Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Kinh nghiệm VỀ DẠY TẬP LÀM VĂN “KỂ LẠI CHUYỆN ĐÃ ĐỌC , ĐÃ NGHE ” cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.53 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VỀ DẠY TẬP LÀM VĂN “KỂ LẠI CHUYỆN ĐÃ ĐỌC , ĐÃ NGHE ”
CHO HỌC SINH LỚP 4
A - PHẦN MỞ ĐẦU
I-Đặt vấn đề:
Giáo dục hiện đại chú ý nhiều đến chức năng phát triển bên cạnh chức năng
giáo dưỡng và giáo dục ở phương pháp dạy học nhằm phát triền nhân cách học
sinh một cách toàn diện. Riêng môn Tiếng Việt ở trường tiểu học được dạy và học
thông qua tám phân môn . Trong đó phân môn tập làm văn là một trong những
phân môn có giá trị đặc biệt quan trọng nó góp phần rèn luyện các hiểu biết, kỹ
năng vận dụng Tiếng Việt và từng bước hoàn thiện cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết.
Phân môn tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sản sinh văn bản
(nói và viết ). Nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem
xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động
trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập Nói cách khác, phân môn tập làm văn
đã góp phần hiện thực hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học
Tiếng Việt là học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá
trình lĩnh hội các tri thức khoa học . Ở tiểu học, phân môn tập làm văn có nhiệm
vụ rèn luyện kỹ năng nói, viết với các loại : miêu tả, kể chuyện, tường thuật, viết
đơn, thư từ. Trong đó thể loại miêu tả, kể chuyện và tường thuật là những kiểu bài
chiếm nhiều thời gian học tập nhất, thuộc phong cách nghệ thuật .
Nghe kể chuyện và kể chuyện cho người khác nghe là niềm vui thích của trẻ
thơ. Vì thế ngay từ khi học mẫu giáo trẻ em đã được nghe kể chuyện , tập kể
chuyện cho bạn bè, anh chị , cha mẹ nghe . Ở bậc Tiểu học, văn kể chuyện là một
kiểu bài của phân môn tập làm văn nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng nói ,
viết, ít nhiều mang tính biểu cảm . Từ lớp 1 đến lớp 5, lớp nào cũng có tiết kể
chuyện . Vì vậy luyện tập viết văn kể chuyện trở thành một yêu cầu đối với học
1
sinh Tiểu học. Trong nhà trường Tiểu học kiểu bài văn kể chuyện có ba dạng bài
cơ bản được sắp xếp theo mức độ khó dần , từ thấp đến cao đó là : Kể lại truyện


đã đọc, đã nghe . Kể chuyện người thật việc thật và cao hơn nữa là kể chuyện
nhiều yếu tố tưởng tượng . Vậy muốn học sinh ngày càng làm bài tốt hơn , có hồn
hơn trong văn kể chuyện thì giáo viên , ngay từ đầu phải luyện tập cho các em kỹ
năng viết , dùng từ kết hợp với các yếu tố khác để vận dụng vào đó hấp dẫn được
người đọc . Phải luyện tập ngay từ kiểu bài đơn giản nhất đó là kể lại chuyện đã
đọc, đã nghe.
Từ lẽ đó qua hai năm giảng dạy lớp 4 chúng tôi đã cố gắng tìm ra những phương
pháp rèn luyện cho học sinh đặc biệt là kiểu bài đơn giản, làm tiền đề cho những
kiểu bài cao hơn ở văn kể chuyện đó là :
Kinh nghiệm nhỏ về dạy tập làm văn “ kể lại chuyện đã đọc ,đã nghe ”cho
học sinh lớp 4.
II. Thực trạng và nguyên nhân:
Trong quá trình giảng dạy chúng tôi thấy văn kể chuyện đã được học sinh bắt đầu
học từ lớp hai kể chuyện theo tranh, sắp xếp trình tự câu chuyện theo tranh cho
đến lớp 4 và lớp 5 theo các mức độ tăng dần như lớp 3 và lớp 4 thì kể lại câu
chuyện đã được đọc, được nghe, kể lại công việc đã làm Đặc biệt qua năm học
2005 - 2006; 2007 - 2008 chúng tôi đều dạy lớp 4 và chúng tôi thấy chương trình
cải cách và chương trình thay sách giáo khoa mới ở lớp 4 đều có văn kể chuyện.
Mặt khác qua quá trình giảng dạy kiểu văn kể chuyện chúng tôi thấy ngoài
việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe, nói, đọc, viết thì văn kể chuyện còn rèn
luyện cho học sinh kỹ năng đặc thù như : kỹ năng quan sát, kỹ năng xây dựng cốt
chuyện, xây dựng nhân vật . Bên cạnh đó văn kể chuyện còn giúp học sinh rèn
luyện tâm hồn có cảm xúc, tăng vốn sống, vốn hiểu biết trực tiếp đời sống, rèn
luyện trí nhớ ( nhớ lại câu chuyện để kể ) rèn luyện óc sáng tạo, trí tưởng
tượng
2
Những khó khăn hiện tại của học sinh khi làm bài văn “ kể lại truyện đã đọc đã
nghe” là :
- Học sinh nhớ không đầy đủ cốt truyện, hoặc nhớ không theo trình tự các chi
tiết của chuyện.

