LỜI MỞ ĐẦU
Trong những tin tức hằng ngày, thỉnh thoảng các phương tiện thông tin có
nói đến Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế qua những cuộc hội nghị thường niên của cơ quan
này hay khi cơ quan này quyết định giúp các nước gặp khó khăn trầm trọng về
mặt tài chánh hay kinh tế. Danh từ viết tắt IMF của Anh ngữ hay FMI của Pháp
ngữ thường được sử dụng. IMF là cơ quan quốc tế làm việc với các nước hội
viên ở cấp bậc chính phủ lãnh đạo cho nên người dân ít biết về nó. Nhiều người
cho rằng đó là một loại ngân hàng quốc tế rất lớn có thể cho các nước vay mượn
như bất cứ một ngân hàng nào, hoặc IMF như một cơ quan kiểm soát quốc tế có
khả năng can thiệp vào nội bộ của các nước hội viên, hoặc vai trò không còn
thích hợp của IMF trong hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay. Nhằm tìm hiểu rõ
hơn các vấn đề đặt ra, em đã chọn đề tài: “Phân tích làm sáng tỏ vai trò của một
tổ chức quốc tế chuyên môn thuộc hệ thống Liên hợp quốc trong việc duy trì và
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các quốc gia thành viên”. Do phạm vi kiến thức
hạn chế, bài viết không tránh khỏi những sai sót. Mong thầy cô đóng góp ý kiến
để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
1. Tổng quan về Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
1.1. Sự thành lập Quỹ tiền tệ Quốc tế - Hội nghị Bretton Woods
Ngày 01/7/1944, dưới sự triệu tập của Tổng thống Mỹ Roosevelt, Hội nghị
tài chính và Tiền tệ Liên hợp quốc đã được khai mạc tại Đại vũ trường Khách sạn
Washington ở thành phố Bretton Woods, tiểu bang New Hampshire của Mỹ, với
700 đại biểu đến từ 44 quốc gia tham dự. Sau 3 tuần diễn ra rất căng thẳng, ngày
22/7/1944, Hội nghị đã bế mạc thành công. Kết quả của Hội nghị chính là việc ra
đời Thoả ước Bretton Woods, có ý nghĩa tạo cơ sở cho việc thành lập Quỹ Tiền tệ
Quốc tế. Ngày 27/12/1945, Hiệp định về Điều lệ thành lập Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(sau đây gọi là Điều lệ Quỹ) chính thức có hiệu lực.
Đến cuối tháng 07/2009, IMF có 186 thành viên và Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của tổ chức này năm 1956.
1.2. Mục tiêu hoạt động và chức năng cơ bản của IMF
1.2.1. Mục tiêu hoạt động của IMF
Điều 1 của Hiệp định thành lập IMF chỉ rõ trách nhiệm của Quỹ:
- Xúc tiến hoạt động hợp tác tiền tệ quốc tế;
- Tạo điều kiện cho việc mở rộng, phát triển cân đối thương mại quốc tế;
- Duy trì ổn định hối đoái;
- Hỗ trợ thiết lập hệ thống thanh toán đa phương;
1
- Cung cấp nguồn lực (với độ an toàn cần thiết) cho các thành viên gặp
khó khăn trong cán cân thanh toán.
Như vậy, IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính
và tiền tệ quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng
tiền tạo điều kiện giao thương giữa các nước. IMF tìm cách duy trì ổn định và
phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một khi xảy ra;
thúc đẩy phát triển và giảm đói nghèo.
1.2.2. Chức năng cơ bản của IMF
- Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ, tỷ giá hối đoái của các thành viên.
- Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân
thanh toán.
- Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của
các nước thành viên
1.3. Cơ cấu tổ chức của IMF
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị - cơ quan tư vấn
về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10/1974. Hội đồng quản trị
gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần.
Hiện nay IMF có 182 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước
khác nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần.
Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng
điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc
do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do
Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.
Ủy ban lâm thời (Imterm Committee). Thành viên của Ủy ban lâm thời là
các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm thời
là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản
trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ
quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.
Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối
hợp giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về
những nhu cầu đặc biệt của nước nghèo. Bởi vì các ủy viên của Hội đồng quản
trị và các ủy viên của Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình
nên họ chỉ gặp mặt trong các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các
vấn đề của IMF.
2
IMF có khoảng 2600 nhân viên, đến từ các nước hội viên. Phần lớn họ là
những chuyên viên về kinh tế, thống kê, tài chánh quốc gia, thuế vụ, hệ thống tài
chánh và ngân hàng trung ương. Nhân viên của IMF là công chức của cơ quan
này và làm việc theo lợi ích của cơ quan này chứ không theo lợi ích riêng tư của
chính nước họ.
