SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một vài biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
NGƯỜI VIẾT: Trần Thị Loan
ĐƠN VỊ: Trường tiểu học Tân Lập B
TÂN LẬP ,ngày 4 thng 5 năm 2011
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LONG AN
Tên tác giả: Trần Thị Loan
MỘT VÀI BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY ĐỌC
DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC
TÂN LẬP B
NĂM HỌC 2010-2011
LONG AN 2011
Trang 2
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂN THẠNH
oooOooo
ĐỀ TÀI:
MỘT VÀI BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY ĐỌC
DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC
TÂN LẬP B
NĂM HỌC 2010-2011
HỌ VÀ TÊN : TRẦN THỊ LOAN
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN LẬP B
LONG AN 2011
Trang 3
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC GIÁO DỤC
1.Caáp cơ sở giáo dục:
Tân lập, ngày tháng năm 2011
CT.HĐKHGD
2.Hội đồng khoa học giáo dục huyện:
Tân lập, ngày tháng năm 2011
CT.HĐKHGD
PHAÀN MÔÛ ÑAÀU
Trang 4
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học đã
được các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lí chỉ đạo cũng như giáo viên trực tiếp giảng dạy
đặc biệt quan tâm.
Đổi mới phương pháp dạy học có thể tìm hiểu con đường ngắn nhất để đạt chất lượng
và hiệu quả cao. Con đường này không có sẵn, không bằng phẳng mà đầy chông gai,
khúc khuỷu, gập ghềnh với sự đan xen giữa cái chung và cái riêng, cái cũ và cái mới. Vì
vậy, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bao gồm cả hai mặt: Phải đưa vào các
PPDH mới đồng thời đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của PPDH truyền
thống. Lý luận dạy học đã khẳng định không có phương pháp vạn năng, đặc biệt trong
lĩnh vực giáo dục, yếu tố kinh nghiệm và sự kế thừa thể hiện khá đậm nét (thuyết trình ,
vấn đáp là những phương pháp rất xưa cũ nhưng hiện tại vẫn được sử dụng trong các
tiết dạy với mức độ đậm nhạt khác nhau). Đổi mới PPDH là sự kết hợp nhuần nhuyễn
sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện đại. Với
cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến PPDH nói chung
và môn Tiếng Việt lớp 4 nói riêng nhằm gây hứng thú học tập, tạo niềm tin, niềm vui
bằng sự hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói,
đọc, viết để học sinh giao tiếp. Thông qua việc dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao
tác tư duy.
Tiếng Việt là tiếng ghi âm, nghĩa là viết như thế nào thì đọc như thế ấy, có đọc
được thì mới hiểu được nội dung. Vì thế phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong
chương trình Tiểu học. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ
năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinhTiểu học đồng thời làm cơ sở,
nền móng cho mọi sự phát triển. Đọc trở thành nhiệm vụ cấp thiết của mỗi người đi học.
Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu,
đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội.
Nhờ đọc mà con người bày tỏ ý kiến của mình. Từ đó con người có điều kiện tự
học và hiểu biết các môn học khác. Như vậy có thể khẳng định rằng đọc là cầu nối của
mọi tri thức, của mọi môn học. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học
cả đời. Bởi vậy dạy cho học sinh biết đọc, đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là một
việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
Trang 5
Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy đọc, bên cạnh những thành
công, còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được như mong muốn, kết
quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các
giờ Tập đọc thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc trơn, số lượng học sinh biết
đọc diễn cảm tốt còn rất hữu hạn. Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy Tập đọc
đồng thời những phương pháp cụ thể hướng dẫn rèn đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu
học cũng rất ít được quan tâm.
Vậy để giúp học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, hiểu và cảm thụ được bài văn, bài
thơ thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng mới
đó là “Mọi học sinh đều phải tích cực tham gia vào hoạt động học tập”.
Do đó với mong muốn làm thế nào để chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm của học
sinh lớp 4 ngày càng nâng cao, tôi đã chọn đề tài “Một vài biện pháp nâng cao hiệu
quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4” làm đề tài nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
A. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở tâm sinh lí, đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học - con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của một cơ thể
đang phát triển. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh, phù hợp với sự
tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới, theo chức năng của chúng. Chức
năng phát âm - Tập đọc.
Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh
đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang phát triển.
Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích hoạt
động, khám phá thường độc lập, tự lực làm việc theo hứng thú của mình.
Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều trẻ đều
nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ thuộc phần lớn
vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà trường Tiểu học.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho
não bộ và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hoá, văn học
nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc, hiểu, cảm thụ văn học, rèn luyện tình cảm
Trang 6
đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát triển khả năng học tập các môn
khác, là điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh Tiểu học.
Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc vào quá
trình giáo dục của người thầy mà trong đó mà phương tiện là nghe, nói, đọc, viết có
được nhờ học Tập đọc. Dạy Tập đọc đặc biệt là dạy đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học
đòi hỏi người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh Tiểu học, phù hợp với sự phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, đáp ứng như
cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách cho
trẻ.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy Tập đọc
Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn ngữ chữ
viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu ,đoạn, văn bản, ngữ điệu, nhịp điệu, tình cảm
ngôn ngữ. Đó là những vấn đề gắn bó với việc dạy và học Tập đọc của thầy và trò bậc
Tiểu học.
Văn học nghệ thuật, là tinh hoa của ngôn ngữ, là tình cảm đạo đức lý tưởng tình
yêu, nó có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong
phú và sâu sắc.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng tiếng, từ,
câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm, cảm nhận được ý
nghĩa tình cảm, có cảm xúc, biết tư duy, tưởng tượng, hình thành ý thức tốt đẹp trong
tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa lsf học sinh biết chuẩn ngôn ngữ và hiểu biết cảm
thụ văn học. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao động dạy học sáng tạo của
người thầy Tiểu học. Dạy Tập đọc sẽ càng tinh tế, càng sáng tạo, càng hiệu quả khi ta
nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ văn học.
3. Cơ sở giáo dục và phát triển
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành
năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đó thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc
có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kĩ năng đọc có nhiều
mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau.
Đầu tiên là giải mã chữ - âm một cách sơ bộ, tiếp theo đọc là phải hiểu được
nghĩa của từ, tìm được các từ, câu “chìa khoá” (chốt, trọng yếu) trong bài, biết tóm tắt
Trang 7
nội dung của đoạn. Với những bài văn biết phát hiện ra yếu tố “văn” và đánh giá được
giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, biết đọc đồng nghĩa với kĩ năng
làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản ở các tầng bậc khác nhau.
PHAÀN I: THÖÏC TRAÏNG
I. Thực trạng của việc dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
1. Thực trạng của việc dạy học phân môn Tập đọc nói chung.
Phân môn Tập đọc có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Do
đó, vấn đề dạy học phân môn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều chuyên đề,
phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em nâng lên. Nhưng nhìn chung
chủ yếu chỉ tập trung đến các lớp đầu cấp để làm sao các em đọc đúng, đọc trôi chảy là
được. Còn ở các lớp cuối cấp, giáo viên chỉ tập trung nhận xét cách đọc đúng, đọc trơn
chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành cho việc luyện đọc diễn cảm.
2. Thực trạng dạy học phân môn Tập đọc lớp 4, ở trường Tiểu học Tân Lập B, xã
Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc của
học sinh lớp 4 bản thân tôi nhận thấy: một số học sinh mới chỉ ở mức độ đọc đúng, đọc
trơn. Có em chẳng cần quan tâm mình có đọc diễn cảm bài thơ, bài văn đó không mà
chỉ đọc to, đọc nhanh là được.
Qua tìm hiểu tôi rút ra được một số nguyên nhân sau:
- Do cách phát âm theo phương ngữ, thường phát âm lệch chuẩn viết, cụ thể các
em thường mắc lỗi sau:
+ Các lỗi phụ âm đầu: l/n. Ví dụ: nổi lửa/ lổi lửa; nấu nướng/ lấu lướng…
+ Các lỗi về thanh: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc. Ví
dụ: suy nghĩ/ suy nghí; nghĩ kĩ/ nghí kí…
+ Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết nhấn
giọng, lên giọng hạ giọng những từ cần thiết.
+ Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn đọc.