- Khi làm bài các em không tóm tắt ý chính của từng đoạn , nên khi làm bài các
em kể lộn xộn , chắp vá không xây dựng được từng đoạn văn .
- Nếu có xây dựng đoạn văn thì chưa có câu mở đoạn và kết đoạn .
- Mở bài và kết bài chưa hợp lý, còn thiếu lôgíc, thiếu chặt chẽ.
- Một số học sinh chưa biết thêm các chi tiết cần thiết vào để câu chuyện mình kể
có nét riêng tạo sự hấp dẫn cho người đọc .
Để đạt được yêu cầu đề ra, chúng tôi đã tiến hành điều tra từ đầu năm xếp
loại đối tượng hai lớp như sau:
Lớp Số
lượng
học
sinh
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
SL % SL % SL % SL %
4A 30 7 23,3% 8 26,7% 12 40% 3 10%
4B 30 6 20% 6 20% 14 46,7% 4 13,3%
Từ thực trạng trên chúng tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm cụ thể để nâng
cao năng lực viết văn kể chuyện cho học sinh cụ thể như sau:
III. Nhận thức mới và giải pháp
Kiểu bài kể lại chuyện đã đọc, đã nghe là một kiểu bài kể chuyện nhưng ở
mức độ thấp vì cốt truyện, nhân vật, chi tiết và ngôn từ đều đã có trong văn bản
truyện. Học sinh chỉ cần nhớ lại sau khi đọc và nghe kể .Tuy nhiên khi kể lại
không phải học sinh chỉ làm nhiệm vụ đọc thuộc lòng câu chuyện không sai một
3
chữ , một dấu phẩy là được . Mà phải dựa vào cốt truyện , nhân vật, chi tiết thậm
chí đến cả một vài ngôn từ của truyện rồi dùng lời kể của mình để kể. Mục đích là
giúp người nghe biết được câu chuyện , nắm được ý nghĩa của chuyện.
Khi kể lại học sinh phải giữ đúng ý nghĩa câu chuyện kể trung thành cốt
truyện , nhân vật Nhưng có thể dùng lời lẽ khác nhau, cách nhấn mạnh hay lướt
qua, cách sử dụng giọng điệu khác nhau để kể . Những thủ thuật nho nhỏ đó sẽ

tạo nên sự hấp dẫn cho người kể khiến người nghe im lặng theo dõi câu chuyện.
Khi kể lại người kể có thể thay đổi ngôi kể.
Ví dụ : Câu chuyện “ Cây tre trăm đốt ”có thể kể lại bằng lời của anh trai cày
lúc đó truyện sẽ bắt đầu bằng lời tự giới thiệu.
“ Tôi là anh trai cày, đi ở cho phú ông trong làng ”kể lại bằng lời kể của anh
trai cày khiến câu chuyện đã nghe quen nhưng mà lạ, mới mẻ.
Có hai loại ngôi kể khi kể lại câu chuyện đã đọc, đã nghe .
- Kể theo lời người dẫn chuyện “ Ngày xửa ngày xưa ở một khu rừng nọ, có
một gia đình người triệu phú ”.
Đây là lời của người dẫn chuyện, người dẫn chuyện biết mọi điều nhưng không
bao giờ xuất hiện trong truyện .
- Kể theo lời một nhân vật truyện . Truyện Dế mèn phiêu lưu ký . Kể theo cách
này Dế mèn xưng “Tôi” và kể lại cuộc sống của mình từ khi còn nhỏ đến khi lớn,
đi phiêu lưu trong thiên hạ, để học hỏi, kết bạn .
Như vậy : mỗi cách kể có vẻ đặc sắc riêng .Để nâng cao năng lực viết văn kể
chuyện cho học sinh có hiệu quả sau đây là một số phương pháp cụ thể .
I. PHƯƠNG PHÁP KỂ LẠI CHUYỆN ĐÃ ĐỌC, ĐÃ NGHE THEO ĐÚNG NGÔI KỂ
CỦA VĂN BẢN TRUYỆN .
1, Học sinh phải đọc hoặc nghe chuyện định kể, nhớ cốt truyện và các chi tiết
quan trọng ( đọc chuyện, tìm hiểu, thâm nhập chuyện).
Đây là khâu cơ bản đầu tiên của tiết tập làm văn kể chuyện đã đọc, đã nghe.
Để có thể kể được, kể có nghệ thuật hấp dẫn, rõ ràng học sinh phải thuộc chuyện,
nắm vững tình tiết cốt truyện, hiểu cặn kẽ ý nghĩa và bài học rút ra từ chuyện .
4
Đọc và thâm nhập truyện là bước đầu làm quen hoặc giúp học sinh nhớ lại
chuyện. Nhưng dù sao vẫn là chuyện ở bên ngoài, học sinh cần biến chuyện đó
thành chuyện của bản thân mình bằng cách tập diễn đạt bằng lời sau đó diễn đạt
bằng ngôn ngữ Việt .Chuyển từ ngôn ngữ văn bản in ấn sang ngôn ngữ của bản
thân học sinh sao cho bộc lộ được tâm lý nhân vật trong truyện một cách sâu sắc
nhất .

