Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Rèn đọc cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.58 KB, 12 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC RÈN ĐỌC CHO HỌC
SINH TRONG GIỜ TẬP ĐỌC LỚP 5

NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN THỊ HỒNG.
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC MƯỜNG CƠI 1
PHÙ YÊN - SƠN LA.


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học.Đọc trở thành một đòi hỏi cơ
bản đầu tiên đối với những người đi học.Đầu tiên các em phải học đọc,sau đó phải
đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và
học tập . Nó là công cụ để học tập các môn học khác .Nó tạo ra hứng thú và động
cơ học tập . Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng :
Tự học và tinh thần học tập suốt cuộc đời. Nó là một khả năng không thể
thiếu được của con người thời đại văn minh .
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng
như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng
cho các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lô
gic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý nghĩa to lớn, nó bao
gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển .
Những điều ở trên đã khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát
triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với
1
tư cách là một phân môn Tiếng Việt ở Tiểu học, có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này -
hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Mặc dù đã có nhiều lần cải cách, chỉnh lý chương trình sách giáo khoa cũng


như đổi mới, cải tiến phương pháp dạy tập đọc nói chung, việc dạy tập đọc ở các
trường Tiểu học hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Giáo viên nặng về truyền đạt,
quen sử dụng phương pháp truyền thống, không kích thích được hứng thú học tập
của học sinh tham gia tìm hiểu, xây dựng cách đọc bài.
Nhiều giáo viên ở các lớp 5 còn coi nhẹ giờ Tập đọc, bởi họ còn phải dành
nhiều thời gian cho việc luyện Toán , luyện văn .
Với ý nghĩa quan trọng của phân môn Tập đọc và thực trạng về phương pháp
Dạy - Học Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay, tôi mạnh dạn chọn phân môn
Tập đọc để nghiên cứu và thể hiện trong việc đổi mới phương pháp Dạy-Học tập
đọc ở tiểu học. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Rèn đọc cho học sinh trong giờ
tập đọc”.
II. PHẠM VỊ ĐỀ TÀI:
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 5 và đặc biệt là học sinh lớp 5A
1
Trường Tiểu học Mường Cơi 1.
Môn nghiên cứu: Phân môn Tập đọc, tập trung vào việc rèn đọc cho học
sinh.
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra phương pháp dạy đọc tốt nhất để giúp học sinh
học tốt phân môn Tập đọc.
III. MỤC TIÊU ĐẶC TRƯNG CỦA BỘ MÔN:
Rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc ngày càng thành thạo. Rèn tốt cả hai
hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học,
phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Giáo dục, bồi
dưỡng tư tưởng, tình cảm, tâm hồn cho học sinh. Đáp ứng với mục tiêu đào tạo của
bậc Tiểu học: “Giáo dục con người phát triển toàn diện”.
B. PHẦN II
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG TRONG NĂM HỌC:
2
Để có biện pháp, phương pháp dạy đọc tốt, chúng ta hãy nhìn lại và đánh giá
hiện trạng trong năm học.

