Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN Biểu cảm về tác phẩm văn học bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.75 KB, 15 trang )

1
PHOỉNG GD HUYEN Vĩnh Bảo
TRƯờNG THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài:
Biểu cảm về tác phẩm văn học - bài thơ
"Cảnh khuya" của nhà thơ Hồ Chí Minh
Ngời viết: Tạ Thị Thanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trờng THCS Nguyễn Bỉnh
Khiêm
Năm học 2008- 2009
Cộng hoà x hội chủ nghĩa việt namã
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản cam kết
I. Tác giả:
Họ và tên: Tạ Thị Thanh
Ngày, tháng, năm sinh: 01/ 01/1955
Đơn vị: Trờng THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
Huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng.
Điện thoại: 031 3885190
II. Tên sản phẩm:
Biểu cảm về tác phẩm văn học - bài thơ "Cảnh khuya"
của nhà thơ Hồ Chí Minh
III. Cam kết:
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này là sản phẩm của cá nhân tôi.
Nếu có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với 1 phần hay toàn bộ sản phẩm
sáng kiến kinh nghiệm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trớc lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo sở GD&ĐT về tính trung thực của bản cam kết này.
Vĩnh Bảo, ngày 06 tháng 02 năm 2009.


Ngời cam kết
Tạ Thị Thanh
2
Danh sách các sáng kiến kinh nghiệm đã viết
STT Tên SKKn
Thuộc
bộ môn
Năm viết
Xêp
loại
1
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi Ngữ Văn 2003 - 2004
A
2
Cảm thụ truyện Cổ tích Ngữ Văn 2004 - 2005
B
3
Dạy Tập làm văn miêu tả Ngữ Văn 2005 - 2006
B
4
Phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy truyện dân gian
Ngữ Văn 2006 - 2007
B
3
Phần I
Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài :
Biểu cảm về tác phẩm văn học là một vấn đề khó đối với học sinh lớp 7.
Là một giáo viên dạy ngữ văn THCS tôi nhận thấy kiểu bài tập làm văn biểu

cảm về tác phẩm văn học thể hiện khá rõ năng lực cảm thụ, t duy văn học của
học sinh. Trong những năm gần đây, Bộ giáo dục đã chỉ đạo việc đổi mới nội
dung chơng trình và cải tiến phơng pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Theo tinh
thần đổi mới phơng pháp, học sinh có cơ hội tự bộc lộ khả năng sáng tạo của
mình. Đặc biệt phân môn tập làm văn lớp 7 cấu trúc chơng trình đã có sự thay
đổi kiểu bài biểu cảm về tác phẩm văn học đã thay thế cho kiểu bài phát biểu
cảm nghĩ về tác phẩm văn học và kiểu bài phát biểu cảm nghĩ về nhân vật văn
học (chơng trình cũ). Với khái niệm kiểu bài biểu cảm yêu cầu đợc mở rộng
hơn . Biểu cảm là lĩnh vực rộng lớn gắn với toàn bộ đời sống tình cảm, cảm xúc
đánh giá của con ngời và nhu cầu biểu cảm của nó. Tuy vậy một số học sinh vẫn
nhầm lẫn và cho rằng biểu cảm giống nh phát biểu cảm nghĩ, đó là vấn đề nhận
thức cha rõ ràng vì vậy trong đề tài nghiên cứu này tôi muốn trình bày những kĩ
năng cần thiết giúp học sinh làm bài tập làm văn biểu cảm đạt yêu cầu cao đáp
ứng với mục tiêu chơng trình ngữ văn lớp 7.
2. Mục đích
Trong đề tài nghiên cứu tôi muốn chỉ ra nét khác biệt và rộng lớn của phần
biểu cảm tác phẩm văn học ở lớp 7, đa ra những quan điểm cụ thể về văn biểu
cảm, phơng pháp hớng dẫn học sinh làm bài văn biểu cảm, các kĩ năng quan
trọng khi tạo lập văn bản biểu cảm. Định ra những thao tác cơ bản cần thiết để
học sinh định hớng tốt và có khả năng biểu cảm sâu sắc về một vấn đề của cuộc
sống hay một tác phẩm văn học.
3. Kết quả
Tôi đã vận dụng và dần dần hoàn thiện đề tài biểu cảm qua những năm
học gần đây khi đợc phân giảng dạy môn ngữ văn 7 và đội tuyển ngữ văn 7. Qua
thực tế tôi thấy học sinh rất ngại và khó khăn khi tiếp cận với kiểu bài biểu cảm.
Sau khi vận dụng đề tài, hớng dẫn cho học sinh, các em đã có kĩ năng biểu cảm
khá tốt.
4
4. Đối tợng phạm vi nghiên cứu, kế hoạch, thời gian nghiên cứu.
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đi sâu trình bày kinh nghiệm biểu cảm