Học sinh có thể thoát ly sách, thâm nhập câu chuyện từ người khác sau đó kể
lại bằng ngôn ngữ viết của mình có cách điệu hoá đi một chút song cần rành mạch
các chi tiết, ngôn ngữ trong sáng và dễ hiểu .
2, Cách kể lại truyện cho hấp dẫn .
- Muốn kể hấp dẫn trước tiên phải kể đúng, đúng cốt truyện, đúng nhân vật,
đúng các chi tiết quan trọng, đúng ý nghĩa câu chuyện .
- Muốn kể hay phải kể bằng lời của chính mình .
- Học sinh có thể thêm một vài chi tiết phụ như tả nét mặt, tả khung cảnh nơi xẩy
ra sự kiện sao cho hợp lý .
- Muốn kể hấp dẫn học sinh cần phải biết nhấn chỗ này, lướt chỗ khác tức là
lược bỏ bớt chi tiết rườm rà không quan trọng mà kể rõ hơn, rõ thêm các chi tiết
quan trọng . Song học sinh không được quên các chi tiết đã tạo cho câu chuyện
sinh động, lôi cuốn người nghe, không kể vắn tắt cốt truyện vì thế người đọc sẽ
chán, bài văn sẽ không hấp dẫn .
a. Cách mở bài kể lại chuyện đã đọc, đã nghe .
Ví dụ : Từ bài “ kể lại chuyện : Từ hai bàn tay”2 học sinh có hai cách mở bài sau
đây :
Đoạn mở bài thứ nhất :
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Điều đó thật đúng khi bạn được nghe câu chuyện “Sự tích quả dưa đỏ ”.Nhân
đây tôi sẽ kể bạn nghe câu chuyện đó nhé .
5
“ Ngày xửa ngày xưa, có một người tên là Mai An Tiêm , chàng hiền lành , làm
việc chăm chỉ nên được nhà vua nhận làm con nuôi ”.
- Cách thứ nhất : Bạn học sinh đưa hai câu thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông
như một chân lý nói rõ câu chuyện “ Sự tích quả dưa đỏ ” có thể chứng minh cho
chân lý đã nêu . Cách mở bài này đi từ xa đến gần , từ ý nghĩa câu truyện đến nội
dung câu chuyện .
Cách thứ hai :Người viết giới thiệu nhân vật chính của truyện để vào chuyện

