Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.11 KB, 84 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới và chuyển đổi sang cơ chế
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cho dù xây dựng kinh tế thị trường theo mô hình nào trong lịch sử thì Nhà nước
cũng phải thực hiện nhiệm vụ có tầm quan trọng bậc nhất là cung cấp khung khổ
pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực và phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị
trường. Trong đó có khung luật pháp cho việc xây dựng và vận hành thị trường các
yếu tố sản xuất quan trọng nhất như lao động, vốn, đất đai, tài sản, khoa học công
nghệ…Về vấn đề này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị
quyết đã đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật nước ta, nguyên nhân, định
hướng và các giải pháp thực hiện chiến lược .
Tín dụng nói chung và tín dụng NHTM nói riêng là chiếc cầu nối giữa cung và
cầu về vốn trong nền kinh tế.Tín dụng NHTM có vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế đối với nước ta, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế còn phát
triển chủ yếu dựa vào vốn. Tín dụng NHTM là một mối quan hệ kinh tế nên cần phải
có một hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là
toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ
thể tham gia vào mối quan hệ tín dụng NHTM …. Tín dụng là mối quan hệ dựa
trên sự chuyển giao tài sản, mục đích sử dụng tài sản, thế chấp, cầm cố, xử lý thu hồi
nợ. Do đó đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý đầy đủ , thống nhất, minh bạch để
tín dụng NHTM có thể vận hành một cách thông suốt, mang lại lơi ích cho nền kinh
tế.
Nhà nước ta trong gần ba mươi năm đổi mới đã đạt nhiều thành công trong việc
tạo lập hệ thống pháp luật cho nền kinh tế thị trường vận hành và phát triển. Trong
đó hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM cũng từng bước được hoàn
thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng
của NHTM ở Việt Nam hiện nay còn thiếu nhiều quy định cần thiết, các quy
định còn chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu tính thống nhất, có quy định còn chưa


1
khả thi, chưa theo kịp thực tiễn như về điều kiện cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản,
xử lý tài sản để thu hồi nợ….
Một khi hành lang pháp lý còn nhiều vấn đề như trên, các NHTM sẽ lúng túng
trong áp dụng luật pháp khi thẩm định các khoản tín dụng, việc thu hồi nợ khi
có rủi ro xảy ra gặp nhiều khó khăn…ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt
động tín dụng của NHTM.
Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều kẽ hở
thì sẽ rất khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín
dụng nói riêng. Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều
kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực này.
Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng xử lý các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy
ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay . Do đó nếu chậm được
hoàn thiện, hành lang pháp lý sẽ không còn là con đường bằng phẳng mà ngược
lại sẽ là rào cản trong việc phát triển tín dụng NHTM, gây ra nhiều vấn đề pháp
lý cần phải giải quyết, gây ách tắc trong hoạt động tín dụng NHTM, ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế của đất nước.
Từ những lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện hành lang pháp lý cho
hoạt động tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ – chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tín dụng các NHTM đã được nghiên cứu trong rất nhiều công trình khoa
học của các tác giả trong nước. Một số công trình nghiên cứu cơ bản như:
- Giải pháp hoàn thiện quan hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở
Việt Nam - Lê Thị Thanh Hà. Trường Đại Học Kinh Tế, 2003 . Trong công trình
này, tác giả trình bày những lý luận cơ bản, nêu một số thực trạng về hoạt đông tín
dụng tại các NHTM tại Việt Nam cũng như đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quan
hệ tín dụng giữa NHTM với các doanh nghiệp ở Việt Nam
- Giải Pháp Mở Rộng và Phát Triển Hình Thức Tín Dụng Ngân Hàng trong Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Lê Minh Vũ. - TP.HCM : Trường

Đại Học Kinh Tế, 2001. Với công trình này, ngoài những lý luận cơ bản, một số
thực trạng về hoạt đông tín dụng tại các NHTM tại Việt Nam, tác giả đưa ra các giải
pháp mở rộng và phát triển các hình thức tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam.
- Nghiên cứu các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt
Nam : Luận văn thạc sĩ - Trần Thị Ngọc Hạnh ; người hướng dẫn: TS Nguyễn Thị
2
Loan. - TP.HCM : Trường Đại Học Kinh Tế, 2012. Trong nghiên cứu này tác giả đã
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN - PGS, TS Hà Hùng Cường, 2008, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
Trong nghiên cứu này, tác giả phân tích thực trạng chung và các giải pháp hoàn thiện
hệ thống pháp luật nói chung của nước ta
- Thực trạng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt nam- TS Đinh Văn Ân, 2006, Cổng thông tin Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế Trung ương. Một số vấn đề về xây dựng pháp luật cho kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được tác giả phân tích .
Tuy nhiên các công trình trên chưa đi sâu phân tích thực trạng cũng như đề ra
các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của
các NHTM.
Trong luận văn của này, tác giả kế thừa những thành quả của những nghiên cứu
trước, đồng thời cố gắng làm rõ những lý luận cơ bản , hệ thống hóa các vấn đề về
thực trạng hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM tại Việt Nam cũng
như đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là những vấn đề cơ bản thuộc
về khung pháp lý mà Nhà nước đã ban hành nhằm điều chỉnh mối quan hệ tín dụng
giữa các NHTM và khách hàng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu và giới hạn