một tác phẩm văn học. Bởi vì biểu cảm là một vấn đề khá rộng nh biểu cảm về
con ngời, sự vật, khung cảnh thiên nhiên
Biểu cảm về một tác phẩm văn học là trình bày những cảm xúc liên tởng,
tởng tợng, suy ngẫm về nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
Từ hiểu biết tìm tòi nghiên cứu về kiểu bài tập làm văn biểu cảm nói
chung tôi đi sâu tìm ra giải pháp cụ thể để học sinh làm bài biểu cảm về tác
phẩm văn học qua các kĩ năng cơ bản:
- Trình bày cảm xúc
- Liên tởng
- Tởng tợng
- Suy ngẫm
Về một tác phẩm văn học.
Sau nhiều năm đứng lớp môn ngữ văn 7 đối chiếu với chơng trình mới
hiện hành tôi đã rút ra đợc một số kinh nghiệm hớng dẫn học sinh trình bày một
bài văn biểu cảm cụ thể khá thành công. Đó là biểu cảm về bài thơ "Cảnh khuya"
của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Phần II: nội dung
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Biểu cảm là loại văn bản theo chơng trình mới hiện hành, trớc đây là kiểu
bài "phát biểu cảm nghĩ đối với tác phẩm văn học ở lớp 6 và phát biểu cảm nghĩ
về nhân vật văn học ở lớp 7". Chơng trình đổi mới hiện hành đã đặt lại vấn đề,
phạm vi biểu cảm đợc mở rộng hơn cảm nghĩ. Theo tôi cảm nghĩ chỉ là một phần
của văn biểu cảm.
Phạm vi của văn biểu cảm rộng hơn cảm nghĩ, nó gắn liền với toàn bộ đời
sống, tình cảm, cảm xúc, đánh giá của con ngời về một tác phẩm văn học.
Văn biểu cảm là một phạm trù rộng, bao gồm biểu cảm về sự vật, con ng-
ời, tác phẩm văn học. Mục đích của biểu cảm là ngời viết (tác giả) bày tỏ tình
cảm, cảm xúc về đối tợng nhằm khơi gợi sự đồng cảm nơi ngời đọc, sao cho ngời
đọc cảm nhận đợc tình cảm, cảm xúc của ngời viết.
5

