, báo địa phương, nhật báo đặc
biệt… Mỗi loại báo in như vừa nêu có các trình bày, nội dung phản ánh, đối tượng
độc giả khác nhau, thời gian phát hành khác nhau.
Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt của các phương tiện truyền thông báo chí
khác như radio, tivi và đặc biệt là mạng internet khiến cho báo in ngày càng thu hẹp
quy mô sản xuất, nhất là với sự ra đời của báo trực tuyến. Có nhiều nguyên nhân để
lý giải cho thực trạng này như: do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lượng độc
giả bị sút giảm nhanh chóng dẫn đến thiếu hụt kinh phí hay ngay trong bản thân tờ
15
báo in đã có những nhược điểm: Nguyên liệu tự nhiên (gỗ rừng) ngày càng cạn kiệt,
nguyên liệu nhân tạo thì đắt đỏ; tốc độ phân phối quá chậm (bằng cơ giới) nếu so
sánh với tốc độ tính bằng giây của báo số, gần như không có khả năng cập nhật,
chỉnh sửa trong khi tính “động” và tính “tương tác” là hai ưu điểm vượt trội của báo
số… Dù vậy, ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, báo in vẫn đang giữ vị trí độc tôn
và nhận được sự chọn lựa của nhiều độc giả đủ mọi thành phần.
1.1.2.2. Báo nói
Báo nói hay còn gọi là chương trình phát thanh, truyền thanh. Đây là loại hình
báo chí dựa trên nguyên tắc kỹ thuật truyền âm thanh để chuyển tải các chương trình
tin tức đến đông đảo công chúng thính giả cũng như nhóm thính giả đặc thù.
Thử nghiệm phát sóng phát thanh được tiến hành đầu tiên vào năm 1903, dưới
sự điều khiển của nhà phát minh người Đan Mạch Valdemas Paulsen (1869-1942) và
nhà thiết kế người Thụy Điển R.A. Fessebden (1866-1932). Chương trình âm nhạc
kèm lời của họ được phát vào ngày 24-12-1906, từ trạm Brant Rock ở bang
Massachusetts được xem như bước chào đời của phát thanh với tư cách là một loại
hình mới của truyền thông báo chí công cộng. Năm 1910, chương trình phát sóng đầu
tiên của nhà phát thanh Mỹ Lee de Forest (1873-1961) từ Nhà hát Opera New York
đã thành công rực rỡ, tạo một bước ngoặt mới cho báo nói. Tuy nhiên, phát thanh chỉ
khẳng định được vị trí của mình trong các loại hình báo chí và trong đời sống con