Luận văn nghiên cứu thực trạng hệ thống các văn bản pháp luật dưới góc độ tín
dụng của các NHTM . Tín dụng ngân hàng là hoạt động trung gian tài chính huy động
vốn của xã hội để cho vay đối với nền kinh tế . Cấp tín dụng của NHTM bao gồm nhiều
nghiệp vụ như : cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu giấy tờ có giá nhưng
thực tiễn khi nói đến tín dụng ngân hàng là nói đến hoạt động cho vay. Do đó luận văn
này chỉ nghiên cứu dưới góc độ huy động vốn và cho vay của các NHTM.
4. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vai trò của Nhà
nước trong việc ban hành khung pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ tín dụng; về hệ
thống pháp luật; về tín dụng NHTM, từ đó đề xuất phương hướng, quan điểm và các
3
giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng các
NHTM.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản như vai trò của Nhà nước trong việc ban
hành hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường ; hành lang pháp lý ở nước ta
cho tín dụng NHTM.
- Phân tích thực trạng hệ thống văn bản pháp luật ở nước ta điều chỉnh mối
quan hệ tín dụng NHTM ở nước ta từ năm 1986 đến nay tức là giai đoạn xây dựng
kinh tế thị trường.
Trên cơ sở những phân tích về lý luận, thực tiễn có những đề xuất phương hướng,
quan điểm và các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động
tín dụng các NHTM ở nước ta.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp luận
Luận văn dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nguyên lý
của kinh tế chính trị Mác - Lênin
6.2 Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích so sánh và suy luận logic để tổng hợp các dữ liệu, sự
kiện nhằm xác định kết quả phù hợp.
- Phương pháp tổng hợp các phần nghiên cứu để đưa luận điểm khoa học.
- Phương pháp thống kê mô tả
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Lý luận chung về NHTM và hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng
NHTM.trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Chương 2: Thực trạng hệ thống hành lang pháp lý điều chỉnh mối quan hệ tín dụng
NHTM ở nước ta
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hành lang pháp lý cho
hoạt động tín dụng NHTM ở nước ta.
4
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN
1.1Tổng quan về NHTM :
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế mà hoạt động
cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thanh toán
Từ khi ra đời từ thế kỷ thứ 15 cho đến nay, thuật ngữ ngân hàng không cố định
mà có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Khi mới hình thành khái niệm
ngân hàng dùng để chỉ các tổ chức chuyên nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để
cho vay. Sự phát triển của nền kinh tế đã cho ra đời nhiều loại hình tổ chức khác
nhau có phương thức kinh doanh tiền tệ đa dạng phong phú nên thuật ngữ “Ngân
hàng” trở nên hạn hẹp, không bao trùm hết được, vì vậy xu hướng trên thế giới sử
dụng thuật ngữ “ Định Chế tài chính” có phạm vi rộng hơn, bao quát hơn
Định Chế tài chính được hiểu là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là
các tài sản tài chính, các hình thức trái quyền như cổ phiếu, trái phiếu các khoản
vay…

Có thể khái quát về ngân hàng thông qua các điểm sau :
Thứ nhất : Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính của nền kinh tế (cần
phân biệt các khái niệm định chế tài chính-trung gian tài chính) Tuy nhiên là loại
trung gian tài chính quan trọng nhất ( so sánh về số lượng cũng như quy mô phát
triển)
5
Thứ hai : Hoạt động cốt lõi, mang bản chất ngân hàng là nhận tiền gửi, cấp tín
dụng và thanh toán. Đây là hoạt động có tính truyền thống hình thành lâu đời, thể
hiện đặc trưng riêng biệt của ngân hàng
Theo thời gian , hoạt động của các ngân hàng ngày càng mở rộng hơn so với các
hoạt động cốt lõi mang tính truyền thống của nó trở thành loại hình ngân hàng đa
năng, cung cấp những sản phẩm đa dạng, từ việc nhận tiền gửi, cung cấp dịch vụ
thanh toán, cho vay thương mại, cho vay xuất nhập khẩu cho đến tài trợ các vụ
mua bán, sát nhập công ty , tư vấn đầu tư giám hộ, mua bán kinh doanh chứng
khoán (tự doanh), bảo hiểm.
Luật về ngân hàng tại Việt nam không sử dụng thuật ngữ Định chế tài chính mà
thay thế bằng thuật ngữ Tổ chức tín dụng. Theo đó các loại hình tổ chức tín dụng
bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng tài chính vi
mô và quỹ tín dụng nhân dân. Trong số đó ngân hàng là loại hình phổ biến nhất,
chiếm tỷ lệ đông đảo nhất. Luật quy định Ngân hàng là tổ chức tín dụng được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã
1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại
Với mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro, kinh doanh ngân hàng
có những đặc trưng cơ bản sau đây :
Thứ nhất kinh doanh ngân hàng là kinh doanh có điều kiện
So với những hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực khác, có thể nói kinh doanh
ngân hàng phải tuân thủ những điều kiện khắt khe về vốn pháp định, về bộ máy
tổ chức hoạt động, về phạm vi các nghiệp vụ kinh doanh được phép, không được
phép thực hiện…Có thể lý giải điều này là vì lĩnh vực tài chính tiền tệ là một lĩnh

vực nhạy cảm, có liên quan đến hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế . Ngân
hàng được ví như hệ thần kinh của nền kinh tế, bởi bất kỳ một biến động nào của
hệ thống ngân hàng cũng có ảnh hưởng theo hai chiều ngược lại đối với toàn bộ
nền kinh tế. Mặt khác hoạt động ngân hàng có tính lan truyền rất cao. Vì vậy
những quy định khắt khe trong kinh doanh ngân hàng là cần thiết nhằm tạo ra
một môi trường lành mạnh, không chỉ có lợi cho từng tổ chức tín dụng/ ngân
hàng mà còn cho sự ổn định chung của hệ thống và nền kinh tế
Những điều kiện cơ bản quy định trong kinh doanh ngân hàng gồm có :Quy định
về mức vốn pháp định khi thành lập ngân hàng; Quy định về các mức đảm bảo
6
an toàn trong kinh doanh ngân hàng; Quy định về phạm vi hoạt động được phép
của ngân hàng
Thứ hai: đối tượng kinh doanh của ngân hàng là các tài sản tài chính
Thực chất kinh doanh ngân hàng là việc sản xuất, buôn bán, quản lý , lưu thông
và sử dụng tiền cùng các tài sản tài chính
Tài sản tài chính là các loại tài sản không tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất hàng hóa dịch vụ, như tiền, chứng khoán và các giấy tờ có giá…Các loại tài
sản này chỉ là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể là những dữ liệu trong máy
tính sổ sách. Cụ thể hơn, tài sản tài chính là những tài sản có giá trị không dựa
vào nội dung vật chất của nó (giống như bất động sản gồm nhà cửa, đất đai) mà
dựa vào các quan hệ trên thị trường, chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu, các giấy
tờ có giá khác
Thứ ba : Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính chất trung gian
Tính chất trung gian (intermediaries) trong hoạt động ngân hàng xuất phát từ
việc ngân hàng làm trung gian giữa người gửi tiền (Depositor) và người vay tiền
(Borrowers) . Có thể phân tích tính chất này trên nhiều khía cạnh khác nhau cụ
thể, Đó là :
Trung gian về mệnh giá : ngân hàng là tổ chức tín dụng thu thập nhiều khoản tiền
tiết kiệm nhỏ lẻ…của nhiều tầng lớp, chủ thể trong nền kinh tế , hình thành nên
quỹ cho vay và có thể cung cấp những khoản tín dụng quy mô lớn cho các chủ