Trong thực tế con ngời có nhu càu biểu cảm rất lớn bởi con ngời có tình
cảm và nhu cầu giao lu tình cảm. Tình cảm trong văn biểu cảm thờng là những
tình cảm cao đẹp, giàu giá trị nhân văn, nó làm phong phú tâm hồn con ngời, dẫn
dắt con ngời tới chân thiện mĩ.
Vì vậy văn biểu cảm có tác dụng quan trọng trong việc bồi dỡng t tởng
tình cảm cao đẹp trong sáng cho học sinh.
II. thực trạng nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm
Trong chơng trình ngữ văn lớp 7 ở cấp THCS văn biểu cảm có một vị trí
quan trọng trong suốt học kỳ I với số tiết lí thuyết là (12 tiết), thực hành là 4 tiết.
Suốt trong học kỳ I học sinh lớp 7 lại chủ yếu đọc hiểu các văn bản trữ
tình nh: Thơ ca dân gian, thơ ca trung đại, các tác phẩm tuỳ bút, văn bản nhật
dung mang đặm chất trữ tình. ( Có tới 23 văn bản= 20 tiết ở phân môn )
Vì thế biểu cảm về một tác phẩm văn học là một yêu cầu hết sức quan
trọng ở môn ngữ văn lớp 7. Qua thực tế giảng dạy tôi thấy học sinh còn gặp
nhiều khó khăn bỡ ngỡ với kiểu bài biểu cảm về tác phẩm văn học. Trong quá
trình làm bài biểu cảm học sinh thờng có xu hớng lạc sang phân tích tác phẩm
văn học hoặc cá biệt có em diễn xuôi kể lại tác phẩm rồi lên lên cảm nghĩ một
cách gò bó, công thức, cha biết biểu cảm bằng sự rung cảm trớc con ngời, sự vật,
ngôn từ của tác phẩm. Học sinh cha có kĩ năng tởng tợng, liên tởng suy ngẫm về
con ngời cảnh vật trong tác phẩm. Vì vậy bài văn biểu cảm thờng không đạt yêu
cầu.
Qua thực tế dạy ngữ văn lớp 7 nhiều năm tôi đã rút ra một số kinh nghiệm
giúp học sinh biểu cảm về tác phẩm văn học. Đối với mỗi ngời dân Việt Nam,
đặc biệt là thế hệ học sinh đều ghi khắc trong lòng tình cảm kính yêu Bác Hồ.
Khi giảng dạy chơng trình ngữ văn lớp 7 phần thơ Hồ Chí Minh tôi đã đi sâu h-
ớng dẫn học sinh lớp 7 trình bày biểu cảm về bài thơ Cảnh khuya của Bác sáng
tác 1947. Qua đó học sinh đã khá thành công khi viết bài văn biểu cảm.
Trong bài viết này tôi mạnh dạn nêu lên những kinh nghiệm giúp học sinh
làm văn biểu cảm về tác phẩm văn học, biểu cảm bài thơ Cảnh khuya của nhà
thơ Hồ Chí Minh.

6
III. mô tả những giải pháp
1. Những lu ý trong phần hớng dẫn lý thuyết kiểu bài biểu cảm về tác
phẩm văn học.
a. Có hai cách biểu cảm chính: Biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp
Biểu cảm trực tiếp: Là phơng thức trữ tình bộc lộ những cảm xúc thầm kín
bằng những từ ngữ trực tiếp gợi ra tình cảm ấy.
Biểu cảm gián tiếp: là cách biểu cảm thông qua tự sự miêu tả hay qua tởng
tợng, liên tởng, suy ngẫm hình dung mà không gọi thẳng cảm xúc ấy ra để khơi
gợi sự đồng cảm nơi ngời đọc.
b. Tình cảm trong văn biểu cảm
Tình cảm trong văn biểu cảm là những tình cảm đẹp, thấm nhuần t tởng
nhân văn (nh yêu con ngời, yêu thiên nhiên, yêu tổ quốc, ghét những thói tầm th-
ờng độc ác )
c. Yêu cầu cơ bản khi biểu cảm một tác phẩm văn học
Bài văn biểu cảm về một tác phẩm văn học có đặc điểm riêng. Đó là ngời
viết phải trình bày cảm xúc, tởng tợng, liên tởng, suy ngẫm của mình về nội
dung và hình thức của tác phẩm đó.
Học sinh phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học (thơ hoặc văn xuôi) trớc
hết học sinh phải xác định đợc những nét nổi bật của tác phẩm văn học.
Cảm nghĩ về tác phẩm văn học tất nhiên phải bắt nguồn từ tác phẩm văn
học và suy nghĩ, cảm thụ của ngời đọc về tác phẩm. Những cảm nghĩ ấy có thể
đợc cụ thể nh sau:
+ Cảm xúc về cảnh, về ngời
+ cảm xúc về tâm hồn con ngời, số phận con ngời trong tác phẩm.
+ Cảm xúc về vẻ đẹp của ngôn từ.
+ Cảm xúc về t tởng của tác phẩm.
Trong điều kiện học tập và nhận thức của học sinh lớp 7, học sinh cha hiểu
đợc các thao tác nghị luận nh phân tích, chứng minh, giải thích. Vì vậy học sinh
có thể dựa vào tự sự, miêu tả, liên tởng, tởng tợng, suy ngẫm về nội dung, nghệ