Nên ngay từ đầu năm học, trong phạm vi nghiên cứu, tôi đã thống kê chất lượng
đọc của học sinh lớp 4 như sau:
Bảng 1: Chất lượng khảo sát phân môn Tập đọc lớp 4.
Trang 8
Khối
Lớp
Tổng
số HS
Số em đọc
chưa đạt yêu
cầu
Số em đọc
đạt trung bình
Số em đọc
đúng, rõ ràng
Số em đọc
diễn cảm tốt
SL % SL % SL % SL %
4 26 6 13 4 3
Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh đọc chưa đạt yêu cầu và học sinh
đọc trung bình chiếm hơn 60%. Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm còn thấp. Từ lí do trên tôi
quyết định nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4”.
Đây là một việc làm thiết thực mà trong mỗi giáo viên đứng lớp như chúng ta
băn khoăn, suy nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ dạy trên lớp nói
chung và dạy đọc diễn cảm cho học sinh cuối bậc Tiểu học nói riêng.
Để đưa chất lượng đọc đúng, đọc diễn cảm có sự thay đổi, tôi xin mạnh dạn đưa
ra một số biện pháp sau:
PHẦN GIẢI PHÁP
Dựa vào chương trình, nội dung của phân môn Tập đọc lớp 4, công văn 896/ BGD &
ĐT – GDTH V/v : “ Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học “ của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và Quyết định 16/2006/QĐ- BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006
của bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về : “Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu
học”, trong đó có Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học . Tôi lần lượt thực hiện
các giải pháp sau :
1.Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo.
Như chúng ta đã biết đọc diễn cảm chỉ thực hiện được trên cơ sở học sinh đã đọc
đúng và đọc lưu loát. Đọc đúng không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể
hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Bởi vậy việc rèn cho
học sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn đọc diễn cảm và đã thực hiện ở
các lớp 1, 2, 3. Đối với học sinh lớp 4 thì việc luyện đọc đúng được rèn luyện như sau:
a) Luyện đọc đúng:
- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị chia
tạm thời, không phải bao giờ cũng đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục của văn
bản) mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn bản thành
Trang 9
các đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau về chữ số, cách
ngắt đoạn không quá chi li, gây khó khăn cho học sinh đọc theo dõi và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn, giáo viên chỉ định trước số học sinh thạm gia đọc nối tiếp ở
mỗi vòng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc nối tiếp.
- Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, giáo viên nên hướng
dẫn học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện những
hạn chế về cách phát âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng dẫn đối với
cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh đạt yêu cầu đọc đứng và đọc
rành mạch.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp, kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải trong
SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu (việc tìm hiểu nghĩa từ có thể
xen kẽ trong quá trìng đọc nối tiếp hoặc sau khi đọc hết bài). Nếu học sinh đọc sai, giáo
viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục hướng
dẫn hoặc nhắc nhở.
Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho nhiều học sinh được thực
hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được giáo viên chỉ dẫn, uốn nắn hay động viên,
khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng đọc, chuẩn bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn
cảm.
b) Luyện đọc hay (đọc diễn cảm)
- Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn
cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm, thái độ
qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài…
(Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc về ngữ điệu, về tốc độ, trường độ và âm sắc,
diễn tả đúng nội dung). Tuy nhiên, học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc
vào sự cảm nhận riêng của từng em, giáo viên không nên áp đặt học sinh một cách theo
khuôn mẫu.
- Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác
định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin cơ
Trang 10
bản, giúp người nghe tiếp nhậ được những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản)
khắc phục những cách đọc thiên về hình thức “diễn cảm” của học sinh Tiểu học.
c) Các hình thức luyện đọc.
Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, giáo viên có thể tổ chức cho học
sinh hoạt động theo các hình thức sau:
- Đọc cá nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc đọc theo
cặp, theo nhóm).
- Đọc đồng thanh (theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần: Ví dụ: Đọc đồng thanh để
khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ
đoạn bài cần học thuộc lòng, thay đổi hoạt động, tạo không khí hào hứng cho lớp học.
- Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình đóng vai,
tham gia các trò chơi luyện đọc).
2. Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung bài.
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc - hiểu, góp phần
năng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm.