thể như công ty, chính quyền…
Trung gian về kỳ hạn : quỹ cho vay của ngân hàng được hình thành từ những
khoản tiền gửi có các loại kỳ hạn khác nhau, thậm chí không có kỳ hạn, đã được
ngân hàng chuyển thành những khoản cho vay ra với các kỳ hạn khác nhau thỏa
mãn nhu cầu người sử dụng, đặc biệt là những khoản vay trung dài hạn mà thời
hạn có thể lên tới vài chục năm. Điều này dĩ nhiên tiềm ẩn nhiều rủi ro ngân
hàng.Tuy nhiên bằng nhiều kỹ thuật quản trị hiện đại, các ngân hàng có hóa giải
được mâu thuẫn này để thực hiện vai trò trung gian kỳ hạn của mình. Với tính
chất này, ngân hàng đã hóa giải được mâu thuẫn tồn tại tất yếu từ hai phía khách
hàng: người gửi tiền thì hầu hết muốn gửi tiền có kỳ hạn ngắn, trong khi người
vay tiền thì muốn sử dụng trong thời gian dài.
Trung gian lãi suất:Ngân hàng được xem là các tổ chức kinh doanh chênh lệch lãi
suất. Lãi suất ngân hàng trả cho người gửi tiền là lãi suất đầu vào còn lãi suất
ngân hàng là lãi suất đầu ra.Những chi phí hoạt động ngân hàng bỏ ra, phí bù đắp
7
cho rủi ro khi cho vay và lợi nhuận của ngân hàng nằm trong khoản chênh lệch
giữa lãi suất ngân hàng thu được và lãi suất ngân hàng phải trả cho người gửi
tiền.
Trung gian thanh khoản: thanh khoản là yêu cầu của con người đối với hầu hết
các loại tài sản đang nắm giữ.Tuy nhiên nhu cầu thanh khoản của mọi người lại
không giống nhau. Với người gửi tiền, có thể thỏa thuận gửi tiền theo kỳ hạn,
nhưng có thể thay đổi theo thời gian bởi các biến cố không dự kiến được từ nền
kinh tế, từ xã hội họ vẫn muốn rút ra bất kỳ lúc nào, thậm chí chấp nhận chịu phạt
hoặc không được hưởng lãi. Người đi vay do đầu tư vào các dự án, phương án
kinh doanh nên chỉ muốn hoàn trả khi dự án, phương án kinh doanh kết thúc và
có lợi nhuận, thậm chí nhiều khi muốn tiếp tục xoay vòng vốn, trì hoãn việc trả
nợ…
Ngoài các nội dung trên, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động trung gian
thông tin, trung gian rủi ro…
Thứ tư : Hoạt động ngân hàng chịu sự chi phối mạnh mẽ của môi trường

Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong
phạm vi một nước mà liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế
đối ngoại; do vậy kinh doanh trong hệ thống ngân hàng chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố trong nước như : môi trường pháp luật, môi trường kinh tế… đặc
biệt là chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó
có công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định
đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Mặt khác , xu thế hội nhập quốc
tế buộc các ngân hàng phải hiểu rõ về tập quán kinh doanh của các nước, thông lệ
quốc tế, trong đó các quy định của ủy ban Basel (Ủy ban giám sát hoạt động ngân
hàng) là không thể thiếu được
Thứ năm: hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt có rủi ro hệ
thống cao
Mặc dù ngân hàng là một doanh nghiệp , nên mục đích sau cùng là hướng tới lợi
nhuận, tuy nhiên hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế ,
đặc biệt, hoạt động cấp tín dụng không chỉ đơn thuần vì túi tiền của riêng ngân
hàng mà quan trọng hơn nó được xem là đòn bẩy phát triển kinh tế, chính vì thế
chịu sự chi phối rất mạnh mẽ của pháp luật
8
So với các ngành kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng có mức độ tập trung rất
cao.Đặc trưng này thể hiện tất cả các quốc gia trên thế giới, không loại trừ Việt
nam. Mỗi một ngân hàng thường có một tổ chức rộng rãi với hội sở và mạng lưới
nhiều chi nhánh lan tỏa khắp nơi. Điều này vừa tạo thuận lợi vừa gây khó khăn
cho ngân hàng trong quá trình quản trị mạng lưới hoạt động của mình sao cho
hiệu quả nhất
Như mọi ngành dịch vụ khác, sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm vô hình,
khách hàng không thể cân đọng đo đếm mà chỉ “cảm nhận” được chất lượng của
nó. Vì vậy, sự thành công trong kinh doanh ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào
long tin dân chúng. Do tài chính, tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu
tác động bới rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý truyền thống
văn hóa … vì vậy , sự thay đổi dù nhỏ nhất của bất kỳ một nhân tố nào cũng đều

ảnh hưởng rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung của
ngân hàng, gây đổ vỡ luôn chính ngân hàng này do tác động dây chuyền
1.1.3 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế thị trường :
1.1.3.1 Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
NHTM. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu
nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM
vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi
nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần
tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay
1.1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện
các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi
của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như
séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy
theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng
9
hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát
triển kinh tế.
1.1.3.3 Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển
của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã
vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là
chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín

dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với
chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. NHTM tạo tiền phụ
thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với
NHTM. do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền
vào nền kinh tế lớn.
1.1.4 Các nghiệp vụ NHTM
Nghiệp vụ nội bảng là những nghiệp vụ trực tiếp tác động đến hai phía (nợ và
có) trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Bất kỳ một nghiệp vụ nào trong số
các nghiệp vụ này xuất hiện đều làm cho cân đối kế toán của ngân hàng thay đổi.
Hầu hết các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng nằm trong số này
Nghiệp vụ ngoại bảng thông thường bao gồm các hoạt động không dung đến
nguồn vốn, vì vậy khi những nghiệp vụ thuộc dạng này phát sinh, chúng không
ảnh hưởng đến bảng cân đối của ngân hàng nhưng vẫn có thể mang lại những
nguồn thu nhập cho ngân hàng, như các dịch vụ thu hoa hồng phí, tư vấn kinh
doanh ngoại tệ, bảo quản vật có giá, bảo lãnh, chấp nhận….
Phần dưới đây chúng ta sẽ đi sâu vào cách phân loại phổ biến nhất, đó là phân
loại theo cách hạch toán trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng
1.1.4.1 Nghiệp vụ nội bảng
Bảng 1 : Bảng cân đối kế toán (tóm lược) của một NHTM
Tài sản Tài sản nợ và vốn
10
1.Dự trữ tiền 1. Tiền gửi khách hàng
Tiền mặt Tiền gửi giao dịch
Tiền gửi tại ngân hàng trung ương Tiền gửi phi giao dịch
Tiền gửi tại các TCTD 2. Vay thị trường tài chính
2. Cho vay khách hàng 3.Vốn chủ sở hữu