thuật của tác phẩm. đặc biệt với các tác phẩm văn học đã học, học sinh có thể
dựa vào phần hớng dẫn của giáo viên qua phần đọc hiểu các văn bản trên lớp để
làm cơ sở cho việc bộc lộ cảm xúc về tác phẩm.
7
2. Những điều lu ý với học sinh khi biểu cảm bài thơ Cảnh khuya
Trớc hết muốn trình bày cảm xúc suy nghĩ về bài thơ Cảnh khuya học
sinh phải nắm chắc các vấn đề sau:
- Quan điểm sáng tác bài thơ của Bác là để phục vụ sự nghiệp cách mạng,
thơ văn của Bác phản ánh tâm hồn Bác tâm hồn thi sĩ của ngời chiến sĩ cộng sản.
- Học sinh phải hiểu đợc hoàn cảnh ra đời bài thơ Cảnh khuya vào
những năm tháng Bác sống và lãnh đạo cách mạng tại chiến khu Việt Bắc trong
cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm giai đoạn từ 1945 -> 1954.
- Học sinh phải nắm đợc thể loại của bài thơ thể thất ngôn tứ tuyệt, biết
bám sát vào cấu trúc bài thơ (khai thừa chuyển hợp) hai câu đầu tả
cảnh, hai câu sau thể hiện tâm trạng.
- Học sinh cần chú ý đến đề tài bài thơ - nhà thơ miêu tả cảnh để gửi gắm
tâm tạng; đó là tình yêu quê hơng hoà quyện trong tình cảm yêu nớc thiết tha
mãnh liệt.
- Ngoài phơng diện nội dung tả cảnh thiên nhiên, gửi gắm tình cảm học
sinh phải chú ý tới các biện pháp nghệ thuật đặc sắc của bài thơ nh: hình ảnh so
sánh tiếng suối với tiếng hát, nghệ thuật liên tởng qua hình ảnh Trăng lồng cổ
thụ bóng lồng hoa nghệ thuật sử dụng ngôn từ, điệp từ lồng, điệp ngữ cha ngủ
để thấy đợc nét tâm trạng đợc khép lại và mở ra từ trớc và sau hai từ cha ngủ
nó nh một bản nề mở ra hai phía trong tâm trạng một con ngời, niềm say mê
thiên nhiên và nỗi lo việc nớc. Hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong con ngời
Bác. Đó là sự hoà hợp thống nhất trong tâm hồn nhà thơ, ngời chiến sĩ trong vị
lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Thao tác quan trọng khi biểu cảm là học sinh phải biết tởng tợng ra bức
tranh thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc trong đêm khuya yên tĩnh. Học sinh phải
biết liên tởng, so sánh với cách tả tiếng suối của các thi sĩ khác nh Nguyễn Trãi

trong bài thơ Côn Sơn ca; hoặc liên tởng tới bài thơ Không ngủ đợc trong
Nhật kí trong tù để hiểu và cảm xúc về tấm lòng lo lắng cho vận mệnh đất nớc
của Bác, hay những nét tiêu biểu ấn tợng về hành trình cứu nớc của Bác.
4. Các thao tác cơ bản trớc khi làm bài văn biểu cảm
- Đảm bảo bốn bớc cơ bản tạo lập văn bản.
8
Bớc 1: Định hớng
- Đối tợng biểu cảm: bài thơ Cảnh khuya
- Định hớng tình cảm: Cảm xúc về tình yêu thiên nhiên tha thiết, tấm lòng
yêu nớc mãnh liệt của Bác.
Bớc 2: Tìm ý lập dàn bài
1. Mở bài:
Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ vào những năm đầu cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, bài thơ, cảm xúc chung về bài thơ.
2. Thân bài
ý 1: Cảm xúc về bức tranh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm khuya
yên tĩnh.
ý 2: Cảm xúc về tấm lòng yêu nớc của Bác.
3. Kết bài
- Khẳng định giá trị của bài thơ.
- Giúp ta hiểu đợc tâm hồn, tình cảm của vị lãnh tụ vĩ đại.
- Liên tởng của bản thân ngời viết.
Bớc 3: Viết bài
Bớc 4: Đọc và sửa lại
IV. Kết quả thực hiện
Mô tả qua trích bài làm của học sinh:
Đề: Biểu cảm về bài thơ "Cảnh khuya" của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Bài làm của em Phạm Thị Luận - Học sinh lớp 7C trờng THCS Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
Bài làm:

Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong
quá trình hoạt động cách mạng thơ văn đã trở thành vũ khí sắc bén của ngời. Với
tâm hồn của ngời chiến sĩ và ngời thi sĩ Bác đã để lại cho đời những bài thơ hay.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp tại Việt Bắc ngời đã viết bài
thơ "Cảnh khuya". Bài thơ đã để lại trong tôi những cảm xúc sâu sắc về tình yêu
thiên nhiên hoà quyện trong tình yêu đất nớc mãnh liệt của Bác.
Ngay từ đầu bài thơ, qua cảm nhận tinh tế của Bác bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Việt Bắc hiện lên thật sinh động và tơi đẹp.
"Tiếng suối trong nh tiếng hát xa
9
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Nghệ thuật so sánh tiếng suối với "tiếng hát xa" gợi một âm thanh tuyệt
vời, trầm bổng du dớng của rừng đêm yên tĩnh. Quả là nghệ thuật thi trung hữu
nhạc của những thi nhân xa thật đặc sắc. Tiếng suối là khúc nhạc của rừng đêm,
tiếng hát là âm thanh, là lời ca của con ngời, hai thứ âm thanh ấy đợc so sánh với
nhau khiến khung cảnh rừng đêm hoang vắng bỗng trở lên ấm áp hơi ấm sự sống
của con ngời. Tôi bỗng hình dung nh trớc mắt mình là một dòng suối trong trẻo
đang róc rách chảy hay một nàng thiếu nữ xinh sắn thiết tha duyên dáng đang
cất lên lời ca trầm bổng du dơng giữa khung cảnh thiên nhiên tơi đẹp.Trong khu
rừng đêm yên tĩnh đó có một thi nhân đang ngồi lắng nghe khúc nhạc rừng, và
tôi cũng bị mê say trong khúc nhạc du dơng ấy. ở câu thơ thứ hai "Trăng lồng
cổ thụ bóng lồng hoa" điệp từ này đã gợi một khung cảnh thiên nhiên giao hoà
vấn vít. Cảnh vật vừa có hồn vừa gần gũi mềm mại. Trăng đêm nay sáng quá,
ánh trăng vằng vặc dát vàng, dát bạc khắp đất trời. Bóng trăng toả sáng trùm lên
cảnh vật, đan dệt vào bóng cây cổ thụ, đổ dài xuống mặt đất tạo ra những chùm
hoa trắng lấp lánh với các gam màu sáng tối đan gài. Tôi nh mơ màng trớc vẻ
hùng vĩ tơi đẹp của thiên nhiên nơi đây. Phải là một thi nhân có tâm hồn nhạy
cảm, có tình yêu thiên nhiên tha thiết tác giả mới lắng nghe và cảm nhận những
biểu hiện tinh vi của tạo vật và tả lại một cách thần tình nh vậy. Có lẽ trong suốt
cuộc đời của mình ,vầng trăng đã trở thành ngời bạn tri kỉ của Bác.Vì vậy bài thơ