Nắm được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của
đoạn, của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ…
- Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và trả
lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh khác
đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh đọc
thầm khổ thơ 3 trong bài “Mẹ ốm” (lớp 4) để trả lời câu hỏi: Sự quan tâm chăm sóc của
xóm làng đối với mẹ của bạn nhỏ được thể hiện qua những câu nào?
- Tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn câu
hỏi, bài tập trong SGK chia tách câu hỏi thành các ý nhỏ để học sinh dễ thực hiện hoặc
bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh trả lời cau hỏi.
Ví dụ: Câu hỏi 1 trong bài “Tre Việt Nam” (lớp 4) nên tách thành 3 ý nhỏ để học
sinh dễ trả lời.
+ Những hình ảnh nào của tre gợi lên phẩm chất cần cù của người Việt Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất đoàn kết của người Việt Nam?
+ Những hình ảnh nào gợi lên phẩm chất ngay thẳng của người Việt Nam?
Trang 11
- Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân hoặc theo cặp, theo
nhóm…). Giáo viên tạo điện kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong quá
trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi, trao đổi ý
kiến.
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù
hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay
tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Sau
khi tìm hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc
thật tốt một đoạn nhằm “thăm dò” khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng
đọc của học sinh. Qua kết quả đọc của học sinh, giáo viên dẫn dắt, gợi ý để học sinh
phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc hợp lý. Ví dụ:
Đoạn vừa rồi đọc với giọng điệu như thế nào? Để nêu đặc điểm của nhân vật, em cần
chú ý nhấn giọng ở những từ ngữ nào?
Hoặc: Qua nội dung bài, em hãy xác định giọng đọc chung của toàn bài?
Học sinh thảo luận và trả lời – Sau đó giáo viên rút ra kết luận chung.
3. Giáo viên đọc mẫu diễn cảm.
Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Phải
hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc, mới tìm thấy
ngữ điệu phù hợp.
Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp. Đó là
việc thể hiện giọng đọc, ngắt giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ để biểu
đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự
thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
- Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc “tạo tình huống” cho học sinh
nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Ví dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của cô;
ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ
nào? Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo của
mình.
Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên
phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học sinh
trong tiết học. Để đọc tốt thì người giáo viên luôn coi trọng việc đọc mẫu để từ đó
Trang 12
thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh mình đọc đúng
hơn và phải có lòng ham muốn đọc hay.
4. Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản.
Tạo điệu kiện cho từng học sinh được thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp,
theo nhóm) để rút kinh nghiệm.
- Luyện đọc diễn cảm các câu tiêu biểu trong bài: Cách luyện đọc này tạo điệu
kiện cho tất cả học sinh đều được đọc. Theo các bước sau;
+ Giáo viên đưa ra câu cần luyện đọc đã ghi ở bảng phụ
+ Học sinh tìm hiểu nghĩa của câu văn đó.
+ Học sinh xác định giọng đọc của câu văn.
+ Học sinh đọc mẫu (Giáo viên đọc mẫu) – Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng
đọc của cô, của bạn mà mình yêu thích.
+ Học sinh luyện đọc theo nhóm, tổ, cá nhân.
- Luyện đọc diễn cảm đoạn văn hoặc khổ thơ.
Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách thể hiện giọng đọc, cách ngắt giọng, nhấn
giọng ở những từ ngữ biểu cảm trong đoạn hoặc khổ thơ đó rồi cho học sinh luyện đọc
theo trình tự các bước:
+ Giáo viên đọc mẫu – Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc.
+ Học sinh luyện đọc theo cặp.
+ Tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau và
được giáo viên động viên hay uốn nắn.
- Học sinh luyện đọc diễn cảm cả bài.
+ Giáo viên tiến hành các bước như trên.
+ Học sinh đọc cá nhân – Giáo viên nhận xét đánh giá.
* Đối với những văn bản có từ hai nhân vật trở lên, tổ chức cho học sinh thể hiện
giọng đọc theo nhân vật của văn bản hoặc cho học sinh đọc phân vai. Rèn cho các em
biết thay đổi giọng đọc khi nhập vai các nhân vật trong bài đọc – Cụ thể các em phải
đọc phân biệt được lời của tác giả và lời của nhân vật; phân biệt được lời của nhân vật
khác. Giáo viên nên hướng dẫn như sau:
- Cho học sinh đọc bài và tìm trong bài có mấy nhân vật.