2. Vai trò của IMF trong việc duy trì và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các
quốc gia thành viên
2.1. Những hoạt động thể hiện vai trò của IMF trong việc duy trì và
thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các quốc gia thành viên
Trên cơ sở tại Điều 1 Hiệp định thành lập IMF trình bày trên, vai trò của
IMF được thể hiện trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình, vai trò của
Qũy đối với các thành viên và đối với thế giới đã có những thay đổi rất lớn.
Những thay đổi này có được dựa trên những lần Qũy điều chỉnh trọng tâm các
hoạt động của mình nhằm thích ứng với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể:
a. Vai trò của IMF - giúp đỡ về mặt tài chính:
Theo phương thức làm việc của IMF, cách giúp đỡ chia làm hai loại :
+ Giúp đỡ ngắn hạn: nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu
tạm thời. Thời gian mượn kéo dài từ 12 tháng đến 18 tháng. Mỗi tam cá nguyệt
nước mượn có thể rút một phần. Hạn trả kéo dài từ 3 đến 5 năm.
+ Giúp đỡ dài hạn: nhằm giúp đỡ những khó khăn về cán cân chi tiêu mà
nguồn gốc xuất phát từ những vấn đề liên quan tới hạ tầng cơ sở kinh tế của
nước. Hạn trả kéo dài từ 4 đến 10 năm.
Khi hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods còn tồn tại, vai trò của IMF
tập trung chủ yếu vào việc giữ tỷ giá cố định, đến năm 1973, khi có sự thả nổi về
tỷ giá thì vai trò này của IMF không còn nữa. Trước lý do đó, vào những năm
1980, IMF đã lần lượt thông qua các Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAP) để
duy trì vai trò của mình đối với các nước thành viên. Tuy nhiên, SAP của IMF
đã gặp rất nhiều thất bại, thể hiện qua những hậu quả xấu mà nó để lại ở các
quốc gia áp dụng
(1)
. Những thất bại này của SAP (được coi là lý do tồn tại của
IMF) đã buộc IMF phải có những điều chỉnh.
1
1
[1] – Trong số đó, Philippines là một điển hình, một số nội dung của SAP mà IMF áp dụng tại đây từ
năm 1984 như giảm đầu tư nông nghiệp tăng xuất khẩu nông sản và xoá bỏ kiểm soát giá cả đã làm
cho giá gạo tăng mạnh, an ninh lương thực nước này bị đe doạ nghiêm trọng. Những hậu quả đó vẫn
kéo dài đến tận ngày nay tại Philippines, rõ ràng nhất là việc Philippines trở thành nước nhập khẩu gạo
nhiều nhất thế giới.
3
Khi toàn cầu hóa trở thành xu hướng chủ đạo của thế giới và ngày càng được
phổ biến thì vai trò của IMF càng được đề cao và yêu cầu IMF phải có những hành
động cụ thể để đáp lại sự kỳ vọng đó. Vai trò của IMF lúc này chuyển hướng sang
duy trì và mở rộng sự hợp tác toàn cầu về kinh tế dựa trên sự ổn định và phát triển
kinh tế quốc gia, thể hiện qua việc IMF tiến hành tư vấn chính sách và hỗ trợ tài
chính cho các quốc gia thành viên để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế
cũng như an sinh xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững. Thông qua
hàng loạt các chương trình như EFF, ESAF, PRGF hay HIPC (Sáng kiến dành cho
các nước nghèo nợ nần chồng chất – phối hợp với Ngân hàng thế giới)… IMF đã
cung cấp những sự trợ giúp cần thiết cho các nước thành viên để giải quyết các vấn
đề tiêu cực nảy sinh do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Theo thống
kê của Quỹ, chương trình này đã đóng góp hữu hiệu vào việc nâng cao mức sống
của người dân trong những nước hội viên này, đặc biệt trong lĩnh vực sức khoẻ và
giáo dục. Các quyết định tài trợ tiếp theo được đưa ra với điều kiện chương trình
được thực hiện hiệu quả. Mặt khác, Quỹ không đòi hỏi điều kiện để một nước có
thể dùng quyền SDR của mình. Nếu một nước hội viên cần ngoại tệ, Quỹ sẽ chỉ
định một nước có sức mạnh kinh tế và tài chánh đổi những phần SDR lấy ngoại tệ.
