Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp ở thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.93 KB, 21 trang )

"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
I. TÁC GIẢ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thu
Sinh ngày : 18/ 01 /1968
Đơn vị : Trường T.H.C.S. Nguyễn Bỉnh Khiêm
Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Điện thoại :
E-mai :
II.SẢN PHẨM
Tên sản phẩm: "Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới
phương pháp ở thcs"
III.CAM KẾT
Tôi xin cam đoan SKKN này là sản phẩm của cá nhân tôi. Nếu có xảy ra
tranh chấp về quyền sở hữu với một phần hoặc toàn bộ sản phẩm SKKN tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở giáo dục và đào
tạo về tính trung thực của bản cam kết này .
Vĩnh Bảo, Ngày 02 tháng 2 năm 2009
Người cam kết
Nguyễn Thị Thu
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
1
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
DANH SÁCH CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ VIẾT
SỐ
TT
TÊN SKKN THUỘC
MÔN
NĂM


VIẾT
XẾP
LOẠI
1 VAÌ SUY NGHĨ VỀ DAỴ KHÁI NIỆM
ĐẠO ĐỨC THEO HƯỚNG LẤY HỌC
SINH LÀM TRUNG TÂM
GDCD 1995 A
2 Văn kể chuyện và dạy kiểu bài văn kể
chuyện cho học sinh lớp 7
Ngữ văn 2000 A
3 HIỂU ẨN DỤ VÀ DẠY ẨN SỤ THEO
HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
NGỮ
VĂN
2001 A
4 Dạy kiểu bài phân tích tác phẩm văn học
cho học sinh lớp 9
Ngữ văn 2002 A
5 CÁC KIỂU CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
TRONG ĐÁNH GIÁ HỌC SINH Ở BỘ
MÔN GDCD
GDCD 2005 A
6 Rèn kỹ năng nhận diện đề văn thuyết minh
và các bước tạo lập văn bản thuyết minh
qua môt tiết dạy tập làm văn
Ngữ văn 2006 A
7 RÈN KỸ NĂNG XÁC ĐỊNH KIẾN THỨC
VÀ XÂY DỰNG BỐ CỤC CHO BÀI
VĂN THUYẾT MINH VỀ TÁC GIẢ
HOẶC TÁC PHẨM VĂN HỌC

NGỮ
VĂN
2007 B
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
2
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy bộ môn
Ngữ văn trong trường T.H.C.S. nói riêng không ngoài mục đích nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học. Đặc biệt ở phân môn Tiếng Việt . Việc dạy phân môn
này theo hướng tích hợp đã đặt ra cho người đứng lớp những yêu cầu mới về
kiến thức cũng như phương pháp giảng dạy. Song thực tế hiện nay, còn có nhiều
đơn vị kiến thức tiếng Việt trong chương trình giảng dạy của bậc học còn chưa
thống nhất về cách hiểu, hoặc chưa được người đứng lớp hiểu đúng, vì thế việc
xác định kiến thức và phương pháp giảng dạy còn nhiều bất cập. Nhất là kiến
thức về các biện pháp tu từ trong tiếng Việt, trong đó phải kể đến phép tu từ so
sánh.
Mục đích của việc nghiên cứu về phép tu từ so sánh và hướng dạy phép tu
từ so sánh theo phương pháp tích cực không ngoài việc đi vào tìm hiểu đúng và
sâu bản chất của phép tu từ so sánh : từ khái niệm , các loại so sánh đến cấu
trúc, tác dụng Đó chính là căn cứ , là cơ sở vững chắc để xây dựng giáo án
theo yêu cầu của tiết dạy.Từ hiểu đúng về so sánh tu từ cho phép tôi lựa chọn
kiến thức và phương pháp thích hợp để thiết kế bài dạy nhầm đạt được mục tiêu
bài dạy một cách tốt nhất.
Kết quả cần đạt được của bài viết này là đưa ra được những cách hiểu
đúng về phép tu từ so sánh như :So sánh là gì ? Cấu trúc của so sánh ? Yêu cầu
của so sánh ? Các yếu tố của so sánh ? Các kiểu so sánh Đặc biệt là chỉ rõ các
đơn vị kiến thức cần dạy của bài so sánh , và cách dạy các đơn vị kiến thức này.
Phép tu từ so sánh- chỉ là một đơn vị kiến thức nhỏ , một phép tu từ trong
rất nhiều phép tu từ của tiếng Việt, nhưng đây cũng là vấn đề khiến tôi trăn trở