Trang 13
- Giáo viên giúp học sinh chỉ ra từng tính cách của từng nhân vật và xác định
giọng đọc phù hợp với từng nhân vật
- Giáo viên thực hiện đọc mẫu lời các nhân vật bằng giọng đọc của mình (hoặc có
thể gọi học sinh có năng lực đọc tốt thể hiện)
- Học sinh luyện tập nhiều lần theo hướng dẫn của giáo viên.
5. Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ chức
các trò chơi học tập trong giờ Tập đọc.
Để kích thích hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể tổ chức các trò
chơi học tập cho học sinh. Thông qua các trò chơi kích thích hứng thú đọc; rèn tư duy
linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng, tình cảm tốt
đẹp.
Trò chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc diễn cảm (HTL).
Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trò chơi học tập thích hợp để tổ
chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc
“truyền điện” thi tìm nhanh - đọc đúng; nhìn một từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc
cả đoạn), nghe đọc đoạn - đoán tên bài; thi đọc truyện theo vai, thả thơ…
Dưới đây tôi xin giới thiệu một số trò chơi luyện đọc như sau:
a) Thi đọc tiếp sức:
* Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi.
* Tiến hành:
- Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi.
- Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.
- Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang. Mỗi em cầm một cuốn SGK, đã
mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc.
+ Giáo viên hô lệnh: “bắt đầu”, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc
câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ nhất, em số 2 (cạnh số 1) mới được
đọc tiếp câu thứ hai…Cứ như vậy cho đến em cuối cùng của nhóm. Nếu chưa hết bài,
câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọc…cho đến hết bài văn thì dừng lại – Giáo
viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.
- Học sinh sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu hoặc đọc
câu sau khi người trước chưa đọc xong, đọc vượt quá một câu theo quy định.
Trang 14
- Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho điểm nhóm
“đọc tiếp sức” mỗi câu văn đọc đúng cho một điểm, không cho điểm các trường hợp vi
phạm.
- Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức nhanh
nhất, hay nhất.
* Lưu ý: ở tiết Tập đọc một bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng hoặc
một câu lục bát. Nếu là tiết Tập đọc – Học thuộc lòng, giáo viên cho thi
tiếp sức theo cách trên nhưng học sinh không nhìn SGK.
* Khảo sát đối chứng – Bài học kinh nghiệm
- Khảo sát đối chứng :
Để nâng cao chất lượng đọc diễn cảm cho học sinh là một việc làm đòi hỏi sự
kiên trì và có thời gian. Vì vậy giáo viên cần phải áp dụng các biện pháp luyện tập ở lớp
cũng như ở nhà một cách đồng bộ mới mang lại hiệu quả tốt được.
Để kiểm chứng những biện pháp trên, tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm - lớp 4
khảo sát thực nghiệm 26 em học sinh đã được khảo sát ở bảng 1. Thời gian qua học kì I
PHAÀN III: KEÁT QUAÛ
Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên,
hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt động tích cực
hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc chưa đạt yêu cầu đã giảm đi.
Số em đọc đúng, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt. Kết quả thực nghiệm được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 2: Kết quả thực nghiệm
Lớp
Tổng
số
HS
Số em đọc chưa
đạt yêu cầu
Số em đọc đạt
trung bình
Số em đọc
đúng, rõ ràng
Số em đọc
diễn cảm tốt
SL % SL % SL % SL %
4 26 2 16,7 10 46,6 7 20 7 16,7
Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi đưa
ra đã thu được kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp
Trang 15
này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc diễn cảm của các em
được nâng lên.
* Bài học kinh nghiệm:
Qua nghiên cứu lý luận và thực tế dạy đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học, tôi đã
rút ra bài học có giá trị sau:
+ Giáo viên cần phải thương yêu, gần gũi giúp đỡ học sinh, luôn quan tâm tìm
hiểu xem các em vấp phải khó khăn gì trong cách đọc, cách phát âm và cách đọc diễn
cảm để từ đó khắc phục những khó khăn các em vướng mắc.
+ Việc đọc mẫu diễn cảm của giáo viên là khâu quan trọng giúp học sinh luyện
tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài đọc qua giọng đọc, đồng thời các
em học tập cách đọc của giáo viên.