người khi các chương trình phát sóng được thực hiện đều đặn hàng ngày. Mốc son
khẳng định này được thực hiện ở Đài KDKD của Công ty Westinghous ở East
Pittsburg, khi phát sóng mở màn vào ngày 1-11-1920, với bản tin công bố kết quả
bầu cử tổng thống.
Phát thanh là một loại hình báo chí từng có thời gian dài thống lĩnh các
phương tiện truyền thông. Bởi lẽ phát thanh có phương thức và con đường tác động
đến thính giả một cách riêng biệt, trong đó từ ngữ với phương thức biểu đạt bằng lời
nói là phương tiện chuyển tải ý nghĩa và tình cảm, gắn liền với âm thanh và tiếng
động minh hoạ. Bản chất quá trình tác động của báo nói là một sự tương tác để đi đến
sự hiểu biết, là sự truyền tải ý tưởng, tình cảm bằng cách sử dụng hệ thống các ký
hiệu âm thanh phong phú. Đây là một quá trình liên tục mà chính bản thân báo viết
không hề có được. Hơn nữa, tốc độ chuyển tải thông tin của báo nói cũng nhanh hơn
báo viết gấp nhiều lần. Tuy nhiên, so với báo hình, thính giả tiếp nhận thông tin qua
phát thanh không có khả năng nhìn được bằng mắt. Người nghe không thể nhìn thấy
những dấu hiệu khác thường khi giao tiếp bằng lời nói như khi biểu đạt bằng nét mặt,
16
sử dụng tay để minh hoạ. Các hình thức giao tiếp bằng mắt, ngôn ngữ, cử chỉ không
thể được sử dụng để chuyển tải ý nghĩa thông điệp. Bởi vậy, đây là một điểm yếu
buộc báo nói phải phát huy những lợi thế để bù đắp.
Theo xu thế phát triển, một mặt các phương tiện truyền thông đại chúng trong
đó có báo nói phải không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của công chúng,
mặt khác bản thân công chúng lại liên tục đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt
động của hệ thống này. Đó chính là những đòi hỏi của bạn nghe đài trước cuộc sống,
và những nhu cầu tinh thần ngày một đa dạng phong phú. Cũng chính điều này đang
là lý do tạo ra cạnh tranh quyết liệt giữa các cơ quan truyền thông đại chúng để làm
sao ngày càng có thêm nhiều bạn đọc, người nghe, người xem. Ở các đô thị lớn, đời
sống kinh tế tăng trưởng hơn, kèm theo đó là sự phát triển mạnh mẽ của các phương
tiện thông tin đại chúng. Do đó cách thức tiếp nhận thông tin của công chúng có
nhiều thay đổi. Công chúng hiện nay và sau này vẫn luôn luôn cần đến một âm thanh
không có hình ảnh để có được cái quyền tự họ mỗi buổi sáng, rút ra được cái ý nghĩa

của những tin tức lắng nghe được qua báo nói.
Báo chí truyền thông ngày nay đa dạng hoá thông tin: thông tin nhiều chiều,
thông tin sâu cho từng đối tượng, cho từng nhóm nhỏ càng phát triển. Mỗi nhóm
công chúng và mỗi người có quyền tự lựa chọn cho mình một hình thức tiếp nhận
thông tin phù hợp thì phát thanh vẫn là một phương tiện thông tin được nhiều người
ưa thích. Nhờ ứng dụng những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ mới, ưu thế của báo
nói ngày càng được khẳng định rõ rệt hơn. Từ công nghệ bán dẫn sang cáp quang, rồi
kỹ thuật số, ngày nay báo nói vẫn không ngừng tận dụng mọi thành quả của công
nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người không chỉ ở miền quê xa
xôi, thiếu thốn mà cả trong các căn hộ hiện đại trong thành phố. Điển hình như trước
đây nước Mỹ chỉ có các đài phát thanh lớn là VOA, ABC thì nay có hàng trăm đài
phát thanh. Tuy vậy, cuộc cạnh tranh của báo nói với báo hình và cả báo in là tất yếu
và chắc chắn sẽ không phân thắng bại, vì mỗi loại hình đều có ưu điểm riêng, con
đường riêng để đến với công chúng.
1.1.2.3. Báo hình
Báo hình là chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự được
thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau, phát thông tin đi xa bằng cả âm
thanh và hình ảnh động.
Cả ngôn ngữ hệ Ấn - Âu đều thể hiện khái niệm báo hình bằng cách kết hợp
hai từ tố Hy Lạp gồm tele (xa) và video (nhìn). Khác với các phương tiện truyền
17
thông nghe nhìn khác như điện ảnh, video, CD-Rom, báo hình có thể phản ánh sự
kiện một cách trực tiếp, đưa thông tin ở thời điểm hiện tại. Báo hình cũng khác biệt
với báo in và báo nói khi đây chính là hệ thống kỹ thuật chuyển hình ảnh, tiếng động
đi xa qua tín hiệu truyền hình và được tiếp nhận trực tiếp qua màn huỳnh quang.
Chức năng truyền thông của báo hình là sáng tạo và phát truyền các chương trình
truyền hình.
Những thí nghiệm phát hình ảnh động đi xa được tiến hành từ nửa đầu thế kỷ
XX. Từ năm 1935 ở Đức và Pháp, công chúng đã được xem báo hình khá đều đặn.
Ngày 2-11-1936 được xem là ngày khai sinh của báo hình khi Đài Phát thanh BBC