"Cảnh khuya" gợi cho tôi hình dung nhớ tới một bài thơ trăng Ngời viết trong
nhà tù của bọn Tởng Giới Thạch:
"Trong tù không rợu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Ngời ngắm trăng soi ngoài của sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"
Nếu ở hai câu thơ đầu nhà thơ đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên tha thiết thì
ở những vần thơ sau là tâm trạng thao thức.
" Cảnh khuya nh vẽ Ngời cha ngủ
Cha ngủ vì lo nỗi nớc nhà "
"Ngời cha ngủ" - Ngời đang thao thức có lẽ vì đắm say trớc vẻ đẹp của thiên
nhiên. Bức tranh thiên nhiên tơi đẹp nh mời gọi thi nhân thởng thức. Điệp từ cha
ngủ khép lại cảnh mở ra tình. Bác thao thức không ngủ chẳng phải ngắm cảnh
10
đẹp thiên nhiên mà vì một điều hệ trọng lớn lao hơn cả: đó là sự việc cách mạng.
Ngời đọc sững sờ ngạc nhiên khi biết lí do này - một lí do thật cao cả, thiếng
liêng. Thật vậy sự việc cách mạng, sự sống còn của tổ quốc là lỗi lo canh cánh
không nguôi của cả cuộc đời Ngời. Tôi bỗng hình dung trớc mắt mình là một
ông cụ đang ngồi giữa khung cảnh của núi rừng. Mái tóc cụ hoa râm điểm bạc,
nhng đôi mắt lúc nào cũng ngời sáng tràn đầy tình yêu thơng. Khuôn mặt cụ vẻ
đăm chiêu suy nghĩ - suy nghĩ việc cách mạng. Câu thơ làm tôi thấm thía trớc
lòng yêu nớc mãnh liệt, tha thiết của ngời. Đây chỉ là một đêm trong hàng ngàn
đêm không ngủ của Bác. Ngời đã từng nói : "Một ngày mà tổ quốc cha độc lập là
một ngày tôi ăn không ngon ngủ không yên".
Qua bài thơ "Cảnh khuya" tôi nh đợc cảm nhận sâu sắc hơn về tình yêu
thiên nhiên, lòng yêu nớc mãnh liệt sâu sắc của Bác. Ngời luôn là tấm gơng sáng
về lý tởng sống và đạo đức cách mạng để mọi thế hệ ngời Việt Nam noi theo.
Đề bài:
Cảm nghĩ về bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh
Bài làmcủa em Nguyễn Ngọc Diệp - Lớp 7A

Hồ Chí Minh một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc
ta trong cuộc đấu tranh giành nền độc lập, tự do của dân tộc, Ngời còn là nhà thơ
lớn. Với phong cách thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại, Ngời sáng tác những bài thơ
đa ngời đọc nh lạc vào thế giới thiên nhiên thơ mộng của tạo hoá mà chính Ngời
vẽ ra. "Cảnh khuya" là một bài thơ nh thế, bài thơ gửi gắm tâm hồn ngời chiến sĩ
cách mạng Hồ Chí Minh. Bài thơ đọng lại trong tôi nhiều cảm xúc sâu sắc.
Trớc hết, bài thơ đã đem đến cho tôi cảm xúc ngỡ ngàng về cảnh thiên
nhiên ở núi rừng Việt Bắc vào một đêm trăng tuyệt đẹp và thơ mộng:
"Tiếng suối trong nh tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Đọc hai câu thơ, tôi cảm nhận đợc một không gian tĩnh lặng. Đó là một
đêm khuya ở chiến khu Việt Bắc, nơi đang diễn ra cuộc kháng chiến vô cùng gay
go và khốc nghiệt của quân ta chống quân Pháp xâm lợc. Tôi cảm thấy tất cả, tất
cả nh đang say sa đắm chìm trong khung cảnh thiên nhiên của trời đất, trong
giấc ngủ đêm dài của tạo hoá. Cảnh vật nh im lặng, chỉ nghe đâu đây tiếng suối
chảy róc rách vẳng lại làm ngây ngất lòng ngời. Bác Hồ thật khéo léo khi đa
11
nghệ thuật đặc sắc, nghệ thuật so sánh tiếng suối với tiếng hát vào ý thơ của
mình. Trí tởng tợng của Bác thật lãng mạng, tài hoa. Tiếng suối ngân nga, ngân
nga, có lúc rất gần, có lúc rất xa, có lúc nhỏ nhẹ, có lúc trong trẻo. Cách đây 500
năm trớc, thi nhân Nguyễn Trãi khi nghe tiếng suối chảy rì rầm đã tởng tợng ra
cây đàn đa thanh:
"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe nh tiếng đàn cầm bên tai"
Hai thi sĩ ở hai thời đại khác xa nhau nhng đều có một mạch cảm xúc
giống nhau. Họ đều có đôi tai nhạy cảm và tinh tế để thổi hồn vào tiếng suối vốn
rất đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, trở thành tiếng hát ngân nga, lúc trầm,
lúc bổng, lúc réo rắt bên tai. Ngời chiến sĩ Hồ Chí Minh viết về cảnh đẹp ở núi
rừng Việt Bắc với tất cả niềm say mê và sự hào hứng bất tận. Phải chăng trong
đêm khuya tĩnh mịch có một ngời con gái nào đó đứng trên ngọn núi cao gửi vào