luôn . Đây chính là cách mở bài trực tiếp , cách này nhiều học sinh hay dùng ,
cũng giới thiệu nhân vật chính của truyện nhưng do cách diễn đạt khác nhau lại
tạo ra cách mở bài cụ thể khác nhau .
Ví dụ : Ngày xưa, có một thanh niên tên là Mai An Tiêm . Chàng là người thông
minh , tháo vát và là người có nhiều tài . Tin đến nhà vua , vua cho mời chàng về
cung nhận làm con nuôi .
b. Cách kể từng đoạn : ( thân bài )
Ví dụ : Kể lại đoạn đầu chuyện “Từ hai bàn tay ”
Một hôm các quan trong triều đến chơi thấy nhà cửa khá giả bèn khen Mai An
Tiêm tài giỏi. Chàng nói : “Đây là do hai bàn tay tôi làm ra ”. Một viên quan vốn
ghen ghét Mai An Tiêm liền về tâu với vua . Nghe xong nhà vua nổi giận :
“Thằng hỗn láo, nó dám nói thế à ? Ta sẽ cho lấy lại tất cả ruộng vườn của nó .
Sáng mai sẽ đày nó đến một đảo hoang xem hắn sống với hai bàn tay của mình
như thế nào !” Hôm sau nhà vua bắt gia đình Mai An Tiêm lên thuyền đi ra đảo
hoang .
Đoạn sau đây cũng kể lại cảnh trên nhưng của một bạn học sinh khác :
Chàng được mọi người yêu mến , nhưng cũng chẳng hiếm kẻ ghen ghét. Một
hôm, trong một bữa tiệc tại nhà mình , khi đó có một viên quan hết lời xưng tụng
Mai An Tiêm , chàng nói : “ Có gì đâu , tất cả những thứ trong ngôi nhà này đều
do hai bàn tay của tôi làm nên cả !” . Trong số dự tiệc có một kẻ rất ghét chàng ,
chộp được câu nói mà chúng cho là ngạo mạn , chúng bèn chạy về tâu với vua .
6
Vừa nghe xong ,vua nổi giận đùng đùng : “ Chà ! Thằng láo ! Hôm nay nó nói thế
, hôm sau nó lại tuôn ra lời bất kính đến đâu ? Hãy đẩy nó ra một hòn đảo để nó
làm gì với hai bàn tay trắng !” . Hôm sau An Tiêm bị đày ra đảo , vợ của chàng
quyết theo chồng . Nàng mang cả con trai nhỏ đi theo .
Cái cốt truyện của đoạn kể này thì giống đoạn kể trên nhưng đã thêm một số ý
như lời nói của nhà vua . Đoạn kể này có thêm ý “ Ngày mai nó lại tuôn ra những
lời bất kính đến đâu” . Chi tiết của vợ An Tiêm nhất trí theo chồng mang cả con
trai nhỏ đi theo . Như vậy không phải vợ An Tiêm bị đày theo chồng mà tự

nguyện theo chồng , thể hiện tình cảm gắn bó của vợ chồng .Chi tiết này thêm vào
không làm sai lệch cốt truyện mà chỉ tạo thêm sự hấp dẫn .
Nói tóm lại: Đến phần nội dung câu chuyện học sinh nêu tóm tắt những ý
chính của câu chuyện, sắp xếp theo trình tự diễn biến của câu chuyện. Coi những
ý này là một dàn bài.Từ những ý chính đó học sinh xây dựng thành những đoạn
kể. Trong mỗi đoạn cần có câu mở đoạn và câu kết đoạn.Trong khi kể học sinh
nên sáng tạo, tưởng tượng để thêm một số chi tiết như lời nói hoặc các yếu tố phi
ngôn ngữ để bộc lộ nội tâm của nhân vật như ánh mắt , nét mặt, cử chỉ , điệu bộ
Để bài văn hấp dẫn hơn. Song những chi tiết thêm vào không được trái với cốt
truyện, không được làm sai lạc ý nghĩa của truyện và cũng không được thêm thắt
quá nhiều vì như thế sẽ làm biến đổi cốt truyện .
Ví dụ :Về cách phân đoạn trong bài “Kể lại câu chuyện sự tích Hồ Ba Bể ”
mà em đã được nghe (lớp 4). Học sinh nắm chắc nội dung câu chuyện và rút ra 4
ý chính như sau ( ghi vào giấy nháp ).
+ Đoạn 1 : Bà cụ ăn xin xuất hiện .
+ Đoạn 2 :Hai mẹ con bà goá cho bà cụ ăn và ngủ lại.
+ Đoạn 3 : Truyện xẩy ra trong đêm.
+ Đoạn 4 : Sự hình thành Hồ Ba Bể .
Từ 4 ý chính đó học sinh kể thành 4 đoạn. Tất nhiên trong khi kể học sinh cố
gắng sáng tạo thêm .
7
c, Hướng dẫn học sinh luyện tập cách viết phần kết của kiểu bài kể lại
chuyện đã đọc , đã nghe .
Có vô vàn cách mở đầu nên cũng có vô vàn cách kết thúc. Đa số học sinh mở
bài theo cách này nhưng lại kết thúc bài theo một cách khác. Nên phần kết thúc
bài của các em luôn thiếu một cái gì đó. Nguyên nhân là các em chưa hiểu rõ mối
quan hệ giữa cách mở bài và kết thúc câu chuyện được kể lại .
Sau đây là một số kết bài hợp lý.
+ Nếu chọn cách mở bài trực tiếp kể luôn vào câu chuyện thì kết thúc câu
chuyện bằng chính một chi tiết trong chuyện.