của Anh sử dụng các bức ảnh của truyền hình điện tử để phát sóng cho đông đảo
người xem. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô (năm 1939) rồi tới Mỹ
(1942) đã có các chương trình truyền hình phát sóng đều đặn. Tuy nhiên, do chiến
tranh đã không cho phép truyền hình tiếp tục phát triển.
Trong và sau chiến tranh, nước Mỹ là nơi duy nhất vẫn duy trì chế độ phát
sóng đều đặn, những phát minh công nghệ cơ bản vẫn được áp dụng nhanh chóng,
vượt lên trước các nước tiên tiến qua các cột mốc như sau: Năm 1954 phát thanh
màu, năm 1956 sáng chế được băng ghi hình điện tử, năm 1962 truyền phát bằng vệ
tinh, từ năm 1960 đến năm 1970 có truyền hình cáp, năm 1975 có chương trình HBO
trả tiền trước, năm 1981 có chương trình thông tấn đặc biệt CNN v.v...
Ở Việt Nam, ngay trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt, các chương trình thí
nghiệm về truyền hình đã được Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện. Ngày 7-9-1970,
nhân dân Hà Nội đã được tận mắt chứng kiến những hình ảnh truyền hình đầu tiên.
Tại miền Nam Việt Nam, năm 1962 đã xuất hiện đài truyền hình phục vụ quân đội
Mỹ-ngụy. Và tháng 5-1976, Đài Truyền hình Việt Nam với tư cách là đài truyền hình
quốc gia của đất nước Việt Nam thống nhất đã chính thức phát sóng và được xem
như một bước phát triển mới của lịch sử báo chí Việt Nam.
Từ kỹ thuật phát sóng lục địa, thông qua các đài phát mặt đất, ngày nay báo
hình đã được phân phối qua vệ tinh và qua mạng cáp quang. Chính những biểu hiện
ưu việt về cả hình ảnh, âm thanh sinh động được truyền dẫn trực tiếp liên tục và sự
đầu tư về kỹ thuật chuyên sâu nên báo hình dù xuất hiện sau nhưng đã trở nên phổ
biến và có tính cạnh tranh cao so với loại hình báo chí khác. Sự hấp dẫn đã tạo cho
báo hình những bước đi thuận lợi và thể hiện sự đột phá để phục vụ khán giả ngày
càng tốt hơn trong điều kiện kén chọn của người xem, nghe và đọc như hiện nay.
18
Điều này đã giúp cho báo hình liên tục đứng vững trước thực trạng các loại hình báo
chí khác có dấu hiệu xuống dốc trong thời kỳ bùng nổ thông tin hiện nay.
1.1.2.4. Báo điện tử
Báo điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên mạng thông tin máy tính,
tuy chỉ vừa mới xuất hiện trong vài năm trở lại đây nhưng đã có một chỗ đứng nhất