1.Thuận lợi:
Từ năm học 2005 - 2006, các bài Tập đọc được đưa vào phân môn Tập đọc và
được trình bày ở đầu sách Tiếng Việt mỗi tập. Mỗi tuần có hai bài tập đọc cũng là 2
tiết.
Về nội dung, các bài tập đọc lớp 5 xoay quanh các chủ đề: Việt Nam Tổ quốc
em; Cánh chim hoà bình; Con người với thiên nhiên; Giữ lấy màu xanh; Vì hạnh
phúc con người; Người công dân; Vì cuộc sống thanh bình; Nhớ nguồn; Nam và
nữ; NHững chủ nhân tương lai
Bài Tập đọc ở sách học sinh lớp 5 gồm các phần:
Văn bản (Bài văn hoặc bài thơ), chú giải, hướng dẫn đọc: Chỉ dẫn cách đọc một
số câu khó, đoạn khó về cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc điểm
nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc.
Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội
dung và nghệ thuật của bài văn, bài thơ. ở nhiều bài còn có yêu cầu học thuộc lòng,
rất thuận lợi cho người dạy, người học.
Trong năm học 2005 - 2006, các trường đều được học về vấn đề “Đổi mới
sách giáo khoa Tiếng Việt” và từ đó đến nay, chúng ta đã thực hiện nhiều chuyên đề
dạy Tiếng Việt theo phương pháp mới “Lấy học sinh làm trung tâm”; các chuyên đề
“Đổi mới phương pháp dạy Tập đọc lớp 2,3”; chuyên đề “Đổi mới phương pháp
dạy Tập đọc lớp 5”.
Nhà trường còn được học văn bản của Sở về “Thực hiện đổi mới phương pháp
Dạy - Học môn Tập đọc”.
2. Khó khăn:
Trình độ học sinh không đồng đều trong một lớp: Có nhiều học sinh đọc đúng,
nhanh và diễn cảm nhưng cũng không ít học sinh đọc còn ngắc ngứ, lý nhí, chưa
tốt.
Tôi đã điều tra chất lượng đọc đầu năm của học sinh khối 5, trong đó có lớp
5A
1
Trường Tiểu học Tiểu học Mường Cơi I được thể hiện qua bảng thống kê sau:

3
5A
1
Giỏi: 03 em; Khá: 05 em; Trung bình: 10 em; Yếu 04 em.
Như vậy, chất lượng đọc thực tế cho thấy còn thấp.
Thực tế ở các trường Tiểu học nhiều giáo viên còn dạy sai đặc trưng, biến
giờ Tập đọc thành giờ “Giảng văn” nặng nề, không phù hợp đối tượng học sinh.
Có giờ Tập đọc giáo viên lại đi sâu vào giảng từ ngữ, như một giờ từ ngữ nặng
nề, khó khăn, chiếm mất nhiều thời gian nên lúc học sinh luyện đọc còn rất ít thời
gian hoặc nếu có dạy đọc thì cũng qua loa, áp đặt cách đọc để học sinh phải đọc thụ
động, ít gợi ý để học sinh khám phá, tìm hiểu cách đọc, dẫn đến hiệu quả đạt được
trong giờ tập đọc chưa cao.
Đồ dùng dạy học: Phương tiện trực quan chủ yếu trong tiết Tập đọc là ngôn
ngữ của giáo viên và bài tập đọc trong sách giáo khoa, tranh màu phóng to minh
họa và một số vật thật hoặc mô hình để giảng từ và ý chưa được sử dụng thường
xuyên.
PHẦN III
QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Trong một giờ Tập đọc tôi luôn chú ý : Rèn cho học sinh kỹ năng đọc ngày
càng thành thạo. Đây là yêu cầu có tính đặc trưng của phân môn Tập đọc. Dạy Tập
đọc cho học sinh chính là quá trình làm việc của thầy và trò để thực hiện hai hình
thức: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Đây chính là: “Hai biện pháp dạy đọc”. Hai
hình thức đọc này gắn bó chặt chẽ với nhau, cộng tác cùng thực hiện để đạt một
mục đích cuối cùng của đọc: Thông hiểu nội dung văn bản.
Chất lượng đọc thành tiếng bao gồm 4 phẩm chất: Đọc đúng, đọc nhanh (lưu
loát ), đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn bản) và đọc diễn cảm.
1. Chuẩn bị cho việc đọc:
Tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh. Khi ngồi đọc cần ngay ngắn,
khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30 - 35 cm, cổ và đầu thẳng. Khi cô giáo gọi
đọc phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Tư thế đứng đọc phải đàng