Ví dụ: Mở bài “ Thuở ấy vào thời vua Hùng thứ 18,nước Âu lạc có một nàng
công chúa sắc đẹp tuyệt trần ,tính tình hiếu thảo tên là Mị Nương”.
Kết bài : Hằng năm Thuỷ Tinh lại làm cho lũ lụt ,bão tố hòng chiếm đoạt được
công chúa nhưng đều thất bại .
Hoặc:
+ Nếu chọn cách mở bài gián tiếp, học sinh đứng ra xưng“Tôi”thì mở bài có thể
là :
“ Tôi đã nghe rất nhiều chuyện hay, nhưng tôi thích nhất là câu chuyện Sơn tinh -
Thuỷ tinh, chuyện kể rằng ”
Thì kết thúc câu chuyện rất cần sự xuất hiện của “Tôi ”.
“ Câu chuyện này diễn ra như vậy đó các bạn ạ . Tôi rất thích câu chuyện này, nó
còn là một tấm gương giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong công việc ”.
d/ Các bước làm một bài văn kể lại chuyện đã đọc, đã nghe.
Bước 1: Chuẩn bị kể lại chuyện
Giáo viên đọc lại câu chuyện hoặc yêu cầu học sinh nhớ lại chuyện định kể , chú
ý đến các chi tiết, ý chính của cốt chuyện .
Bước 2: Ghi ra giấy nháp các chi tiết, các ý chính của từng đoạn theo trình tự diễn
biến của câu chuyện.
Bước 3: Dựa vào các ý, học sinh viết bài văn kể lại câu chuyện.
8
Bước 4: Đọc lại bài văn của mình, sửa, thay một số từ ngữ dùng sai hoặc chưa
hay để hoàn chỉnh bài văn .
Ví dụ : Kể lại chuyện “Cây khế ”dựa theo chuyện kể lớp 2(bài tham khảo )
Bước 1: học sinh đọc lại hoặc nhớ lại truyện cây khế .
Bước 2: đọc hoặc nhớ lại các chi tiết từng đoạn .
Đoạn 1: chú ý các chi tiết
- Khi chia gia tài, người anh tham lam chiếm hết nhà cửa ruộng vườn còn người
em chỉ được một mảnh vườn nhỏ có cây khế .
- Vợ chồng người em phải cày thuê cuốc mướn để kiếm sống .
Đoạn 2 : chú ý các chi tiết sau :

- Chim lạ đến ăn khế trên cành . Người em than thở xin chim đừng ăn khế .
- Chim chợt nói, dặn rằng:“ Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi
mà đựng .”
- Người em may túi ba gang . Chim chở người em đến núi vàng .Người em nhặt
đầy túi ba gang rồi chở về .
Đoạn 3 : chú ý các chi tiết sau :
- Người anh tham lam sang gạ em đổi gia tài lấy cây khế, người em nhận lời .
- Thấy chim lạ đến ăn, người anh than thở xin đừng ăn khế chim cũng nói như nói
với người em .
- Người anh may túi mười hai gang . Đến núi vàng, người anh nhét vàng đầy túi
to tướng .
- Chim không bay qua biển được. Người anh bị rơi xuống biển chết .
Bước 3: Từ những ý chính của từng đoạn học sinh nhớ, tưởng tượng thêm các
tình tiết cần thiết để kể lại chuyện bằng lời văn của mình .
Lưu ý : Đối với kiểu bài kể lại chuyện dựa theo tranh thì học sinh cần hiểu nội
dung của từng bức tranh, sắp xếp các nội dung đó theo trình tự diễn biến và kể
lại .
9
Bằng cách hướng dẫn học sinh làm bài qua các bước như trên học sinh đã nắm
được cốt truyện và làm bài tương đối đạt yêu cầu . Sau đây là một số bài văn của
học sinh .
Bài 1 (Trần Văn Hùng - 4A - HS trung bình )
Hai anh em nhà kia chia gia tài sau khi bố mẹ chết . người anh tham lam chiếm
hết gia tài , người em chỉ được cây khế .
Một hôm có con chim lạ đến ăn khế . Người em xin chim đừng ăn vì nhà nghèo .
Chim dặn may túi ba gang và sẽ đưa đi lấy vàng . Người em nghe lời bèn may túi
ba gang . Được chim đưa tới núi vàng và người em trở nên giàu có . Người anh
thấy thế bèn gạ gẫm người em lấy cây khế . Chim lạ cũng đến ăn khế, người anh
xua đuổi. Chim dặn người anh may túi mười hai gang, khi chim đưa tới núi vàng,
người anh nhét vàng đầy túi mười hai gang. Vì thế khi trở về chim không chở nổi