và bỏ công nghiên cứu , sưu tầm và thử nghiệm nhiều năm qua. Hy vọng cùng
được trao đổi với các bạn đồng nghiệp cách hiểu của mình về so sánh và cách
dạy phép tu từ so sánh qua bài viết nhỏ này.
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
3
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
B. NỘI DUNG VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Sosánh có thể coi là phép tu từ phổ biến, là phương thức quan trọng trong
việc làm tăng giá trị biểu cảm của ngôn ngữ. Dạy phép tu từ so sánh cho học
sinh lớp 6, ngoài việc giúp các em hiểu bản chất , cấu trúc , tác dụng của nó còn
là bước đầu dạy các em cách làm phong phú ngôn ngữ của mình thông qua phép
tu từ này; hơn thế, còn là một con đường giúp các em giải mã những tác phẩm
văn chương. Vì thế, muốn dạy tốt kiến thức về so sánh, người thầy phải hiểu và
nắm chắc những kiến thức cơ bản về phép tu từ này, trên cơ sở đó tìm phương
pháp và bước đi thích hợp thì mới mong đạt được mục tiêu của bài dạy.
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực tế giảng dạy cho thấy, phân môn Tiếng Việt từng được coi là đơn
giản nhất so với hai phân môn còn lại là Văn học và Tập làm văn . Vì thế, không
ít đơn vị kiến thức Tiếng Việt, đặc biệt là phép tu từ so sánh chưa được người
thầy coi trọng để nghiên cứu cẩn thận nên từ hiểu chưa đủ hoặc chưa đúng đã
dẫn đến việc dạy sai hoặc không làm chủ được kiến thức hay không xác định
đựơc phương pháp dạy thích hợp. Kết quả là học sinh không hiểu bản chất của
so sánh, không sử dụng được so sánh trong nói và viết, không cảm nhận được
nội dung tư tưởng câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh .
III. NỘI DUNG KINH NGHIỆM
1. SO SÁNH LÀ GÌ ?
a) Khái niệm
So sánh thường được hiểu là đưa một sự vật, sự việc ra đối chiếu về một
mặt nào đó với sự vật, sự việc khác nhưng lại có đặc điểm tương tự mà giác

Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
4
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
quan có thể nhận biết được, nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn
đạt.
b) Cấu trúc của so sánh:
Một so sánh có cấu trúc so sánh hoàn chỉnh gồm bốn yếu tố sau:
- Yếu tố cần so sánh (vế được so sánh)
- Yếu tố được dùng làm chuẩn để so sánh (vế so sánh)
- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (từ chỉ quan hệ so sánh)
- Yếu tố nêu thuộc tính của sự vật (nói rõ phương diện so sánh)
Ví dụ: “Tiếng suối/trong/như/tiếng hát xa”
(Hồ Chí Minh)
Dạng không hoàn chỉnh là dạng thiếu vắng yếu tố nêu thuộc tính so sánh.
“Trẻ em/như/búp trên cành”
(Hồ Chí Minh)
Hoặc vắng cả yếu tố chỉ quan hệ so sánh và yếu tố nêu thuốc tính sự vật:
“Tim tôi/chiếc lá dâu xanh
Tằm đời ăn rỗi trơ cành còn chi !”
(Trần Huyền Trân)
Vắng yếu tố so sánh (vế được so sánh):
“Rẻ/như/bèo”
(Thành ngữ)
Có khi thiếu vế được so sánh, cả yếu tố nêu thuộc tính so sánh:
“Như đấm bị đông”
(Thành ngữ)
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
5
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
c) Yêu cầu của so sánh:

Nhìn lại các hiện tượng so sánh trong ngôn ngữ nghệ thuật cả cổ tích lẫn
hiện đại, dù cấu trúc hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh thì một so sánh hay, có
hiệu quả cao, cần đảm bảo những yêu cầu sau (không phải là tất cả):
- Gần gũi, cụ thể:
So sánh với mục đích là để cụ thể hóa sự vật. Bởi vậy vế so sánh yêu cầu
phải cụ thể.
Ví dụ: Nhọ nồi, cột nhà cháy, củ súng, củ tam thất, than là những vật để
cụ thể hóa khái niệm “đen”. Với khái niệm “hiền”, có thể cụ thể hóa bằng cách
so sánh với Bụt, cô Tấm, đất
Ví dụ: “Đen như cột nhà cháy”
(Thành ngữ)
So sánh phải gần gũi. Hình ảnh so sánh có gần gũi thì mới nhận ra thuộc
tính, dễ hình dung ra sự vật.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Thật dễ hình dung “hòn lửa” trong bếp mỗi gia đình, vừa gọi được hình
khối, tính chất, mầu sắc (thuộc tính của mặt trời) vừa gần gũi với người lao
động. Thiên nhiên – Vũ trụ bỗng trở lên bé nhỏ, gần gũi với con người.
- Hợp lý:
Mọi so sánh thường khập khiễng. Quan niệm ấy tưởng như là chân lý.
Nhưng ta vẫn có thể tìm thấy ở những so sánh hay nét tương đồng giữa hai hay
nhiều sự vật khác loại. Đấy cũng là một yêu cầu của so sánh. Ca dao có câu:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
6
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Tấm lụa đào bán ngoài chợ ít nhất là có hai thuộc tính: đẹp, ai mua cũng
được. Từ đó có thể hiểu với hai nét tương ứng về người phụ nữ ngày xưa: đẹp
nhưng không làm chủ được vận mệnh của mình.

- Tiêu biểu:
Một so sánh phải đảm bảo được vật đem ra làm chuẩn phải có dấu hiệu
đặc trưng, tiêu biểu.
Tố hữu đã từng cụ thể cái “thơm” cái “sạch” thanh cao, tinh khiết bằng
các hình ảnh rất điển hình:
“Thơm như hương nhị hoa nhài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
(Tiếng hát sông Hương)
- Bất ngờ, mà hợp lý:
Sự bất ngờ mà hợp lý là ở chỗ chính những hình ảnh so sánh (vế so sánh)
đem đến cho ta những hứng thú bất ngờ khi ta tìm thấy sự có lý của so sánh qua
liên tưởng. Quả nhót, quả cà chua, quả ớt ai mà chuẳng thấy. Nhưng phải thực
sự là thi sĩ mới nhìn thấy được:
“Trái nhót như bóng đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè.
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu.
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu ”
(Lửa đèn – Phạm Tiến Duật).
Bất ngờ chỉ là cảm nhận ban đầu. Còn sau đó cũng nhận ra sự hợp lý và
càng nghĩ càng thấy thú vị về sự hợp lý đó.
- Biểu cảm:
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
7
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Mọi so sánh đều thể hiện thái độ tình cảm của người nói. Bởi vậy một so
sánh hay phải gợi được cảm xúc. Mỗi lần để cho nàng Kiều nói đến thân phận
mình là một lần nàng đau đớn, xót xa còn tác giả và chúng ta thì xót thương cho
nàng:
“Thiếp như hoa đã lìa cành”