3. Đầu tư Vốn điều lệ
4. Tài sản cố định Quĩ và lãi không chia
5. Tài sản khác 4. Tài sản nợ khác
Tổng tài sản Tổng tài sản nợ và vốn
1.1.4.2 Nghiệp vụ tài sản có
1.1.4.2.1 Dự trữ bằng tiền :
Vai trò của dự trữ bằng tiền là đảm bảo khả năng thanh toán. Đặc điểm của
nghiệp vụ này là không hoặc ít sinh lời, nên các ngân hàng luôn tìm cách duy trì
chúng ở mức tối thiểu. Dự trữ của ngân hàng thường được lưu giũ dưới dạng tiền
mặt tại quỹ hoặc tiền gửi tại ngân hàng trung ương và các tổ chức tài chính khác.
Qui mô nguồn vốn, tính chất các nguồn, tính chất khách hàng và qui định về đảm
bảo thanh khoản là những yếu tố ảnh hưởng đến qui mô và tỷ trọng của loại tài
sản này
1.1.4.2.2 Tín dụng
Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các ngân hàng nên chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong các nghiệp vụ về sử dụng nguồn vốn . Về phương diện quản trị, khoản mục
tín dụng được xem là những tài sản có rủi ro sinh lời của NHTM , nhất là các
ngân hàng qui mô nhỏ, tỷ trọng tài sản được lưu giữ dưới khoản mục tín dụng
vẫn còn khá cao. Tuy nhiên xu hướng của các ngân hàng hiện đại là sẽ giảm dần
tỷ trọng của khoản mục này, nhằm hạn chế những hậu quả xấu bởi các rủi ro tất
yếu do tín dụng mang lại. các yếu tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ này là: đặc điểm
thị trường, nguồn vốn, qui định của Nhà nước về hạot động tín dụng ngân hàng,
vị thế cạnh tranh và lãi suất mà ngân hàng áp dụng
11
Ở đây cần dành ít thời gian để làm rõ khái niệm Tín dụng và Tín dụng ngân
hàng . Tín dụng trong tiếng Anh là Credit. Theo nhiều cuốn Từ điển tiếng Việt thì
hầu hết được giải thích là việc cho vay và mượn tiền. Theo trang
vi.wikipedia.org thì ”Tín dụng là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài
chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính
cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất”.

Theo Nguyễn Minh Kiều (2012) thì : ”Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng
trong một thời hạn nhất định với một chi phí nhất định ” và ” Tín dụng ngân
hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng và khách hàng, theo đó có thể
là quan hệ cho vay của ngân hàng đối với hoặc quan hệ gởi tiền của khách hàng
vào ngân hàng ”. Một số sách chỉ cho rằng tín dụng ngân hàng tập trung vào
quan hệ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng.
Còn theo Luật các TCTD 2010 thì không có giải thích từ tín dụng mà chỉ giải
thích cụm từ cấp tín dụng: ” Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân
sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.” Thông
thường trong các giáo trình , các nhà soạn sách thường đồng nhât tín dụng với
cho vay, còn các nghiệp vụ chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng sẽ được giảng ở các phần khác không thuộc phần tín dụng.
Tín dụng có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, được thể hiện
trên các phưong diện:
-Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng
thời đầu tư phát triển kinh tế.
Do quá trình tái sản xuất xã hội là thưòng xuyên và liên tục nên nhu cầu về vốn
thường xuyên ở mức độ cao. Trong khi đó lại có tổ chức, cá nhân có nguồn vốn
nhàn rỗi tạm thời trong một thời gian nhất định. Bên cần vốn thì có thể vay được
vốn với chi phí thấp và kịp thời để hoàn thành công việc của mình, bên có vốn thì
12
thu được khoản lợi trong thời gian mình không dùng tới khoản vốn đó. Hoạt động
tín dụng ra đời biến các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành
những nguồn vốn đưa vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả cho các doanh
nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ cho mọi tầng
lớp dân cư khi cần vốn.
Thông qua tín dụng ngân hàng các nguồn vốn được tập trung và các nguồn vốn

đó được đưa vào quá trính sản xuất kinh doanh. Điều này khiến đầu tư cho nền
kinh tế được mở rộng góp phần thúc đẩy, kích thích tăng trưởng kinh tế.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập
trung sản xuất.
Tín dụng ngân hàng là hoạt động đi vay để cho vay, làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi
thừa đến nơi thiếu.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng đầu tư vào các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong quá trình đầu tư, tín dụng ngân hàng không chia đều cho mọi chủ thể có
nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung chủ yếu vào những
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu vừa
đảm bảo tránh rủi ro, vừa thúc đẩy được quá trình tăng trưởng kinh tế.
-Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá, tiền tệ, điều
tiết trong lưu thông và kiểm soát lạm phát.
Tín dụng ngân hàng sẽ làm cho hàng hóa , dịch vụ được tiêu thụ nhanh hơn,
nhiều hơn. Qua đó thúc đẩy luân chuyển hàng hóa , tiền tệ. Việc điều hoà vốn tín
dụng trong nền kinh tế không chỉ là giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong
nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền
mặt và hạn chế việc sử dụng tiền mặt, từ đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho
xã hội, góp phần vào việc điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ, đồng thời kiểm
soát được lạm phát.
13
-Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước đều gắn liền với thị trường thế giới.
Tín dụng ngân hàng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong nền kinh tế
tăng khiến cho các quan hệ thương mại khác cũng tăng theo. Thông qua quá trình
nhận và cho vay, tài trợ, xuất nhập khẩu của các nước cấp tín dụng cũng như các
tổ chức tín dụng khác cũng tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế.
Đồng thời tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản

xuất trong nước phát triển và làm mối quan hệ giữa các nước trở nên tốt đẹp.
1.1.4.2.3 Đầu tư
Đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau tín dụng bởi nó mang lại khoản thu nhập
lớn và đáng kể của ngân hàng. Tuy nhiên cũng như tín dụng, đầu tư là nghiệp vụ
sinh lời nhưng hoạt động bị giới hạn do có độ rủi ro tiềm tàng cao. Các ngân hàng
có thể tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng
khác, kể cả việc góp vốn vào các công ty con, công ty liên kết, quỹ đầu tư hoặc
mua các loại chứng khoán vốn, chứng khoán nợ trên thị trường như mua trái
phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty, cổ phiếu, các loại
tín phiếu, của các tổ chức tài chính khác….
1.1.4.3 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn
1.1.4.3.1 Tiền gởi
Đây là các khoản tiền của các tổ chức, của dân cư gửi vào ngân hàng với
những mục tiêu an toàn, hưởng lãi, hoặc hưởng các tiện ích của dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng. Nguồn tiền gửi được xem là nguồn vốn chủ yếu của các
ngân hàng nhất là NHTM nên tính ổn định của nguồn tiền gửi có ý nghĩa hết sức
quan trọng với các NH.
1.1.4.3.2 Vay trên thị trường tài chính và liên ngân hàng
Đây là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng trong thị trường liên ngân hàng,
thông qua các hoạt động như tái chiết khấu, vay qua đêm, với mục tiêu chủ yếu là
14
tăng khả năng thanh toán cho các ngân hàng.Trên thực tế một số ngân hàng nhỏ
do thiếu khả năng huy động nguồn tiền gửi có thể dung vốn vay để sử dụng vào
hoạt động tín dụng. Trong khi các ngân hàng qui mô lớn, có thương hiệu lâu đời
dùng nguồn huy động của mình để cho vay lại các ngân hàng nhỏ. Đây là một
hạn chế trong hoạt động đi vay và cho vay của các ngân hàng cần được quản lý.
1.1.4.3.3 Vốn tự có
Vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất vừa cho thấy qui
mô của ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảo bảo các khoản nợ của ngân hàng
đối với khách hàng. Mặc dù chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong tổng số hoạt động

kinh doanh của ngân hàng nhưng vốn tự có là một bộ phận không thể thiếu của
NHTM để xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
NH, bảo đảm thanh toán cho người ký gửi khi vỡ nợ, góp phần duy trì chức năng
trả nợ, là căn cứ để cơ quan quản lý xem xét để cấp giấy phép hoạt động, thiết lập
các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư …
1.1.4.4 Nghiệp vụ ngoại bảng
Các nghiệp vụ này không thể hiện trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Phổ
biến nhất trong số nghiệp vụ ngoại bảng là những cam kết của ngân hàng đối với
khách hàng
Một số nghiếp vụ ngoại bảng phổ biến sau :
-Nghiệp vụ thanh toán và quản lý ngân quỹ
-Nghiệp vụ môi giới, trung gian chứng khoán, ngoại hối
-Nghiệp vụ bảo lãnh, cam kết
-Nghiệp vụ ủy thác
-Nghiệp vụ tư vấn
-Nghiệp vụ két sắt, bảo quản vật có giá
Trong số các nghiệp vụ nêu trên, có một số nghiệp vụ ngân hàng chỉ được phép
thực hiện khi thành lập các công ty con, công ty liên kết như nghiệp vụ môi giới
15
chứng khoán, bảo hiểm, quản lý danh mục đầu tư, mua bán cổ phiếu…Quy định
này tùy thuộc vào luật ngân hàng của mỗi quốc gia
Hệ thống NHTM Việt Nam :
Hệ thống NHTM Việt Nam được thành lập từ sau nghị định 53 của hội đồng bộ
trưởng ngày 26/3/1988, Trải qua hơn 35 năm hoạt động, các NHTM ngày càng
trưởng thành và phát triển. Hiện nay có các loại hình NHTM nhà nước , cổ phần ,
vốn nước ngoài và liên doanh. Nhìn chung các NHTM của Việt Nam có hệ thống
quản trị rủi ro còn chưa đáp ứng được yêu cầu thể hiện qua tình trạng nợ xấu trầm
trọng hiện nay trong nền kinh tế. Các NHTM chưa phát huy vai trò trung tâm
thanh toán vì tình trạng thanh toán không dùng tiền mặt vẫn chưa phát triển. Các
NHTM chưa phát huy tốt vai trò điều phối, cung ứng vốn cho nền kinh tế thể hiện

qua hiện tượng lúc thiếu vốn ( cách đây vài năm ) lúc thừa vốn ( hiện nay ).
Theo trang vi.wikipedia.org ngày 15/3/2014 thì danh sách các NHTM Việt Nam
( Bao gồm cả các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, chi nhánh NH Liên doanh )
như tại Phụ lục 1
1.2 Hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM trong nền kinh tế thị trường :
1.2.1 Khái niệm hành lang pháp lý :
Hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng NHTM là toàn bộ các văn bản quy
phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào mối quan
hệ tín dụng của các NHTM
1.2.2 Khái niệm ,đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
1.2.2.1 Khái niệm :
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc
phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự chặt chẽ , trong đó chứa
đựng các quy phạm pháp luật có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là hình thức pháp luật được
sử dụng phổ biến nhất hiẹn nay trên thế giới.
1.2.2.2 Đặc điểm :
Từ khái niệm này ta thấy văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm sau :
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục
được pháp luật quy định.
Điều này có nghĩa là các cơ quan nhà nước có thể ban hành hoặc phối hợp ban
hành nhiều văn bản khác nhau, nhưng không phải văn bản nào cũng được xem là
văn bản pháp quy mà chỉ có những văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành
16
với những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, tên gọi, ngôn ngữ , thẩm quyền
được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 hoặc Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
năm 2004 mới được gọi là văn bản quy phạm pháp luật.
- Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung,