. Người anh bị rơi xuống biển và chết chìm .
Hùng là học sinh trung bình thường gặp phải khó khăn trong khi viết văn.
Nhưng nhờ tuân thủ các bước làm bài của bài văn kể chuyện vì thế bài văn mặc
dù chưa có sáng tạo nhưng đảm bảo nội dung của yêu cầu .
Sau đây là bài của một học sinh khá (Nguyễn Thị Anh - lớp 4A):
Bài làm :
Ngày xưa ở một gia đình nọ có hai anh em, sau khi bố mẹ qua đời, người anh
bèn chia gia tài. Cậy thế mình là anh cả, anh ta liền chiếm mọi tài sản trong gia
đình, chỉ cho người em một mảnh vườn nhỏ có cây khế ở góc vườn. Người em
cặm cụi cày thuê cuốc mướn để sinh sống qua ngày và chăm sóc cây khế .
Đến mùa cây khế ra hoa kết trái nhiều vô kể . Một hôm, có một con chim đại bàng
bay đến đậu lại trên cây khế . Nó ăn hết trái này đến trái khác, người em buồn
rầu nói với chim : “ Chim ăn hết khế ta lấy gì sinh sống ”Nghe vậy đại bàng liền
nói“ Ăn một quả trả cục vàng may túi ba gang mang đi mà đựng".
Nghe lời chim dặn, người em may một cái túi ba gang . Hôm sau đại bàng bay
đến chở người em ra một đảo xa tít ngoài khơi. Đây là một hòn đảo có nhiều
10
vàng bạc châu báu. Người em lấy đầy túi vàng rồi cưỡi lên lưng chim bay về. Từ
đó người em trở nên giàu sang phú quý .
Thấy em mình trở nên giàu có, người anh tìm đến lân la dò hỏi. Người em kể
hết sự tình cho anh mình nghe. Máu tham bốc lên, người anh đòi đổi cả gia tài
của mình để lấy cây khế. Thương anh, người em bằng lòng đổi.
Ngày ngày cả hai vợ chồng người anh thay nhau túc trực bên cây khế. Đại bàng
đến ăn khế . Người anh giả vờ kêu nghèo kể khổ. Đại bàng cũng dặn người anh
như nói với người em trước đây . Hắn về nhà may sẵn một cái túi mười hai gang .
Chim đến chở hắn ra đảo . Hắn hoa mắt trước đảo vàng, cố nhét thật đầy vàng
bạc vào cái túi rồi khệ nệ kéo túi vàng lên lưng chim bay về .
Dọc đường do túi vàng quá nặng , đại bàng không thể bay nổi , liền nghiêng cánh
hất túi vàng và người anh xuống biển. Kết thúc số phận của một kẻ tham lam .
II PHƯƠNG PHÁP KỂ LẠI CHUYỆN ĐÃ ĐỌC, ĐÃ NGHE CÓ THAY

ĐỔI NGÔI KỂ SO VỚI VĂN BẢN TRUYỆN .
1. Học sinh cần hiểu thế nào là thay đổi ngôi kể .
- Bình thường mở đầu chuyện “Cây tre trăm đốt ”được kể như sau “Ngày xửa
ngày xưa, ở một làng nọ có một anh trai cày tên là Khoai. Anh đi làm cho một
phú ông ”
- Lại có học sinh mở đầu câu truyện khác đi :
“ Tôi là Khoai, là một anh nông dân hiền lành. Tôi sống từ rất lâu rồi, từ ngày xửa
ngày xưa ấy. Nhà tôi nghèo, không có ruộng nên tôi phải làm cho phú ông ”
Tiếp sau đó anh Khoai đứng ra kể lại câu chuyện của mình bị phú ông lừa ra sao?
Bụt cho câu thần chú thế nào để tạo thành cây tre trăm đốt? Cảnh phú ông và gia
đình bị dính vào cây tre trăm đốt ra sao và kết cục anh lấy được con gái phú ông.
+ Hai cách kể này giống nhau là cùng cốt truyện, khác nhau ở ngôi kể .
Cách kể thứ nhất là dùng lời người dẫn chuyện .
Cách kể thứ hai là dùng lời của nhân vật chính trong truyện : Anh Khoai ở sách
giáo khoa lớp 4( trang 142)” kiểu bài chuyển đổi ngôi kể ”.
11
Ví dụ : Kể lại câu chuyện “ Vua tàu thuỷ Bạch Thái Bưởi ”. Bằng lời của một chủ
tàu người pháp hoặc người hoa có thể viết như sau :
Tôi là một chủ tàu người Pháp, đã từng bán tàu của mình cho Bạch Thái Bưởi.
Bị thua lỗ, tôi rất buồn nhưng dẫu sao cũng phải kính phục người đã hạ gục mình
.
Bạch Thái Bưởi mồ côi cha từ nhỏ
* Một chuyện có nhiều nhân vật, có thể kể lại chuyện đó bằng lời của bất kỳ
nhân vật nào trong truyện nhưng đặc biệt nhất là nhân vật chính, nhân vật quan
trọng biết nhiều việc, nhiều người, nhiều cảnh .
2. Những nét đặc sắc khi thay đổi ngôi kể .
Cách thay đổi ngôi kể làm cho mỗi lần kể câu chuyện lại có nét riêng .Nghe
anh Khoái, nhân vật chính kể lại câu chuyện “Cây tre trăm đốt ” ta thấy như
không phải nghe một chuyện cổ tích mà nghe lời tâm sự của anh về những cảnh
ngộ mình trải qua. Bởi thế anh xưng “tôi”và đổi chỗ có điều kiện bộc bạch tâm