định trong lòng độc giả. Sự xuất hiện của báo mạng điện tử đã gây ra những xáo trộn
đối với các loại hình báo chí khác khi tạo nên cuộc cạnh tranh với báo hình, báo nói,
báo viết và báo điện tử đang chiếm ưu thế, khẳng định sức mạnh của một loại hình
báo ra đời sau nhưng đầy tiềm năng.
Tờ báo điện tử đầu tiên chính thức có mặt vào tháng 10-1993 bởi Khoa Báo
chí Đại học Florida. Đến năm 1994, phiên bản online của tạp chí Hotwired chạy
những banner quảng cáo đầu tiên và hàng loạt báo khác ở Mỹ mở website. Sau một
thời gian ngắn, báo điện tử đã vươn lên chiếm ngôi của những loại báo lúc bấy giờ
như báo in, báo hình hay báo nói.
Ưu thế đầu tiên của báo điện tử chính là khả năng cập nhật thông tin nhanh
nhạy, cùng với sự phong phú, đa dạng của các thông tin này. Với cùng một thông tin,
báo hình hoặc báo nói phải đợi đến giờ phát sóng của các bản tin, hay với báo in thì
phải chờ công đoạn kiểm duyệt thông tin, in báo và đến tận ngày phát hành thì thông
tin mới đến được tay bạn đọc. Trong khi đó, với báo mạng bạn chỉ cần một cái nhấp
chuột, tất cả những thông tin nóng hổi nhất sẽ luôn được cập nhật, gần như cùng một
lúc với sự kiện diễn ra. Người đọc hiện nay rất cần sự sự nhanh nhạy trong các thông
tin và báo điện tử đã đáp ứng được nhu cầu đó. Hơn nữa, những thông tin mà báo
mạng đưa ra đều được trải rộng trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế - chính trị đến lĩnh vực
văn hóa - xã hội hay thể thao, thời tiết, người đọc có thể tùy chọn theo từng mục đề
mà mình thích. Luợng thông tin mà báo mạng đưa ra không hề thua kém những loại
hình báo chí khác về sự đa dạng, phong phú.
Một trong những lợi thế khác của báo mạng chính là ở khả năng lưu trữ dường
như là vô tận của các thông tin. Người đọc có thể tìm kiếm các tài liệu cần thiết, sau
đó có thể dễ dàng lưu (save) các thông tin đó để phục vụ cho mục đích của bản thân.
Những tài liệu đó sẽ được lưu trữ một cách an toàn mà không chịu ảnh hưởng của
thời gian, không gian. Báo mạng còn có tính chủ động cao hơn so với các loại hình
báo chí khác. Độc giả có quyền được lựa chọn thông tin một cách nhanh chóng.
Ngoài ra, giữa độc giả và tòa soạn của một tờ báo mạng luôn có sự tương tác rất cao.
Người đọc dễ dàng gửi ý kiến về một bài báo ngay lập tức (đối với một số tờ báo
19

mạng phía dưới bài báo luôn có một khung dành riêng cho ý kiến độc giả), và qua đó
tòa soạn cập nhật những nhận xét hay những thông tin nóng được nhanh chóng hơn.
Ngoài ra, báo điện tử còn thể hiện ưu thế bởi yếu tố đa phương tiện
(multimedia). Có thể coi báo điện tử hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo
nói (audio) và báo hình (video). Người đọc lướt web không chỉ được cập nhật thông
tin dưới dạng chữ viết mà còn có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền
hình ngay trên các website báo chí. Ưu thế này không hề xuất hiện ở các loại hình
báo khác.
Chính những sự ưu việt trên đã giúp loại hình báo điện tử phát triển nhanh
chóng, đồng thời đẩy những loại hình báo chí khác rơi vào khủng hoảng. Đầu tiên
phải kể đến báo in khi vào năm 2008, 5 tờ báo lớn nhất nước Mỹ đều sụt giảm lượng
phát hành. Tờ New York Times giảm 3.6%, Los Angeles Times giảm 5.2%, Daily
News giảm 7.2%, New York Post giảm 6.3%. Tờ nhật báo hàng đầu Christian Sciene
Monitor (CSM) cũng tuyên bố sẽ đình bản in hằng ngày từ tháng 4-2009. Hàng loạt
vụ phá sản của báo chí Mỹ cũng xảy ra trong năm 2008, khi mà báo điện tử vươn lên
chiếm thế độc tôn.
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của internet càng làm cho báo điện tử lớn
mạnh và từ đó cũng tạo cho các loại hình báo chí khác có những sự thay đổi không
ngừng để chiếm lại vị trí của mình trong lòng độc giả. Bên cạnh việc cải tiến nội
dung, các loại báo này đang nỗ lực trong việc đổi mới cách trình bày hay giao diện,
đầu tư kỹ thuật và phát triển thêm nhiều chương trình phát thanh, phát sóng đa dạng,
phong phú. Qua đó, độc giả là người sẽ thụ hưởng nhiều thành quả tích cực từ quá
trình cạnh tranh này.
20
1.1.3. Giá trị và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội
Là một loại hình hoạt động mang tính chính trị xã hội, ra đời do nhu cầu
khách quan của xã hội và phát triển đến một trình độ nhất định, báo chí giữ một vai
trò hết sức quan trọng. Bản thân sự ra đời, tồn tại và phát triển của báo chí đã khẳng
định một cách khách quan giá trị và ý nghĩa của nó trong đời sống xã hội. Ở phương
diện nhà nước, bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong các quốc gia trên thế giới