“Thiếp như con én lạc đàn”
(Nguyễn Du)
Lẽ dĩ nhiên, cảm xúc ấy chỉ có được nhờ tính chân thực của hình ảnh so
sánh mà người nói (viết) sử dụng.
- Có hình ảnh:
Muốn đạt được yêu cầu này thì sự vật dùng làm chuẩn (vế so sánh) phải
có đường nét, hình sáng, màu sắc đủ để giác quan ta nhận biết được. Tố Hữu
từng viết:
“Đảo tươi một dải lụa đào bay”
(Từ Cu Ba)
Ví trí , địa hình riêng tạo lên dáng vóc đất nước. Bởi vậy, từ tầm cao nhìn
về trái đất Tố Hữu đã liên tưởng đất nước Cu Ba nhỏ bé với một hình ảnh rất gợi
cảm, rất mềm mại. Một cảm nhận hết sức độc đáo của tác giả.
d) Các yếu tố của so sánh:
- Yếu tố được so sánh (vế được so sánh):
Có thể khẳng định , bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có thể đem ra so
sánh. Có thể so sánh người, sự vật:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai”
(Ca dao)
“Con rận bằng con ba ba
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
8
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh”
(Ca dao)
Có đôi khi đem hành động và thuộc tính ra để so sánh:
“Trong như riếng hạ bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
(“Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Gọi như hò đò” (Thành ngữ)
- Yếu tố nêu thuộc tính so sánh:
Sự có mặt của yếu tố này trong cấu trúc của một so sánh sẽ giúp ta dễ tìm
ra nét tương đồng giữa hai sự vật. Đương nhiên, sự thiếu vắng yếu tố này cũng
đồng nghĩa với việc muốn hiểu được so sánh buộc ra phải liên tưởng để tìm ra
xem người ta muốn so sánh thuộc tính nào của sự vật.
“Trẻ em như búp trên cành”
(Hồ Chí Minh)
Thật khó chỉ ra đích xác Người muốn so sánh thuộc tính nào của trẻ em
với búp trên cành. Nhưng vì lẽ đó mà ra có thể liên tưởng tới nhiều ý nghĩa. Bởi
một sự vật gồm nhiều thuộc tính mà.
- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (từ chỉ quan hệ)
Bao gồm các từ so sánh, từ “là” và từ có quan hệ hô ứng. Các từ so sánh
thường dùng là: như, tựa như, tựa là, như thể, chừng như
Ví dụ: “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
(Tế Hanh)
Hay:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
9
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
(Tế Hanh)
Từ “là” cũng được dùng để chỉ quan hệ so sánh, ví dụ:
“Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sỹ
Hậu phương thi đua với tiền phương”
(Hồ Chí Minh)

Ngoài ra, cặp từ có quan hệ hô ứng cũng thường gặp trong các so sánh.
Ví dụ:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
(Ca dao)
-Yếu tố được dùng làm chuẩn để so sánh (vế so sánh):
Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu vắng được trong một so sánh vì
không có vế chuẩn thì không có so sánh. Không có vế được so sánh thì so sánh
trở thành ẩn dụ rồi. Nó là kết quả có chọn lọc của người sử dụng. Chính nó làm
lên tính độc đáo trong phong cách ngôn ngữ của từng cá nhân.
Khi Tế Hanh so sánh:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la, thâu góp gió”
(Quê hương)
“Mảnh hồn làng” là linh hồn của quê hương Ông, là tất cả những gì đẹp
đẽ nhất, riêng biệt nhất của làng chài bé nhỏ ven biển Quảng Ngãi. Chúng ta
nhận ra tấm lòng nhân hậu và tha thiết với quê hương, một tình quê đậm đà mà
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
10
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
chất phác, giản dị mà thiêng liêng của nhà thơ Quê hương đằng sau những vần
thơ ấy.
đ) Các kiểu so sánh:
đ.1/ So sánh vô cùng phong phú. Có so sánh đồng loại có so sánh khác
loại.
So sánh người với người: “Tính nết lão ta giống y như Chí Phèo của Nam
Cao”, “Bà ta cứ như mụ Tú Bà sống lại” So sánh vật với vật: “Từ xa nhìn lại,
cây gạo sừng sững như một tháp đài khổng lồ” Đấy là những so sánh cùng
loại
Có khi so sánh người với các con vật, với cây, với hoa” “Trông anh ta

như một con gấu”, “Bàn tay bà cụ như những rễ cây sù sì” Đó là những so
sánh khác loại.
Có trường hợp người viết lấy nhỏ để so sánh với to: “Con lợn béo như
một quả sim chín”, “Trái đất đi như một giọt nước mắt giữa không trung” hoặc
ngược lại dùng to để so sánh với nhỏ: “Con rệp to kềnh như một chiếc xe
tăng”
Lại có lúc so sánh cái cụ thể với cái trìu tượng như câu ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
đ. 2/ Nhưng nhìn chung, dù phong phú đến bao nhiêu ta vẫn tìm ra sự
trùng khớp giữa các loại so sánh trên ở hai điểm tạo nên sự phân biệt cơ bản của
2 kiểu so sánh. Đó là so sánh ngang bằng và so sánh không ngang bằng.
So sánh ngang bằng có mô hình: A là B
Ví dụ:
“Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là hoa cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
11
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”
(Ca dao)
Các so sánh ngang bằng thường sử dụng các từ chỉ quan hệ so sánh như:
như, như là, như thế, giống như, y như
So sánh không ngang bằng có mô hình : A không bằng B. Từ chỉ quan hệ
so sánh trong các so sánh không ngang bằng là : khác, kém hơn, chẳng bằng,
chưa bằng, hơn
Trong phép so sánh không ngang bằng, vế A và vế B chỉ những sự vật, sự
việc tuy hơn kém nhau một phương diện nào đó nhưng vẫn có nét tương đồng
với nhau. Chính nét tương đồng này cho phép so sánh các sự vật,sự việc với