hoàng, thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
Tôi luôn cho học sinh hiểu khi đọc thành tiếng: Các em đọc không phải chỉ cho
mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn trong lớp cùng nghe, nên cần đọc đủ cho tất
4
cả nghe rõ. Nhưng không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Đối với học sinh đọc
quá nhỏ “lý nhí”, tôi kiên nhẫn luyện và động viên các em đọc to dần.
2. Luyện đọc đúng.
a. Khái niệm:
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không
có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần và tiếng. Đọc đúng bao
gồm đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị), nghỉ ngắt hơi đúng chỗ (đọc đúng
ngữ điệu).
b. Biện pháp:
Đầu năm tôi đã phân loại để nắm được trình độ đọc của học sinh, từ đó có kế
hoạch luyện đọc cho từng em. Trước khi lên lớp, tôi dự tính các lỗi học sinh lớp tôi
dễ mắc, những từ, những câu khó lần trước chưa đọc tốt để luyện.
Luyện đọc đúng các âm đầu: Làm việc, nó nói, phụ nữ, phụ lão, cá rô, khoẻ
khoắn
Đọc đúng các âm khó: Chai rượu, con hươu, đêm khuya, lưu luyến, cái
Đọc đúng bao gồm đúng cả tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Việc ngắt
nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu
chấm. Tôi dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nhịp đúng các
câu:
Đối với những bài thơ ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Ví dụ: Bài “Đất nước”, mỗi câu 7 tiếng, nhịp thơ phổ biến là 4/3:
“ Sáng mát trong như / sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu / hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày / thu đã xa…"
Với bài thơ lục bát “Hành trình của bầy ong”, nhịp thơ phổ biến 2/4 và 4/4:
“ Với đôi / cánh đẫm nắng trời

Bầy ong bay đến/ trọn đời tìm hoa
5
Không gian / là nẻo đường xa
Thời gian vô tận/ mở ra sắc màu…”
Đối với một bài thơ, đoạn văn, câu văn học sinh đọc cá nhân thành tiếng chưa
ngắt nghỉ hơi đúng, tôi cho một học sinh khác đứng tại chỗ hoặc lên bảng đấnh dấu
lại chỗ ngắt, nghỉ hơi và cho cả lớp đọc đồng thanh.
Tôi cho học sinh lên bảng: Đánh dấu chỗ ngắt và gạch dưới những từ ngữ cần
nhấn giọng (Vì học sinh đọc cá nhân chưa biết cách ngắt nghỉ).
Sau đó cho cả lớp đọc đồng thanh. Việc đọc đồng thanh trong giờ tập đọc làm
cho không khí lớp học vui tươi, phù hợp với lứa tuổi tiểu học. Tạo điều kiện cho tất
cả học sinh đều tham gia vào đọc thành tiếng. Tuỳ theo từng bài, tuỳ vào mức độ
đọc của học sinh mà giáo viên cho học sinh đọc đồng thanh cả bài hay đọc 1 đến 2
câu văn, đoạn văn khó.
Với bài thơ "Đất nước”, tôi cho học sinh đọc đồng thanh cả bài.
a. Khái niệm:
Đọc lưu loát là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ.
Tốc độ đọc nhanh chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng. Khi đọc phải chú ý xác định
tốc độ để cho người nghe hiểu kịp được.
Nhưng đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của
đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. (Tốc độ đọc thành tiếng
lớp 4: 120 tiếng/ phút; lớp 5: 150 tiếng/ phút). Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ
nhanh hơn nhiều.
b. Biện pháp:
Tôi hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh
đọc thầm theo. Ngoài ra, tôi áp dụng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có
sự kiểm tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Ví dụ: Khi học sinh đọc cá nhân toàn bài hoặc đọc một khổ thơ, một đoạn văn
tôi đều nhắc cả lớp đọc thầm theo. Tôi còn gây hứng thú cho học sinh bằng những
trò chơi cuối giờ như: Thi đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện Kết thúc trò chơi