Khi nước gặp khó khăn tìm lại được tình trạng thăng bằng kinh tế, số ngoại tệ đã
mượn sẽ được trả lại cho nước đã cho mượn. SDR cũng có thể được thanh toán trực
tiếp giữa các ngân hàng trung ương của một số nước hội viên mà không cần sự can
thiệp của Quỹ.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp và khó lường, các cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng như toàn cầu xảy
ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng, thì vai trò nổi bật của Quỹ lại được thể
hiện qua việc giúp đỡ các nước thành viên đối phó và khắc phục khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính tại các nước châu Á năm 1997 đã gây nên
những hậu quả vô cùng nặng nề, nằm ngoài khả năng tự giải quyết của các nước
này. Trước tình hình đó, Quỹ đã phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Thế giới để
tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm cứu trợ các quốc gia châu Á sau cuộc
khủng hoảng, đó là: Quỹ thiết lập một loại cho vay thêm (SRF) hạn trả từ 1 đến
2 năm và đã góp công lớn trong việc khôi phục tăng trưởng kinh tế tại các quốc
gia này. Mới đây, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt nguồn từ thị trường
nhà đất và tín dụng Mỹ (kéo theo đó là hàng loạt các cuộc khủng hoảng nợ công
ở Tiểu vương quốc Dubai, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và nhiều nước châu Âu khác)
đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề cho nền kinh tế thế giới, đòi hỏi các
quốc gia không thể đơn phương mà phải cùng hợp tác để vượt qua khó khăn
chung đó. Và IMF đã đóng vai trò trung tâm trong nỗ lực chung này, đi đầu
trong việc kêu gọi xây dựng gói kích cầu tài khoá quy mô toàn cầu trị giá 2%
4
GDP, nới lỏng chính sách tiền tệ và đồng thời thay đổi cách thức tư vấn chính
sách phù hợp với hoàn cảnh của từng nước. Từ năm 1999, để phòng bị trường
hợp một hay nhiều nước hội viên gặp khó khăn trầm trọng có thể gây ảnh hưởng
giây chuyền tạo ra khủng hoảng kinh tế thế giới, Quỹ thiết lập một loại cho vay
phụ khác (CCL) hạn trả cũng tương tự như loại cho vay trên. Với những dấu
hiệu phát triển đã được cải thiện ở một số khu vực thì IMF đang phối hợp với
các nước thành viên xây dựng các chiến lược thoát khỏi khủng hoảng dựa trên
nền tảng các chính sách hiện nay, dự kiến sẽ được thực hiện khi quá trình phục
hồi được đảm bảo chắc chắn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu chỉ có các chính sách phù hợp thì vẫn
không thể đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô. Diễn biến đã qua cho thấy sự cần
thiết của hỗ trợ tài chính đa phương nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính thường
xuyên nằm ngoài tầm kiểm soát của các quốc gia thành viên. Trước yêu cầu đó,
IMF đã tiếp tục thể hiện vai trò đi đầu của mình trong việc trợ giúp tài chính cho
các quốc gia thành viên, thông qua quyết định tăng gấp 3 lần nguồn vốn cho vay
lên tới 750 tỷ USD và tăng gấp đôi nguồn vốn ưu đãi dành cho các nước nghèo
cũng như quyết định phân bổ một nguồn vốn trị giá 283 tỷ SDR cho các quốc
gia thành viên. Chỉ riêng giữa hai lần Hội nghị thường niên (năm 2008 – 2009),
IMF đã cho 20 quốc gia thành viên vay với số vốn lên tới 41, 5 tỷ USD. IMF
cũng đã tiến hành rà soát lại toàn bộ khuôn khổ và các điều kiện cho vay nhằm
đảm bảo rằng các nguồn lực được mở rộng sẽ được sử dụng để hỗ trợ chính sách
và tài chính một cách có hiệu quả và phù hợp. Tiến hành lập Hạn mức tín dụng
linh hoạt dành cho các nước có cơ chế chính sách lành mạnh và cơ sở nền tảng
vững chắc, tăng tính linh hoạt của các cơ chế SBA. IMF cũng đã hỗ trợ năng lực
đối phó với khủng hoảng tại các nước nghèo nhất bằng cách cải cách các thể
thức cho vay ưu đãi của mình.
b. Vai trò của IMF - giúp đỡ về mặt kỹ thuật:
Các hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật cho các nước thành viên thường được IMF
cung cấp miễn phí nhằm giúp những nước này củng cố khả năng thiết lập và
thực hiện các chính sách hiệu quả, cụ thể:
Trong thập niên 60, nhiều nước Phi châu và Á châu trở thành độc lập đã
nhờ IMF giúp đỡ để thiết lập hạ tầng tài chính quốc gia như ngân hàng trung
ương, bộ kinh tế tài chánh. Sự giúp đỡ kỹ thuật này càng ngày càng được mở
rộng không những về số nước được giúp đỡ, mà còn trong chương trình huấn
luyện kỹ thuật như phương cách thiết lập chính sách tiền tệ, ngân sách quốc gia,
kiểm soát hệ thống ngân hàng, kế toán quốc gia, thống kê. Trong thập niên 90,
nhiều nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường đã được
5