gió những câu hát ca ngợi quê hơng, ca ngợi đất nớc. Tiếng hát trong trẻo, du d-
ơng và trầm bổng đến lạ thờng, làm xao xuyến lòng ngời. Tiếng hát lan xa, xa
mãi len lỏi vào khu rừng, hoà quyện và thấm vào không khí lạnh lẽo của đêm
khuya. Tôi không ngờ thứ âm thanh đơn điệu ấy nh một phép màu diệu kì đã làm
cho núi rừng Việt Bắc có chút xao động, bừng lên sức sống. Ngời đã sử dụng
thành công nghệ thuật lấy động tả tĩnh, nghệ thuật thi trung hữu nhạc cuốn hút
làm cho khung cảnh hoang sơ và kì bí của núi rừng Việt Bắc trở lên ấm áp lạ
lùng. Phải là ngời có đôi tai nhạy cảm và tâm hồn tinh tế thì ngời mới phát hiện
ra nét hoàn mĩ của thiên nhiên trong đêm khuya tĩnh mịch . Dờng nh trong cái
lạnh lẽo của màn đêm có hơi ấm, có sức sống của con ngời. Tôi đã đọc nhiều bài
thơ của Bác viết về những cảnh đẹp vào đêm khuya. Có phải vào đêm khuya thì
cảnh vật mới khoe hết vẻ đẹp và sức sống của mình hay vì lí do nào đó? Có lẽ
vào đêm khuya thì tâm hồn Bác một vị lãnh tụ vĩ đại mang trong mình nhiệm vụ
cao cả mới bày tỏ hết đợc nỗi lòng ngời thi sĩ chăng ? Hay vào lúc ấy thì Bác
mới có thể dãi bày hết tâm sự của mình sau một ngày làm việc vất vả và mệt
nhọc, mới có thể thoả sức đắm chìm trong thiên nhiên.
Từ xa đến nay, ánh trăng luôn là niềm cảm hứng bất tận, là đề tài cho biết
bao thi nhân nổi tiếng. ánh trăng không chỉ đem lại vẻ đẹp cho thiên nhiên mà
hơn thế, nó còn là ngời bạn tri ân, tri kỉ. Bác Hồ của chúng ta với bộn bề công
việc đã tìm đến ánh trăng làm bầu bạn để quên đi những giây phút căng thẳng,
12
vất vả. ở câu thơ thứ hai điệp từ lồng đợc lặp lại cảnh vật nh đan cài, ôm ấp cho
nhau, vừa có bóng cây cổ thụ,vừa có ánh trăng bàng bạc đã dệt vào núi rừng
Việt Bắc những bông hoa gợi cảm, sinh động. Bức tranh nhiều đờng nét, hình
khối và lung linh ánh trăng. Những chùm hoa lấp lánh xao động quyện với gam
màu đen trắng đợc tạo ra bởi các màu sáng tối đan xen vào nhau thật hài hoà và
ấm áp. Hoa lá, cỏ cây hoà quyện đan cài vấn vít. Hoa lá in lên mặt đất tạo ra bức
tranh chập chờn lập loà, vừa có đờng nét, vừa có hình khối màu sắc, lúc ẩn lúc
hiện, lúc mờ lúc tỏ. Hai câu thơ khiến nh tôi bị lạc vào thế giới lung linh huyền
ảo thơ mộng ấy. Bức tranh ấy phải chăng do thiên nhiên vẽ hay do chính thành