nhau.
2. DẠY PHÉP TU TỪ SO SÁNH
Từ hiểu so sánh như trên, căn cứ vào mục đích yêu cầu kiến thức của bài
dạy, tôi xác định các đơn vị kiến thức và cách dạy phép tu từ so sánh như sau:
1. Hình thành khái niệm so sánh từ những ví dụ cụ thể (thơ, văn)
Sách giáo khoa có đưa ra 2 ví dụ sau :
a) Trẻ em như búp trên cành.
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
(Hồ Chí Minh).
b) [ ] trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường
thành vô tận
Đoàn Giỏi
Giáo viên đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh từng bước :
- Tìm các sự vật được so sánh với nhau.
Câu a: “Trẻ em” được so sánh với “búp trên cành”
Câu b: “Rừng dước” được so sánh với "hai dãy trường thành vô tận”.
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
12
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
- Chỉ ra được điểm giống nhau nhất định, những nét tương đồng nhất định
(ít nhất theo quan sát của tác giả) giữa các sự vật được đem ra so sánh với nhau.
- Tìm hiểu mục đích của các cách nói bằng so sánh trên là để làm nổi bật
được cảm nhận của người viết, người nói về những sự vật được nói đến (“Trẻ
em”, “rừng dước”), làm cho câu văn câu thơ có hình ảnh và gợi cảm.
-Từ đó rút ra nội dung khái niệm về so sánh (ghi nhớ 1 – SGK).
2.Tìm hiểu cấu tạo của so sánh:
- Vẫn sử dụng 2 ví dụ a, b ở phần hình thành khái niệm, đồng thời đưa
thêm 2 ví dụ sau:
- Đắt như tôm tươi (thành ngữ)
- Tìm tôi chiếc lá dâu xanh

Tằm đời ăn rỗi trơ cành còn chi
(Trần Huyền Trân)
- Cho học sinh chép vào vở bảng cấu tạo của phép so sánh (SGK)
và điền các so sánh đã tìm được ở cả 4 ví dụ trên (a,b,c,d) vào bảng:

dụ
Vế A
(Sự vật được so sánh)
Phương diện
so sánh
Từ
so sánh
Vế B
(sự vật dùng để so sánh)
a Trẻ em như búp trên cành
b Rừng đước dựng lên cao
ngất
như hai dãy trường thành vô
tận
c Đắt như tôm tươi
d Tim tôi chiếc lá dâu xanh
- Cho học sinh tự nhận xét về các yếu tố của phép so sánh có đối chiếu
giữa các ví dụ từ đó rút ra kết luận:
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
13
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
+ Phép so sánh có cấu tạo đầy đủ gần 4 yếu tố: Sự vật được so sánh (vế
A), phương diện so sánh, từ so sánh, sự vật dùng để so sánh (vế B).
+ Phép so sánh có cấu tạo không đầy đủ: Có thể lược bỏ một (một số) yếu
tố nào đó (a,b,d).