+ Việc nắm nội dung bài đọc và xác định giọng đọc của cả bài, đoạn, câu là một
yếu tố cơ bản giúp học sinh đọc diễn cảm tốt.
+ Cần phát huy luyện đọc diễn cảm theo cặp, theo nhóm để học sinh luyện tập lẫn
nhau.
+ Trong quá trình giảng dạy nên tổ chức trò chơi học tập để thay đổi không khí
học tập gây hứng thú cho học sinh.
+ Việc rèn học sinh có thói quen học ở nhà là một việc là cần thiết trong khâu đọc
diễn cảm, bởi vì ở lớp thời gian học tập rất ít. Các em chuẩn bị bài ở
nhà tốt thì đến lớp tiếp thu bài nhanh hơn, đọc tốt hơn.
KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay – thời đại của tri thức và trí tuệ, của khoa học công nghệ
và thông tin. Biết đọc càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông
tin, để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Dạy đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học
là một vấn đề hết sức cần thiết nó có ý nghĩa rất lớn để kích thích sáng tạo của học sinh,
mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh. Qua các
bài Tập đọc, học sinh còn được cung cấp vốn từ ngữ, năng lực diễn đạt, những hiểu biết
về tác phẩm văn học. Từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung và trình độ Tiếng Việt
nói riêng.
Trang 16
Vậy để nâng cao hiệu quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4. Đòi hỏi mỗi giáo
viên chúng ta phải nỗ lực hết mình, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư suy
nghĩ sáng tạo làm cho các em say mê, hứng thú hoạt động học tập…Tôi đã nghiên cứu,
tìm tòi và đưa ra 5 biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu
học nói chung và học sinh trường Tiểu học Tân Lâp B nói riêng:
Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo.
Biện pháp 2: Khai thác giọng đọc của học sinh thông qua việc tìm hiểu nội dung
bài đọc.
Biện pháp 3: Giáo viên đọc mẫu diễn cảm.
Biện pháp 4: Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản.
Biện pháp 5: Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng
cách tổ chức trò chơi học tập trong giờ Tập đọc.
Các biện pháp trên qua thực tế thực nghiệm ở trường Tiểu học Hoà Sơn A đã thu
được kết quả khả quan - Vì vậy có thể mở rộng hơn. Do thời gian và trình độ có hạn nên
đề tài của tôi mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ, sự thực nghiệm còn chưa nhiều. Song tôi
tin chắc rằng với những giải pháp này, bằng sự sáng tạo của mình các giáo viên sẽ vận
dụng có hiệu quả trong quá trình dạy học đọc diễn cảm ở các lớp 4 - Tôi rất mong sự
đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.
III. ĐỀ XUẤT:
Trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Tân Lập B. Tôi có một số đề xuất sau:
- Để giúp giáo viên thực hiện soạn giảng đạt kết quả cao thì các cấp cần cung ứng
các tài liệu tham khảo kịp thời, tranh ảnh về môn Tiếng Việt để giờ dạy của giáo viên
được hoàn thiện hơn.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia giao lưu học tập, tập huấn về đổi
mới phương pháp dạy học, bố trí nhiều tiết dạy mẫu…để giáo viên vận dụng một cách
linh hoạt trong việc giảng dạy với từng đối tượng học sinh.
- Tăng cường khuyến khích viết đề xuất sáng kiến kinh nghiệm cấp trường, cấp
huyện triển khai vào thực tế dạy học.
- Các cấp quản lý giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo viên thực
hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
Trang 17
Trên đây là đề xuất sáng kiến của tôi. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của
các đồng nghiệp, của BGH nhà trường và của cấp trên.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí!
Trang 18
Xác nhận của nhà trường Tân Lập, ngày 4 tháng 05 năm 2011
Người viết
Trần Thị Loan.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
A/ Đặt vấn đề. 01
B/ Nội dung.
I. Cơ sở khoa học 03
II. Nội dung sáng kiến
1. Thực trạng 05
2. Các biện pháp 06
3. Hiệu quả 14
C/ Kết luận chung và đề xuất
I. Kết luận 16
II. Một số đề xuất và kiến nghị 17
Trang 19