quả của sự cảm nhận độc đáo tinh tế của tác giả? Dờng nh từng lời hay ý đẹp
đang thấm nhuần trang trải trong những vần thơ của Bác. Tôi vô cùng ngạc nhiên
trớc bức tranh thiên nhiên tráng lệ chỉ với ba nét vẽ độc đáo: trăng, cổ thụ, hoa.
Phải chăng bức tranh ấy đợc ngời hoạ sĩ Hồ Chí Minh khéo léo vẽ ra bằng ngôn
từ. Ta có thể cảm nhận thấy Bác lắng nghe, cảm nhận những nét tinh vi của tạo
vật và tả lại chúng một cách thần tình với tất cả tình yêu thiên nhiên say đắm và
tha thiết.
Vầng trăng luôn là hình ảnh quen thuộc trong thơ của Ngời. Bài thơ khiến
tôi liên tởng tới bài vọng nguyệt, nguyên tiêu, đối nguyệt và nhiều bài thơ khác
của Bác. Dù bộn bề trăm ngàn công việc của quốc gia nhng Ngời luôn giành cho
trăng một tình cảm đặc biệt. đêm nay có lẽ ánh trăng đẹp quá khiến cho thi sĩ
say đắm đến nỗi quên cả giấc ngủ.
"Cảnh khuya nh vẽ ngơì cha ngủ
Cha ngủ vì lo nỗi nớc nhà".
Có phải thiên nhiên thơ mộng đẹp đẽ khiến Bác thao thức song điệp từ cha
ngủ nh khép lại cảnh và mở ra tình khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và bất ngờ nhận
ra lí do Bác không ngủ vì lo nỗi nớc nhà. Đọc đến đây tôi lại liên tởng tới tâm
trạng của Bác trong một lần Ngời đã khất với trăng:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau"
Có lẽ vì bận trăm công ngàn việc nên Ngời không đợc ung dung ngắm
trăng chăng? đằng sau hình ảnh ấy là cả nỗi xót đau đất nớc cha đợc độc lập
nhân dân cha đợc ấm no. Tâm hồn Bác thật đáng khâm phục biết bao! Tâm hồn
ấy luôn giành cho trăng ngay cả khi bị giam giữ dới nhà tù của Tởng Giới Thạch:
13
"Trong tù không rợu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Ngời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"
Ôi! Tình yêu trăng của Bác hoà quyện với cốt cách ngời chiến sĩ đợc trang

trải thấm nhuần trong từng vầng thơ đẹp. Chấn song sắt của kẻ thù chỉ có thể
giam giữ đợc thể xác của Bác, còn tâm hồn của Ngời luôn hớng về thiên nhiên về
đất nớc. Dờng nh trong tâm hồn Bác luôn canh cánh hình ảnh của tổ quốc và
cách mạng. Tôi lại hình dung đến một đêm không ngủ của Bác tại nhà tù đế
quốc.
"Một canh hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh"
Có lẽ đêm nay là một trong hàng ngàn đêm không ngủ của Ngời trong
suốt hành trình cứu nớc. Tôi hình dung một vị lãnh tụ cách mạng trong đêm
khuya giữa núi rừng Việt bắc đang trầm ngâm lo lắng cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Tôi càng khâm phục về sự hi sinh của Bác cho tổ quốc, càng hiểu rõ hơn
về Bác tôi càng thấm thía tấm lòng lo nớc thơng dân, tình cảm yêu thiên nhiên
gắn bó tha thiết với thiên nhiên của ngời chiến sĩ có tâm hồn thi sĩ.
"Cảnh khuya" bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đặc sắc, súc tích trong chùm thơ
của Hồ Chí Minh. Qua bài thơ tôi càng hiểu hơn tình yêu thiên nhiên, tấm lòng
yêu nớc mãnh liệt và tâm hồn cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại - ngời chiến sĩ - ngời
thi sĩ - danh nhân văn hoá thế giới - anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.
Phần III. Kết luận
Biểu cảm về tác phẩm văn học không phải là một vấn đề mới song lại rất
khó khăn với các em học sinh lớp 7. Nh vậy qua vận dụng hớng dẫn học sinh
cách tởng tợng, suy ngẫm bớc đầu học sinh đã có kĩ năng biểu cảm về tác phẩm
văn học.
Bài viết là kinh nghiệm của tôi sau nhiều năm giảng dạy môn ngữ văn lớp
7. Trong bài viết này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót do năng lực còn hạn
14
chế, rất mong các đồng nghiệp đóng góp ý kiến để việc giảng dạy môn Tập làm
văn lớp 7 đạt hiệu quả cao hơn.
Xin chân trọng cám ơn!

Ngày 01 tháng 02 năm 2009
Ngời viết
Tạ Thị Thanh
Mục lục
Nội dung Trang
- Bìa
- Cam kết
- Danh sách SKKN đã viết
- Phần I: đặt vấn đề
- Phần II: Nội dung
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2. Thực trạng nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm
3. Mô tả giải pháp
4. Kết quả thực hiện
- Phần III: Kết luận
15

×