- Trường hợp thay đổi trật tự các yếu tố trong so sánh : Vế B đứng trước
vế A
“Trường sơn: Chí lớn ông cha
Cửu long : Lòng mẹ bao la sóng trào”
cũng phải đưa ra để học sinh phát hiện
- Từ đó học sinh rút ra nội dung bài học (ghi nhớ 2 – SGK).
3. Tìm hiểu các kiểu so sánh:
- Từ các ví dụ đã cho ở sách giáo khoa, yêu cầu học sinh tìm ra hai phép
so sánh:
+ Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con (1)
+ Mẹ là ngọn gió của con suối đời (2)
- Cho học sinh so sánh các từ ngữ chỉ ý so sánh ở hai ví dụ này (chẳng
bằng/ là) để tìm ra sự khác nhau giữa chúng, sự khác nhau giữa 2 kiểu so sánh.
- Từ đó có thể rút ra mô hình của hai kiểu so sánh
So sánh ngang bằng : A là B
So sánh hơn kém : A chẳng bằng B
- Học sinh có thể tìm thêm những từ ngữ chỉ ý so sánh ngang bằng hoặc
so sánh không ngang bằng.
4. Tìm hiểu tác dụng của so sánh:
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
14
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Từ các ví dụ đã phân tích, đặc biệt là ví dụ ở phần II- tác dụng so sánh –
SGK, dẫn dắt học sinh chỉ rõ tác dụng của phép so sánh trong lời văn. So sánh
nhất là những so sánh nghệ thuật, làm cho câu văn thêm gợi tả, gợi cảm. Có thể
nói so sánh là một trong những phép tu từ thông dụng nhất góp phần làm cho sự
diễn đạt phong phú về chất lượng và số lượng. đoạn văn miêu tả những chiếc lá
rụng của Khái Hưng không chỉ có tác dụng tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh
động, giúp người đọc, người nghe dễ hình dung về sự vật, sự việc được miêu tả

mà lại còn có tác dụng biểu đạt tình cảm của tác giả - thể hiện quan niệm của tác
giả về sự sống và cái chết.
5. Luyện tập về phép so sánh:
Học sinh phải được làm các dạng bài tập từ thấp đến cao trong mỗi tiết
học: phát hiện so sánh, tìm ví dụ về so sánh, thêm vào mẫu để tạo phép so sánh,
phân loại so sánh, sử dụng phép so sánh khi nói, viết, cảm nhận tác dụng nghệ
thuật của phép so sánh.
Với bài tập nhận diện và liên hệ (bài 1 – SGK – trang 26). Ngoài việc
củng cố khái niệm còn có ý nghĩa mở rộng hiểu biết về sự phong phú của so
sánh (các loại).
Với loại bài tập xây dựng phép so sánh dựa vào từ ngữ đã cho trước (bài
2 – SGK – T25), giáo viên phải hướng cho học sinh đảm bảo được các yêu cầu
của so sánh về tính gần gũi, cụ thể, tiêu biểu, hợp lý
Đặc biệt, với các bài tập tìm những câu văn có sử dụng phép so sánh trong
các văn bản đã học “Bài học đường đời đầu tiên” và “sông nước Cà Mau”,
“Vượt thác” vừa có ý nghĩa tích hợp, vừa khắc sâu thêm khái niệm, vừa củng cố
kiến thức về cảm thụ cái đẹp của tác phẩm văn học (Bài 3 – SGK – T26, bài 2 –
SGK – T43).
Điều đáng lưu ý là với loại bài tập cảm nhận so sánh, học sinh phải hiểu
được hình ảnh so sánh được nói đến, hiểu được những thuộc tính của sự vật
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
15
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
được đề cập đến thông qua hình ảnh so sánh. Chỉ có thế mới hình dung được sự
vật và cảm nhận được tình cảm của tác giả gửi gắm qua so sánh. Một phần yêu
cầu của bài tập 1 và bài tập 2 (SGK – trang 43) thuộc loại bài tập này. Ví dụ khi
Tế Hanh viết:
“Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng”
Tác giả đã so sánh “Tâm hồn” mình với “một buổi trưa hè”. Học sinh phải

hiểu vế B (hình ảnh so sánh) “một buổi trưa hè” và tìm nét tương đồng giữa
“tâm hồn tôi” với hình ảnh đó để hiểu tác giả muốn nói điều gì. Sao lại là một
buổi trưa hè chứ không phải là một buổi trưa khác ? Nắng hè rực rỡ, tràn trề
gợi ta liên tưởng tới tâm hồn và tình yêu tràn trề nồng ấm, gắn bó của Tế Hanh
với dòng sông quê, với quê hương Miền Nam. Có thể đó là một cách hiểu.
Hay như khi Tố Hữu viết:
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm

Vượt khe sâu núi cao từng được coi là những việc làm nhiều gian nan vất
vả. Vì thế, khi sử dụng hình ảnh này trong phép so sánh không ngang bằng đã
làm nổi bật, sinh động, cụ thể "nỗi tái tê lòng bầm". Từ đó, biểu đạt thật sâu sắc
niềm cảm phục lẫn biết ơn của tác giả với người mẹ của mình.
Với bài tập sử dụng phép so sánh, đây cũng là dạng bài vận dụng
quan trọng với học sinh lớp 6 tích hợp với văn miêu tả. Vì vậy, khi hướng dẫn
bài tập này (bài 3 – SGK – trang 43), giáo viên nên sử dụng tranh ảnh để giúp
học sinh quan sát và lựa chọn hình ảnh phù hợp. Hãy bắt đầu từ việc đặt các câu
riêng rẽ có sử dụng phép so sánh. Giáo viên sửa chữa, uốn nắn dựa theo các yêu
cầu về so sánh như đã nói ở mục (1) trong bài viết này. Sau đó, cho các em hình
thành đoạn văn theo yêu cầu của bài tập sách giáo khoa hoặc của thầy cô.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
16
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Trên đây là toàn bộ nội dung kinh nghiệm "Hiểu so sánh và dạy so sánh
theo hướng đổi mới phương pháp" - chương trình thay sách . Từ nghiên cứu tìm
tòi đến thử nghiệm , tôi đã có những thành công đáng khích lệ. Cụ thể :100%số
học sinh tôi dạy hiểu và hoàn thành tốt các bài tập sách giáo khoa. Đặc biệt , có
một bộ phận không nhỏ các em học sinh có khả năng cảm thụ sâu sắc tác dụng
của phép tu từ so sánh trong các tác phẩm văn học cụ thể . Đây chính là một

thuận lợi để các em có thể giải mã nội dung tác phẩm văn chương, đặc biệt là
các tác phẩm thơ .
Dưới đây là bảng tổng hợp kết quả bài kiểm tra 15 phút với yêu cầu "Viết
đoạn văn tả quang cảnh trường em , trong đoạn có sử dụng 2 kiểu so sánh đã học
( gạch chân chỉ rõ )"
Lớ
p
Điểm
Kém
( 0-2 )
Yếu
(3-4)
Trung bình
( 5-6 )
Khá
( 7-8)
Giỏi
(9- 10)
6A 0 0 2 36 8
6C 0 0 7 33 4
Tổng
số(%)
0 0 9
(10%)
69
(76,7%)
12
(13,3%)
Sau đây tôi xin giới thiệu bài làm của một số em học sinh trường T.H.C.S.
Nguyễn Bỉnh Khiêm

1) Bài làm của em Lê Thị Vân, học sinh lớp 6c
Đề bài: Viết một đoạn văn trình bầy cảm nhận của em về cái hay của phép tu từ
so sánh trong những câu thơ sau :
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng
(Tế Hanh)
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
17
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Bài làm
Tác giả tả dòng nước đã xanh lại trong như tấm gương soi thì thật là gợi
cảm. Phải chăng làn nước trong phản chiếu sắc xanh của bầu trời mà ánh lên sắc
biếc ? Và nước sông phải trong đến nhường nào mới ôm vào lòng nó những
hàng tre yểu điệu chải tóc, soi gương ? Vẻ đẹp có thật hay chỉ là nét vẽ trong
tưởng nhớ được kết bằng tình yêu và sự tôn thờ ? Em như hiển hiện thấy trước
mắt mình dòng sông quê hương tác giả , vừa quen thuộc như đâu đây, vừa xa lạ
như chưa từng gặp bao giờ . Ân tượng nhất với em là khi tác giả so sánh tâm
hồn mình với "một buổi trưa hè ". Tại sao nhà thơ lại không ví với thời điểm
khác ? Em hình dung ra những trưa hè rực nắng Dòng sông quê tràn trề ánh
nắng vàng rực rỡ Hình ảnh ấy gợi cho em liên tưởng đến tình yêu nồng nàn của
Tế Hanh với dòng sông quê , với quê hương Miền Nam. Đọc những câu thơ của
Tế Hanh ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một dòng sông quê mà
còn nhận ra một tâm hồn nhạy cảm, một ngòi bút tinh tế và thấm thía một tấm
lòng luôn luôn gắn bó với quê hương.
2) Bài làm của em Ngô Thị Phượng , học sinh lớp 6c
Đề bài: Dựa vào kiến thức bài "Vượt thác", viết đoạn văn tả dượng
Hương Thư đưa thuyền vượt thác dữ ; trong đoạn có sử dụng 2 kiểu so sánh đã
học.