bao giờ tôi cũng cho học sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc nhanh nhất, giỏi nhất
và gợi ý rút kinh nghiệm cho lần chơi sau.
6
Muốn học sinh đọc nhanh, đúng tốc độ cần có sự chuẩn bị bài ở nhà tốt, học
sinh phải được đọc trước nhiều. Em nào đọc chậm tôi phải giúp các em luyện thêm
sau giờ học.
4. Luyện đọc có ý thức (Đọc hiểu)
a. Khái niệm:
Để giúp học sinh đọc cảm nhận văn bản, hiểu văn bản thì trong việc dạy môn
tập đọc phải chú ý rèn luyện khả năng đọc hiểu cho học sinh. Đó là vấn đề cần
thiết, quan trọng đối với học sinh lớp 5. Có hiểu nội dung bài văn, bài thơ thì mới
có cách đọc đúng, đọc hay và diễn cảm được.Việc luyện đọc hiểu thường được
thực hiện trong bước đọc thầm.
Sự thực thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn để tiếp nhận , thông hiểu nội
dung văn bản vì người ta không phải chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập trung để
hiểu nội dung điều mình đọc. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông
hiểu nội dung văn bản đọc.
Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả đọc thầm
phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì
đọc được.
b. Biện pháp:
Kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài với việc luyện đọc. Tôi hướng dẫn học
sinh tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu tìm hiểu
bài và rèn đọc.
Một giờ tập đọc tôi cho học sinh đọc thầm nhiều lần. Đồng thời tôi giao nhiệm
vụ cho học sinh trong khi đọc thầm để kiểm tra kỹ năng đọc hiểu.
Ví dụ dạy bài: “Hành trình của bầy ong”.
Đọc thầm lần 1: Sau khi giới thiệu bài xong, 1 học sinh khá đọc toàn bài, đồng
thời cả lớp đọc thầm theo bạn để nắm được nội dung của bài.

Đọc thầm lần 2: Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 1, cho 1 học sinh đọc đoạn
1. Cả lớp đọc thầm theo. Giáo viên giao nhiệm vụ: Những chi tiết nào trong khổ
thơ đầu nói lên hành trình vô tận của bầy ong?
7
Đọc thầm lần 3: Trước khi tìm hiểu nội dung đoạn 2, 1 học sinh đọc đoạn 2.
Đồng thời cả lớp đọc thầm. Giáo viên giao nhiệm vụ: Bầy ong tìm mật ở những nơi
nào?
Như vậy là tôi đã cho học sinh đọc thầm trước khi phân tích nội dung bài, đồng
thời với đọc cá nhân thành tiếng để học sinh nắm được nội dung văn bản và từ đó
có cách đọc đúng. Như vậy đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đọc thành tiếng và đọc
thầm.
Để giúp học sinh đọc hiểu tốt, tôi đã chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh nêu
nội dung, nghệ thuật, cách đọc bài. Tôi chú ý các câu hỏi để học sinh tìm hiểu
nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ; tìm các từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái
nghĩa
Sau đó tôi đặt câu hỏi cách đọc đoạn này, học sinh tìm ra được cách đọc sau
khi hiểu nội dung bài.Tôi còn giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp
của cách nói văn chương, hướng dẫn các em phát hiện những tín hiệu nghệ thuật và
đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.
5. Luyện đọc diễn cảm.
a. Khái niệm:
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn bản văn chương
hoặc có các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm
chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng để biểu đạt đúng ý nghĩ và
tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông
hiểu, cảm thu của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc
ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát.
b. Biện pháp:
Nội dung của bài đọc đã qui định ngữ điệu của nó nên tôi không bao giờ áp đặt
sẵn giọng đọc bài mà để học sinh tự nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu

nghĩa. Tôi chỉ là người lắng nghe, sửa cách đọc của từng học sinh. Tôi cũng luôn
kích thích, động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm. Vì vậy, trong giờ tập đọc lớp
tôi các em rất thích tham gia đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm chỉ có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn cảm yêu
cầu đọc đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm phù hợp với từng ý cơ
bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn
giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả.
8
Để đọc diễn cảm, người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng (kỹ thuật ngắt
giọng biểu cảm), làm chủ được tốc độ đọc (độ nhanh, chậm, chỗ ngân hay dãn
nhịp đọc), làm chủ cường độ giọng (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm
chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng).
Ở Tiểu học, khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một số kỹ thuật
như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ và ngữ điệu.
Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe, thiên về cảm
xúc. Ngắt giọng biểu cảm là những chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm,
góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao. Đó là sự ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật.
Những học sinh đọc còn kém, tôi kiên trì luyện tập thêm, không bỏ qua mà
cũng không đòi hỏi ráo riết. Tôi còn tổ chức theo nhóm để các em khá, giỏi kèm
cặp các em kém.
Như vậy là lên giọng, xuống giọng khi đọc một bài tập đọc tạo ra một hiệu
quả nghệ thuật cao. Trong từng bài tập đọc, các em cũng cần có giọng đọc thích
hợp.
6. Chú ý đọc mẫu của giáo viên và ghi bảng:
a. Đọc mẫu của giáo viên:
Giáo viên đọc mẫu tốt cũng đã dạy học sinh đọc rất nhiều. Bởi vậy, trước giờ
tập đọc, tôi phải nghiên cứu nội dung, cách đọc và tập đọc nhiều lần.
Có nhiều cách đọc mẫu:
+ Đọc mẫu toàn bài: để giới thiệu, gây hứng thú cho học sinh.
+ Đọc câu , đoạn: Giúp học sinh nhận xét, giải thích, tìm ra cách đọc.