có hiệu lực bắt buộc chung đối với mọi chủ thể pháp luật mà nó điều chỉnh.
Các quy phạm pháp luật chứa trong các văn bản này có giá trị điều chỉnh chung
đối với các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản đó, Điều này cũng
có nghĩa là văn bản quy phạm pháp luật không có giá trị áp dụng cá biệt cho một
cá nhân , tổ chức nào cụ thể mà được áp dụng cho bất kỳ cá nhân tổ chức nào
được pháp luật quy định
- Văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tiễn :
Pháp luật là do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một
trật tự và định hướng của Nhà nước.Vì thế , khi ban hành ra văn bản quy phạm
pháp luật , Nhà nước dùng các công cụ cưỡng chế của mình để đảm bảo cho các
văn bản đó được thực hiện đúng như Nhà nước đã mong muốn khi ban hành.
1.2.3 Một số vấn đề khi áp dụng văn bản quy phạm pháp luật
1.2.3.1 Thời gian hiệu lực :
Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị thi hành của văn
bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định. Hiệu lực này được xác
định bằng từ ngày có hiệu lực đến ngày kết thúc hiệu lực của văn bản. Theo quy
định tại điều 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì thời
điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản
nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban
hành. Trường hợp trong tình trạng khẩn cấp thì có thể có hiệu lực kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đưang ngay trên trang điện tử của
cơ quan ban hành, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công
báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất sau 2 ngày làm việc
kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành . Văn bản quy phạm pháp luật phải được
đăng Công báo, văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không
có hiệu lực thi hành trừ trương hợp văn bản thuộc bí mật nhà nước và các
trường hợp trong tình trạng khẩn cấp. Theo quy định tại điều 51 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
17
2004 thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh có hiệu lực sau 10 ngày và phải được đăng trên công báo cấp tỉnh
chậm nhất là 5 ngày; cấp huyện có hiệu lực sau 7 ngày và phải được niêm yết
chậm nhất là 3 ngày; cấp xã có hiệu lực sau 5 ngày và phải được niêm yết chậm
nhất là 2 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thông qua
hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký ban hành, trừ trường hợp văn bản quy định
ngày có hiệu lực muộn hơn.
Các trường hợp văn bản hết hiệu lực được quy định tại điều 81 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Về mặt nguyên tắc, văn bản quy phạm
pháp luật chỉ có giá trị pháp lý từ thời điểm có hiệu lực trở đi đến tương lai theo
đúng quy luật thời gian. Tuy nhiên, vì một số lý do nhất định, một văn bản có
thể có giá trị tác động đối với những hành vi, những vụ việc xảy ra trước ngày
văn bản đó có hiệu lực . Đó gọi là hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm
pháp luật hay gọi cách khác là hiệu lực hồi tố. Điều này được quy định tại điều
79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Còn theo điều 51
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 2004 thì không quy định hiệu lực hồi tố đối với văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân . Văn bản quy
phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết
định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2.3.2 Phạm vi, đối tượng áp dụng
Văn bản chỉ có giá trị áp dụng trong phạm vi và đối tượng áp dụng của mình,
đa số tất cả văn bản đều có quy định về nội dung này tại phần đầu văn bản. Do
đó, trước khi áp dụng bất kỳ quy định nào trong văn bản, nên xem lại thật kỹ
phần phạm vi và đối tượng áp dụng, để tránh được các rủi ro đáng tiếc. Văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành thì có hiệu
lực trong phạm vi cả nước được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức mà văn
bản đó quy định. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi nhất định đơn vị hành chính địa
phương đó, áp dụng cho các cá nhân, tổ chức tham gia các quan hệ xã hội được
văn bản đó điều chỉnh.

1.2.3.3 Nguyên tắc lựa chọn áp dụng
18
Pháp luật Việt Nam còn chưa được hoàn thiện, nhiều nội dung chồng chéo lên
nhau là thực tế mà không chuyên gia nào trong lĩnh vực pháp luật phủ nhận. Do
đó, đương nhiên có những trường hợp có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một
vấn đề, lúc đó phải có sự cân nhắc phù hợp đề tìm ra luật áp dụng:
- Áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn.
- Áp dụng văn bản mới hơn.
- Trường hợp văn bản có giá trị pháp lý như nhau thì luật riêng ưu tiên hơn luật
chung; luật nào sát với lĩnh vực của vấn đề thì ưu tiên hơn các lĩnh vực khác.
1.2.4 Hệ thống văn bản quy phạm pháp tại Việt Nam :
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay bao gồm :
1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
4. Nghị định của Chính phủ.
5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
7. Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
10. Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ
với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.
1.2.5 Sự cần thiết và vai trò của hành lang pháp lý trong sự phát triển

của tín dụng NHTM
Tín dụng NHTM là mối quan hệ dựa trên sự chuyển giao tài sản, mục đích sử
dụng tài sản, thế chấp, cầm cố, xử lý thu hồi nợ Với những văn bản pháp luật
đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng yên tâm hoạt động kinh
doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực này. Đây là cơ sở pháp lý để Ngân hàng xử lý
các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra. Điều đó giúp Ngân hàng tăng
cường hoạt động cho vay .Do đó đòi hỏi phải có một hành lang pháp lý đầy đủ ,
thống nhất, minh bạch để tín dụng NHTM có thể vận hành một cách thông suốt,
19
mang lại lơi ích cho nền kinh tế. Do đó hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM
có vai trò rất quan trọng.
- Là một trong những công cụ để cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
quản lý hoạt động tín dụng NH thương mại.
NHTM cũng là một doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tín dụng NHTM cũng là
một hoạt động kinh tế, chưa kể đó là một hoạt động kinh doanh rất quan trọng
trong nền kinh tế. Do đó, NHTM và hoạt động tín dụng NHTM phải được quản
lý . Cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ , tín dụng và ngân hàng ở
nước ta là NHNN Việt Nam . Vị thế của NHNN được xác bằng pháp luật và
đến lượt nó, NHNN phải ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn, kiểm
tra, thanh tra hoặc xử lý các NHTM trong lĩnh vực tín dụng NHTM.
- Là công cụ điều chỉnh mối quan hệ tín dụng giữa NHTM và các khách hàng
Tín dụng NHTM là một hoạt động kinh doanh. Mối quan hệ trong tín dụng này
là giữa bên cho vay và bên vay. Hành lang pháp lý sẽ quy định, tư cách pháp lý,
điều kiện, quyền và trách nhiệm của mỗi bên, cách xử lý khi có các trường hợp
phát sinh xảy ra, các thủ tục khi tiến hành mối quan hệ. Tín dụng còn là mối
quan hệ lồng ghép mối quan hệ khác như bảo đảm tài sản, bảo lãnh nên càng
phải có một hành lang pháp lý đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ này. Hơn
nữa tiền của NHTM là tiền của công chúng nên các bên tham gia tín dụng
NHTM phải tuân thủ các quy tắc xử sự nhất định để tránh thất thoát, lãng phí
của cải của xã hội