Bài làm
Thuyền của dượng Hương Thư đã đến đoạn có dòng nước từ trên cao
phóng giữa hai vách đá dựng đứng. Dượng Hương Thư mình trần , da đỏ au,
đứng sau lái, co người như làm xiếc, phóng chiếc sào xuống lòng sông. Thép đã
cắm vào sỏi như người thợ săn cắm chiếc lao vào mình con trăn. Dượng Hương
Thư ghì chặt đầu sào, lấy thế trụ, lợi dụng lúc đó chú Hai và thằng Cù Lao
phóng sào xuống nước. Chiếc sào của dượng bị cong lại như hình cánh cung
trước sức cản của dòng nước dữ. Nước văng bọt tứ tung trắng xoá. Bây giờ chỉ
còn lại là những động tác thả sào, rút sào nhịp nhàng nhanh như cắt. Dượng
Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn , hai hàm răng
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
18
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
cắn chặt, quai hàm bạnh ra , cặp mắt nẳy lửa ghì trên ngọn sào giống như một
hiệp sĩ Trường Sơn oai linh hùng vĩ . Dượng Hương Thư vượt thác khác hẳn
dượng Hương Thư ở nhà nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì như con gái, ai ngọi
cũng vâng vâng dạ dạ.
Câu có sử dụng so sánh ngang bằng :
- Dượng Hương Thư mình trần, da đỏ au, đứng sau lái, co người như làm xiếc .
- Chiếc sào của dượng cong lại như hình cánh cung trước sức cản của dòng nước
dữ.
Câu có sử dụng so sánh không ngang bằng:
- Dượng Hương Thư vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà nói năng nhỏ
nhẻ, tính nết nhu mì, ai ngọi cũng vâng vâng dạ dạ.

C. KẾT LUẬN CHUNG
Cần phải khẳng định rằng, phép tu từ so sánh không phải là đơn vị kiến
thức khó hoặc xa lạ với học sinh lớp 6 . Cái khó là người thầy cần phải có một
cái nhìn thật chính xác khoa học về nó , phải xác định được những kiến thức
trọng tâm và một hướng dạy phù hợp thì bài dạy mới đạt được mục tiêu đề ra.

Trên đây là toàn bộ những hiểu biết của tôi về phép tu từ so sánh và
hướng dạy so sánh - chương trình thay sách theo tinh thần đổi mới phương pháp.
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
19
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
Mặc dù có cố gắng tìm tòi tư liệu và đã vận dụng có hiệu quả vào giờ dạy trên
lớp, nhưng đây là ý kiến của cá nhân nên không tránh khỏi sai sót. Rất mong các
đồng chí cùng có mối quan tâm đến vấn đề này hãy góp ý bổ sung để những gì
tôi đặt ra trong bài viết nhỏ này thực sự có ích với việc dạy Ngữ văn cho học
sinh lớp 6.
Xin chân thành cảm ơn !
Vĩnh Bảo, Ngày 02 tháng 2 năm 2009
Người viết

Nguyễn Thị Thu

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập II- NXB Giáo dục
2. Sách giáo viên Ngữ văn 6 tập II- NXB Giáo dục
3. Phong cách học Tiếng Việt- Đại học Sư Phạm Hà Nội, NXB Giáo dục
4. Mấy vấn đề về thi pháp học- Đại học Sư Phạm Hà Nội, NXB Giáo dục
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
20
"Hiểu và dạy phép tu từ so sánh theo hướng đổi mới phương pháp"
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
Cam kết 1
Danh sách sáng kiến kinh nghiệm đã viết 2
C. Đặt vấn đề 3
B.Nội dung 4

1. Cơ sở lý luận 4
2. Cơ sở thực tiễn 4
3. Nội dung kinh nghiệm 4
4. Kết quả thực hiện 13
C. Kết luận 19
D. Tư liệu tham khảo
20
Người viết :Nguyễn Thị Thu - GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm
21

×