trạng của mình .
Ví dụ : “ Tôi đi hết ngày này sang ngày khác trong rừng đếm mãi mà chẳng có
cây tre nào đủ trăm đốt cả. Tôi buồn chán quá, thấy mình thua cuộc rồi bật khóc .
Tôi đang nức nở khóc bỗng có ai đặt tay lên vai tôi và một giọng êm ái cất lên “
Tại sao con lại ngồi khóc giữa rừng ?”
Đối với dạng bài này , giáo viên cần giúp cho học sinh xác định ngôi kể, chuyển
từ người dẫn chuyện sang lời nhân vật kể . khi mà nhân vật kể thì phải điều chỉnh
ngôi kể ( dùng đại từ tôi ) . Trong quá trình kể cần bộc bạch tâm trạng của nhân
vật .
3.Các bước làm một bài văn kể lại chuyện đã đọc, đã nghe có thay đổi ngôi
kể so với văn bản truyện .
Bước 1: Chuẩn bị kể lại chuyện.
+ Học sinh đọc hoặc nhớ lại cốt truyện.
+ Xác định ngôi kể, điều chỉnh khi thay đổi ngôi kể, dùng đại từ “Tôi”
12
Bước 2 : Ghi lại các ý chính.
Bước 3 : Học sinh kể lại bằng lời kể của mình.
Bước 4 : Hoàn chỉnh bài văn ( đọc lại bài, chỉnh sửa )
Ví dụ : “ Kể lại chuyện búp bê của ai ” bằng lời kể của búp bê lớp 4.
Bước 1 : Chuẩn bị kể lại chuyện .
- Học sinh nhớ lại chuyện.
- Xác định ngôi kể : Chuyển từ lời của người dẫn chuyện sang lời của búp bê. Búp
bê đứng ra kể nên phải dùng đại từ tôi .
Bước 2 : Ghi các ý chính của từng đoạn.
Mở bài : Đoạn 1: Giới thiệu câu chuyện .
Thân bài : Đoạn 2: Búp bê trở thành bạn của cô bé Nga.
Đoạn 3: Thái độ hờ hững của cô bé Nga làm mọi người dận và bỏ đi .
Đoạn 4: Búp bê buồn và cũng bỏ đi . Búp bê gặp và được sống trong
vòng tay ấm áp của cô chủ mới.
Kết bài : Suy nghĩ của búp bê

Đoạn 3 : - Học sinh kể lại ( viết bài )
Đoạn 4 : - Học sinh đọc lại bài, khảo lại bài .
Tóm lại: Khi thay đổi ngôi kể cần có sự sắp xếp lại truyện ( về trình tự các sự
việc đã xẩy ra, về thời gian , địa điểm về lời xưng hô giữa các nhân vật )Nhưng
điều quan trọng là không được thay đổi cốt truyện, nhân vật và ý nghĩa của truyện
và cần tả kỹ tâm trạng của nhân vật .
IV. Kết quả đạt được
Từ cách làm trên chúng tôi đã thu được kết quả tiến hành khảo sát chất lượng
với đề bài như sau : Kể lai chuyện “ Búp bê của ai ” bằng lời kể của búp bê .
Thời gian làm bài 40 phút
Sau khi cùng chấm bài chúng tôi thu được kết quả như bảng sau :
Lớp Số Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm
13
lượng
học
sinh
yếu
SL % SL % SL % SL %
4A 30 em 14 46,7% 11 36,7% 5 16,6% 0
4B 30 em 13 43,3% 10 33,3% 7 23,4% 0
Qua kết quả khảo sát chúng tôi thấy rằng” Phương pháp luyện tập viết bài văn
kể lại chuyện đã đọc, đã nghe ”cho học sinh lớp 4 đã có kết quả rõ rệt .Đặc biệt
không có em nào bị điểm yếu. Mặt khác học sinh không những kể lại đầy đủ nội
dung cốt truyện mà lời văn trôi chảy, biết dừng đoạn, biết sáng tạo biết bộc lộ nội
tâm nhân vật. Nói chung là bài văn khá hấp dẫn.
Qua đó chúng tôi nhận thấy rằng: “Phương pháp luyện tập viết bài văn kể lại
chuyện đọc đã nghe” đã có kết quả. Nhiều em đã phát triển năng lực viết văn bộc
lộ năng khiếu của mình. Đặc biệt với phương pháp này đã rèn kĩ năng nhớ lại các
chi tiết , nhân vật , diễn biến chính của câu chuyện , rèn kỹ năng sắp xếp chi tiết ,
biết nhấn mạnh chi tiết chính , lướt qua các tình tiết phụ . Học sinh biết dùng từ