cũng đều sử dụng báo chí như một công cụ để tác động vào tư tưởng, tình cảm của
công chúng, nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những định hướng có giá trị cho
cuộc sống. Dù ở bất cứ chế độ nào thì báo chí vẫn là công cụ của một giai cấp, trong
cuộc đấu tranh để xác lập hình thái kinh tế - xã hội, bao gồm cơ sở kinh tế và kiến
trúc thượng tầng, phù hợp với lợi ích cơ bản, lâu dài của nó. Hiểu theo nghĩa hẹp,
hoạt động báo chí nhằm mục tiêu góp phần làm cho hệ tư tưởng của giai cấp đang
đóng vai trò quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử, trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội.
Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, của Nhà nước, của các tổ
chức, đoàn thể xã hội, là diễn đàn của nhân dân khi khẳng định về chức năng và vai
trò của báo chí trong Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999 như sau: “Báo chí nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu
đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân”
9
.

Vai trò của báo chí trong đời sống chính
trị - xã hội thể hiện rõ trong hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng đất nước. Ngay khi chưa có Đảng lãnh đạo, các
lực lượng xã hội đã có những tờ báo hoạt động rất tích cực và đã gây được sự chú ý
của dư luận xã hội về các vấn đề chính trị. Báo chí đã trở thành vũ khí quan trọng của
nhân dân ta trong các cuộc đấu tranh chính trị. Báo chí thật sự đã trở thành vũ khí sắc
bén trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, mặt khác nó cũng tạo những điều kiện cần thiết
để cho mọi người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Vì vậy, ý
nghĩa của thông tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thông tin có định hướng
đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã
hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo những
chiều hướng có chủ định. Báo chí không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà
còn là hình thức tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể; điều này càng

9
Điều 1, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999
21
phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Báo chí thể hiện vai trò trong đời
sống xã hội như sau:
a. Báo chí định hướng tư tưởng, dư luận
Báo chí là công cụ, là vũ khí quan trọng trên mặt trận tư tưởng và định hướng
dư luận. Đây là một nội dung đặc biệt được lưu tâm của các chính đảng, các hệ thống
xã hội cũng như các giai cấp nắm quyền lãnh đạo trong xã hội. Trên mặt trận tư
tưởng, báo chí giữ vai trò liên kết những thành viên riêng lẻ của xã hội thành một
khối thống nhất dựa vào một lập trường chính trị chung, thái độ tích cực để xây dựng
và cải tạo xã hội. Một khi nhận thức được tính ưu việt của chế độ xã hội, mục đích,
hành động và kết quả phù hợp với lợi ích của mình, người dân sẽ tự nguyện thực hiện
các nhiệm vụ của mình trên những điều kiện cụ thể.
Ngoài ra, với khả năng tác động mang tính rộng lớn, toàn diện, nhanh chóng
và mạnh mẽ vào xã hội, hoạt động của báo chí có vai trò hết sức to lớn trong công tác
tư tưởng. Báo chí trong quá khứ cũng như hiện tại được xem như cầu nối việc giáo
dục lý tưởng, chính trị, xây dựng nếp sống lành mạnh gắn liền với việc phát huy
những giá trị tinh thần to lớn của nhân loại. Lịch sử cũng chỉ ra rằng, bất cứ chế độ
nào trên thế giới cũng sử dụng và khai thác triệt để các phương tiện truyền thông đại
chúng nhằm phục vụ, củng cố và duy trì chế độ đó. Trong xã hội hiện đại, người nào
nắm được các phương tiện thông tin đại chúng có thể “điều khiển” mọi người theo ý
muốn, có nghĩa là dùng báo chí để hàng ngày phát đi những thông điệp chính trị
nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng, định hướng dư luận và thuyết phục quần chúng làm
theo ý muốn của mình.
Ở nước ta, báo chí chính là phương tiện dùng để “tuyên truyền, phổ biến, góp
phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, thành tựu của đất nước theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp
phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của
nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy

dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
10
. Đồng thời báo chí còn có vai trò “phản ánh
và hướng dẫn dư luận xã hội, làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân
dân”
11
. Chính vì lẽ đó, báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng - hướng
dẫn dư luận của Đảng, là công cụ tham gia quản lý xã hội; công cụ giám sát cán bộ,
đảng viên về đạo đức lối sống, giữ vai trò phản biện xã hội, đấu tranh chống các luận
10
Khoản 2, Điều 6, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999
11
Khoản 3, Điều 6, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999
22
điệu sai trái, có chủ đích của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội nhiều năm qua. Trong đó, các vụ việc có sự tham gia tích
cực của báo chí như: Vụ gây rối trật tự ở Tây Nguyên 2004, vụ xét xử Nguyễn Văn
Lý 2008, vụ đòi đất trái phép ở 178 Nguyễn Lương Bằng, 42 Nhà Chung - Hà Nội và
Nhà thờ Tam Tòa ở Quảng Bình…
12
b. Báo chí góp phần tạo nên những phát triển về mặt kinh tế
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường như hiện hay, những thông
tin chính xác, kịp thời của báo chí là sức mạnh tạo nên thắng lợi cạnh tranh. Không
một phương tiện truyền thông nào giữ vai trò quan trọng như báo chí trong việc cung
cấp những thông tin có giá trị đó về lĩnh vực kinh tế cần thiết như: thông tin thị
trường, hàng hóa (bao gồm thông tin giá cả, sức tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến
đổi thị hiếu tiêu dùng)…; thông tin thị trường tài chính (tiền tệ, vốn, giá cả, cổ phiếu,
sự vận động của các dòng tài chính), thị trường lao động, vật tư, thiết bị, đặc biệt là
thị trường công nghệ (chu kỳ công nghệ, sự chuyển giao công nghệ).

Báo chí không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần túy mà còn có
thể hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và kinh doanh. Với
việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại trong quản lý, kinh doanh và
áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí trong sản xuất. Không những thế, báo chí
cũng góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội
thông qua việc dự báo, cảnh báo những khó khăn, thách thức, tai họa cần phải vượt
qua hay né tránh; phát hiện, đề xuất với Đảng, Nhà nước những khó khăn, bất cập,
vướng mắc cần tháo gỡ. Đôi khi một bài báo tốt, có tầm, sắc bén, kịp thời có thể cứu
một doanh nhân khỏi bị oan sai, cứu doanh nghiệp khỏi đổ bể. Trong thời gian qua,
rất nhiều doanh nghiệp trong nước đã phát triển đều đặn, đạt được những thành tựu
to lớn về kinh doanh, lợi nhuận và trở thành những tập đoàn kinh tế lớn đều có phần
đóng góp không nhỏ của báo chí như: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT), Tập
đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam, Cà phê Trung Nguyên, Công ty Cổ phần Sữa
Việt Nam (Vinamilk)...
13
12
Bộ Thông tin Truyền thông (2010), Báo chí với công tác tuyên truyền, đấu tranh chống các luận điệu sai
trái - Tài liệu lưu hành nội bộ, NXB Thông Tin và Truyền Thông, Hà Nội, tr. 28
13
Http://vneconomy.vn/65574P0C5/bao-chi-va-doanh-nghiep-de-cung-nhau-boi-ra-bien-lon.htm
23
c. Báo chí làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần xã hội
Làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của xã hội là một trong những vai
trò mang tính khách quan của báo chí. Bỡi lẽ, báo chí là kênh truyền bá một cách sinh
động nhất các giá trị văn hóa, tinh thần để nâng cao trình độ hiểu biết và đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ, giải trí của người dân.
Vai trò của báo chí trong lĩnh vực văn hóa thể hiện trên nhiều mặt. Thứ nhất,
báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hóa dân tộc, nhất là ngôn ngữ, báo chí là nơi
vừa giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật ngữ mới cả trong cách viết và cách thể