- Là công cụ điều chỉnh mối quan hệ kinh tế, quan hệ tiêu dùng tạo nên
nhu cầu cần sử dụng vốn trong tín dụng giữa NHTM và các khách hàng .
Việc cho vay là đưa tiền ra lưu thông nhằm thỏa mãn nhu cầu dùng tiền của bên
vay vốn. Các nhu cầu này phải là nhu cầu sử dụng vốn hợp pháp. Nghe ra thật
đơn giản nhưng muốn thực hiện được yêu cầu này cần phải có những văn bản
quy phạm pháp luật cần thiết để đối chiếu. Đồng thời sau khi giải ngân xong
một thời gian, các NHTM phải kiểm tra sử dụng vốn vay, khách hàng sẽ phải
căn cứ các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các hơp đồng kinh tế hoặc
việc mua sắm và sẽ lưu lại các bằng chứng để chứng minh việc sử dụng vốn của
mình là hợp pháp, đúng mục đích lúc đề nghị vay, các nhu cầu vay của mình
không bị pháp luật cấm.
20
- Là công cụ Nhà nước xây dựng chính sách tín dụng NHTM về cơ cấu tín
dụng, ngành nghề cần khuyến khích đầu tư
Muốn thực hiện việc can thiệp vào thị trường hoặc định hướng cho sự phát triển
của nền kinh tế, nhà nước cần thiết phải khuyến khích xã hội đưa thêm vào
hoặc rút bớt vốn ở một lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó . Tín dụng NHTM
là một kênh quan trọng để xã hội đầu tư vốn vào nền kinh tế. Thông qua các
văn bản quy phạm pháp luật , Nhà nước có thể khuyến khích tín dụng đầu tư
vào lĩnh vực cần ưu tiên phát triển, có thể do ưu tiên tăng trưởng kinh tế, có thể
do ưu tiên chăm lo đời sống nhân dân hoặc có thể do các ưu tiên ngắn hạn như
chống lạm phát, chống tăng trưởng nóng, chống lại sự mất cân đối trong sự phát
triển giữa các ngành nghề, giữa các vùng, các khu vực kinh tế.
1.2.6 Các yêu cầu của hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM
Một hành lang pháp lý đủ điều kiện để đáp ứng cho sự phát triển của nền
kinh tế thị trường nói chung và sự phát triển của tín dụng NHTM cần thỏa mãn
các yêu cầu sau đây :
1.2.6.1 Tính bao quát, toàn diện :
NHTM ở Việt Nam chỉ mới xuất hiện vào đầu những năm 1990, do đó
quá trình tạo dựng hành lang pháp lý cho tín dụng NHTM cũng chỉ được tiến

hành từ thời gian đó. Mặt khác, tín dụng NHTM là một thực thể luôn biến đổi,
các chủ thể của mối quan hệ này luôn có nhu cầu thực hiện các nghiệp vụ mới .
Do đó, phải có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật để đủ bao quát điều
chỉnh . Hành lang pháp lý đầy đủ phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu
cầu điều chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của mối quan hệ này .
Khả năng này là rất khó nhưng đó là mục tiêu của những người làm luật, những
người làm chính sách.
1.2.6.2 Tính đồng bộ
Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy phạm pháp luật nào cũng được tạo
ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể
những mối liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Tín dụng NHTM là một
mối quan hệ phức tạp đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật phải có đồng
thời, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo. Tất cả các văn bản quy
phạm pháp luật phải có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải có một trung
tâm thẩm định trước khi ban hành
1.2.6.3 Tính thống nhất
21
Hành lang pháp lý phải có tính nhất quán, thể hiện ở chỗ các văn bản pháp
luật trong cùng một lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm
thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể theo một quan điểm xuyên
suốt. Tính hệ thống có nghĩa là phải có ranh giới các đối tượng, phạm vi áp
dụng, tránh hiện tượng cùng một mối quan hệ nhưng có nhiều văn bản cùng
điều chỉnh. Tính hệ thống cũng có những khía cạnh tương đồng với tính nhất
quán. Tuy nhiên, tính nhất quán của pháp luật hàm chứa khía cạnh nội dung và
chính sách trong lúc đó tính hệ thống được thể hiện nhiều qua cấu trúc, cách sắp
xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật.
1.2.6.4 Tính khả thi, công khai, minh bạch
Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan trọng. Cũng có quan
điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật được công
bố, được phổ biến rộng rãi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Quan niệm này không sai, song chưa toàn diện, chưa đầy đủ. Tính minh bạch
của pháp luật còn thể hiện ở sự minh xác, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ
thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng
những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể đáp ứng
được tính khả thi.
1.2.6.5 Tính ổn định
Mặc dù tín dụng NHTM là một thực thể biến động liên tục nhưng các văn
bản pháp luật điều chỉnh phải ổn định một cách tương đối. Đây là yêu cầu cần
thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi
pháp luật liên tục dẫn đến sự không yên tâm của các chủ thể khi tham gia vay ,
gửi tiền tại các NHTM. Điều này đòi hỏi các nhà làm luật phải có thái độ thận
trọng đồng thời phải có khả năng lường trước những tình huống pháp lý trong
ban hành văn bản quy phạm pháp luật
1.2.6.6 Phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế
Hệ thống NHTM Việt Nam đã hội nhập với hệ thống ngân hàng thế giới do đó
phải từng bước tuân thủ các chỉ dẫn do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đề
ra. Do đó các văn bản quy phạm pháp luật mà các cơ quan chức năng của nước
ta ban hành phải hướng đến các tiêu chuẩn này. Mặt khác, kinh tế nước ta đã
hội nhập kinh tế kinh tế thế giới. Các hoạt động đầu tư, xuất nhập khẩu, thanh
toán quốc tế đều liên quan đến hoạt động tín dụng của các NHTM nên các văn
22
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế của nước ta phải phù
hợp hoặc có lộ trình phù hợp với các công ước, các hiệp định mà Việt Nam đã
hoặc sẽ tham gia. Đó là các quy định pháp luật về vốn tự có, vốn pháp định, các
tỷ lệ an toàn ; phân nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro
1.3 Nhiệm vụ của Nhà nước trong việc xây dựng hành lang pháp lý
cho kinh tế thị trường
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại
trong việc giải quyết một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói
nghèo, công bằng xã hội, môi trường, v.v. Để khắc phục các hiện tượng này ,

nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước
tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý
xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các tư cách
đó, nhà nước thực hiện các nhiệm vụ :
1.3.1Nhiệm vụ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.3.1.1 Quản lý, định hướng và hỗ trợ phát triển;
Nhà nước phải đảm bảo sự ổn định về kinh tế chính trị và xã hội, xây
dựng cơ sở hạ tầng vật chất và cơ sở hạ tầng xã hội, hệ thống chính sách quản
lý kinh tế vĩ mô. Đó là sự ổn định về kinh tế chính trị và xã hội, hệ thống luật
pháp, hệ thống chính sách. Đó còn là ổn định về tài chính, tiền tệ, thị trường,
giá cả ít biến động, lạm phát thấp, cạnh tranh lành mạnh. giảm thiểu mâu thuẫn
xã hội, hạn chế thất nghiệp,đảm bảo đời sống nhân dân, tạo môi trường xã hội
thuận lơi, tạo niềm tin của nhân dân.Nhà nước phải xây dựng hệ thống cơ quan
hành chính công và hệ thống cơ quan sự nghiệp dịch vụ công cộng (giáo dục,
khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao); cung cấp và phát triển
các dịch vụ công cộng. Nhà nước phải bảo đảm tính bền vững và tích cực của
các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường. Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách
và các công cụ kinh tế; đồng thời sử dụng một số biện pháp cần thiết khi thị
trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế
giới có biến động lớn. Nhà nước phải bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền
vững của nền tài chính quốc gia.
Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui hoạch, kế
hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
23
Thông qua công tác qui hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh
của quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển
kinh tế - xã hội. Việc xây dựng luật pháp nhằm đảm bảo quyền lợi và trách
nhiệm cho các chủ thể trong nền kinh tế và sẽ là căn cứ xử lý những hành vi vi

phạm pháp luật của các chủ thể kinh tế. Hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và
hoàn thiện sẽ làm giảm thiểu những vụ phạm pháp và tranh chấp, tạo sự an tâm
cho các chủ thể kinh tế. Vì thị trường là luôn biến động nên pháp luật cũng phải
được Nhà nước thường xuyên xây dựng,bổ sung và hoàn chỉnh cho phù hợp.
Nhà nước còn có vai trò hỗ trợ phát triển như xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, có chính sách khuyến khích sản xuất kinh
doanh, phát triển văn hóa xã hội .Cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội được đẩu tư
xây dựng tốt thì kinh tế thị trường sẽ phát triển. Nhiệm vụ của nhà nước là phải
xây dựng ngày càng nhiều hạ tầng với chất lượng tốt để hỗ trợ cho sự phát triển
của kinh tế thị trường. Mặt khác, nhà nước phải đảm nhiệm các nhiệm vụ chung
cho cả quốc gia như bảo vệ đất nước, ngoại giao, truyền thông, y tế, giáo dục,
phát triển hệ thống đường giao thông và mạng lưới phân phối điện ở nông thôn
v.v… cho cả quốc gia. Đó là các hàng hóa, dịch vụ công mà không thể giao
cho bất kỳ một chủ thể nào khác.
1.3.1.2 Phân phối lại thu nhập quốc dân.
Nền kinh tế thị trường chắc chắn dẫn đến mức độ phân hóa thu nhập và
tiêu dùng cao không chấp nhận được. Mức độ phân hóa thu nhập vừa là vấn đề
do lịch sử để lại vừa là vấn đề phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Sự
chênh lệch thu nhập quá mức giữa các tầng lớp dân cư tạo ra áp lực đòi hỏi nhà
nước phải thực hiện sự phân phối lại thu nhập theo hướng lấy một phần thu
nhập của người giàu trợ giúp cho người nghèo có lý do chính đáng. Nhà nước
phải làm cho nền kinh tế thị trường càng ngày càng mang tính xã hội, làm dịu
các mâu thuẫn xã hội thông qua phân phối lại thu nhập quốc dân. Do đó nhà
nước có nhiệm vụ giúp đỡ những người nghèo trong xã hội do thất nghiệp, bất
hạnh, không may, tàn tật, neo đơn có điều kiện tham gia vào thị trường bằng
nhiều giải pháp. Theo hướng đó, hệ thống thuế của nhà nước là vô cùng quan
trọng.Thuế thu nhập lũy tiến là một công cụ phân phối lại quan trọng được hầu
24
hết các nước áp dụng. Nhà nước cũng thường áp dụng hệ thống trợ cấp để hỗ
trợ cho những người thu nhập thấp hoặc đầu tư vào hệ thống trường học công,

bệnh viện công… cũng tạo cơ hội cho người nghèo có thể tiếp cận
1.3.1.3 Bảo vệ môi trường.
Kinh tế thị trường có thể gây ra các nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường
do đó nhà nước phải có chính sách sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử
dụng và giảm thiểu chất thải; xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; đầu tư
bảo vệ môi trường , xây dựng và phát triển ngành công nghiệp môi trường; hỗ
trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi trường và các sản phẩm thân thiện
với môi trường; kết hợp hài hoà giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành
phần môi trường cho phát triển.
Trong lý thuyết ”Điều chỉnh nền kinh tế của nhà nước” J.M.Keynes cho
rằng nhà nước cần phải can thiệp sâu để điều tiết nền kinh tế. Trong các biện
pháp có sử dụng hệ thống tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ. Ông cho rằng
phải kích thích niềm tin. Tính lạc quan của các nhà đầu tư , tăng thêm khối
lượng tiền lưu thông để giảm lãi suất cho vay, khuyến khích vay vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Đổi lại, nhà nước phải chấp nhận lạm phát có mức độ.
Ông cũng khuyến khích việc chi tiêu của nhà nước kể cả bằng cách in tiền để
bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước , dùng công cụ thuế để điều tiết kinh tế
như giảm thuế cho sản xuất kinh doanh, tăng thuế thu nhập của người lao động
để tập trung nguồn vốn cho ngân sách nhà nước để mở rộng đầu tư.
Đối với nước ta, Nhà nước có nhiệm vụ rất quan trọng là quản lý kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường và cơ
chế thị trường không làm giảm nhẹ sự quản lý của nhà nước.Vấn đề là phương
thức quản lý của nhà nước như thế nào để vừa đảm bảo đầy đủ các quy luật
khách quan của bản thân nền kinh tế thị trường vừa đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Do đó bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, định
hướng và hỗ trợ phát triển, Nhà nước còn phải làm thật tốt các nhiệm vụ phân
phối lại thu nhập quốc dân theo hướng công bằng, dân chủ và làm tốt nhiệm vụ
bảo vệ môi trường.

25

×