đặt câu và đặc biệt rèn kỹ năng đọc lại bài , sửa chữa bài văn của mình để bài văn
hấp dẫn người đọc .
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau một năm tiến hành nghiên cứu về dạy tập làm văn“kể lại chuyện đã
đọc,đã nghe ”cho học sinh lớp 4 và tiến hành thực nghiệm trên học sinh và đã thu
được kết quả. Chúng tôi rút ra kết luận như sau :
+ Đối với bài kể chuyện . Kể lại chuyện đã đọc , đã nghe theo ngôi kể của
văn bản truyện hay kể lại truyện đã đọc đã nghe có thay đổi ngôi kể so với văn
bản truyện thì giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ lại chuyện hoặc nhớ lại một cách
đầy đủ, chính xác chuyện.
+ Sau đó liệt kê ra giấy các chi tiết chính tạo nên cốt truyện , nhân vật chính
của chuyện . Nguyên tắc là không để thiếu chi tiết chính , các nhân vật chính . Sau
14
khi nắm được các sự việc và chi tiết chính , cần sắp xếp chúng theo trình tự của
văn bản và học sinh đã có dàn ý của câu truyện sẽ kể.
+ Học sinh kể lại câu truyện bằng ngôn ngữ của mình và trí tưởng tượng để
sáng tạo thêm các chi tiết hấp dẫn tạo sự mới mẻ , sinh động cho câu chuyện.
+ Sau cùng là bắt buộc học sinh phải đọc lại bài văn kể chuyện của mình để
phát hiện ra lối như lỗi về cách dùng từ , lỗi về dấu câu để hoàn chỉnh bài văn.
Nói tóm lại: để bài văn kể chuyện của học sinh được hấp dẫn và hay thì giáo
viên yêu cầu học sinh phải tôn trọng bốn bước ( 4 nhiệm vụ ) mà chúng tôi đã
trình bày .
-Trong quá trình giảng dạy kiểu bài kể , giáo viên cần rèn luyện cho học sinh
cách dùng từ , đặt câu đặc biệt là cách mở bài , kết bài hợp lý . Tập cho học sinh
cách dựng đọan văn có sẵn mở đầu và kết thúc đoạn, có sự liên kết giữa đoạn này
với đoạn khác để tạo sự minh bạch của bài văn , tránh sự lặp đi lặp lại một chi tiết
nào đó. Đặc biệt giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết kể xen với tả , biết
bộc bạch tâm sự , suy nghĩ nội tâm nhân vật hoặc là lời nhận xét của bản thân
trước tình huống của câu chuyện để kích thích trí tưởng tượng phong phú của các
em.Tuy nhiên giáo viên không yêu cầu quá cao với tất cả học sinh mà phải xác

định rõ mục tiêu dạy học , mục tiêu kiến thức của từng bài để từ đó nâng cao dần
năng lực viết văn của các em .
-Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà chúng tôi đã áp dụng để dạy tập làm
văn kiểu bài “ Kể lại truyện đã đọc đã nghe ’’ cho học sinh lớp 4 và đã đạt được
kết quả tương đối tốt . Vậy chúng tôi mạnh dạn viết lên kinh nghiệm này , kính
mong quý thầy giáo , cô giáo , bạn bè đồng nghiệp góp ý thêm.
Xin chân thành cảm ơn !
Quỳ hợp ngày 27 tháng 4 năm 2009
Người viết: Nguyễn Thị Ngọc
Nguyễn Thị Phượng
Mai Thị Vân
15
16

×