hiện, trong việc chuẩn ngôn ngữ nói và viết. Thứ hai, báo chí đăng tải các tác phẩm
văn học nghệ thuật, khoa học, âm nhạc và các lĩnh vực khác. Thứ ba, qua các phương
tiện thông tin đại chúng, công chúng có thể tiếp nhận nhiều tri thức văn hóa đa dạng,
phong phú của các dân tộc khác để làm giàu cho văn hóa dân tộc mình. Thứ tư, báo
chí góp phần nâng cao văn hóa, giải trí, làm cho mọi người ngày càng hiểu nhau, xích
lại gần nhau hơn, chia sẻ tâm tư, tình cảm, cùng học tập và tiến bộ trong cuộc sống.
Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao, sự hình thành nhân
cách, lối sống của con người chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội,
trong đó, có báo chí. Do vậy, trong giai đoạn mới, để thực hiện tốt vai trò của mình,
các phương tiện thông tin báo chí ở nước ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu
tranh chống các tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá văn hóa dân tộc và tinh hoa văn
hóa nhân loại; xây dựng nền đạo đức mới trên nền tảng đạo lý dân tộc; vun đắp, hoàn
thiện hình mẫu con người Việt Nam hiện đại, kế thừa nét đẹp truyền thống của cha
ông; nâng tầm trí tuệ, tri thức khoa học, công nghệ của mỗi công dân. Muốn vậy, báo
chí và người làm báo cần nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội và nghĩa
vụ công dân, đồng thời nhanh chóng đổi mới nhiệm vụ để thông tin không chỉ đúng
mà còn hay, sinh động, hấp dẫn cho công chúng.
1.2. Quản lý Nhà nước đối với báo chí
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí
1.2.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với báo chí
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội,
là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, là
diễn đàn của nhân dân lao động. Báo chí không chỉ làm nhiệm vụ thông tin mà còn
thực hiện công tác tuyên truyền làm cho các hoạt động xã hội phát triển theo định
hướng của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy báo chí cũng là hình thức hoạt
động cần sự quản lý của Nhà nước.
24
Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác liên quan đến quản lý Nhà
nước đối với báo chí. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung được nội hàm của cụm từ này,
chúng ta đi từ khái niệm quản lý.

Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Theo cách hiểu
chung nhất của điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay
quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục
đích đã định trước.
Nói tóm lại:
- Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng
quản lý.
- Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt
động chung của con người.
- Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của
con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hành
động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước.
- Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục
tùng và tạo sự thống nhất trong quản lý.
Nói đến quản lý Nhà nước đối với báo chí là nói đến những hoạt động của bộ
máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và phù hợp với xu
thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống
chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các
quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nhà
nuớc có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo báo chí phát triển, đáp ứng các nhu cầu về
thông tin của nhân dân, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo
chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” gây
mất an ninh chính trị và trật tự trong nước.
Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với báo chí
là tổng thể những hoạt động của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của
pháp luật đảm bảo cho báo chí thực hiện được nhiệm vụ thông tin của mình và chịu
sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật.
Hay nói cách khác, “Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất

kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy
25

×