b. Cách trình bày bảng:
Bảng lớp cũng là một đồ dùng trực quan giúp học sinh đọc tốt. Chính vì vậy,
tôi luôn trình bày bảng gọn, rõ, đảm bảo tính đặc trưng của bộ môn để học sinh
nhìn vào cũng có được cách đọc.
Tôi còn chuẩn bị một bảng phụ, chép sẵn nắn nót và đẹp một câu văn dài
hoặc một đoạn văn khó đọc để gọi học sinh lên đánh dấu chỗ ngắt, nghỉ hơi, nhấn
giọng trước khi đọc đồng thanh và đọc cá nhân.
9
Học sinh lớp tôi quen thuộc và dùng rất tốt các ký hiệu để ghi lại ngữ điệu
của bài.
PHẦN IV: KẾT QUẢ
1. Với thầy cô giáo:
Tôi tự thấy đã tìm được hướng đúng, cách làm đúng cho việc dạy tập đọc:
Dạy đúng đặc trưng bộ môn. Tôi thấy rất say sưa, hứng thú khi rèn đọc cho học
sinh.
Các tiết dạy tập đọc của tôi không bị biến thành giờ giảng văn, cô giảng là
chính, trò chỉ ngồi nghe nặng nề, khô khan nữa.
Hàng năm, tôi thường dạy Hội giảng môn Tập đọc được đánh giá cao được
đồng nghiệp khen ngợi và học tập. Tôi đã nhiều lần được phân công dạy chuyên đề
“ Đổi mới phương pháp dạy tập đọc lớp 5” cho tất cả các đồng chí trong trường.
2. Với học sinh:
Học sinh lớp tôi không còn ngại ngùng, e dè khi đọc diễn cảm trước cả lớp
(hay lúc có đông người dự), hoặc không còn đọc qua loa, nhanh nhanh cho xong
bài.
Kết quả được thể hiện ở cuối năm học 2008 -2009 như sau:
Lớp 5A
1
. Sĩ số: 22
Kết quả Đọc : Giỏi 10 em (45%); Khá 07 em ( 31,5% ); TB 05 22,5% ). Yếu: 0
Số học sinh đọc kém, lý nhí không còn nữa. Số học sinh đọc đúng, diễn cảm

đã tăng lên nhiều.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua việc thực hiện các biện pháp cơ bản nêu trên bản thân tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm về việc dạy phân môn tập đọc như sau:
1. Trước hết giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo trước khi hướng dẫn học
sinh thực hiện tiết Tập đọc . Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành
công của một bài giảng.Ảnh hưởng lớn tới chất lượng đọc của học sinh.
10
Tuy nhiên chỉ có sự chuẩn bị của giáo viên thì chưa có được kết quả mĩ mãn
mà cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng của học sinh, hai hoạt động này cần có sự phối
hợp chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau. Giáo viên động viên khuyến khích các em
tự giác, tích cực trong khâu chuẩn bị như làm bài cũ, tự bổ sung các câu khuyết, tập
đặt câu hoặc tự mình quan sát.
2. Giáo viên phải đi sâu, đi sát tìm hiểu cặn kẽ những nguyên nhân chủ yếu
dẫn tới sự yếu kém của học sinh ở từng bài Tập đọc, không gò ép, nhồi nhét rút
ngắn giai đoạn, hướng dẫn học sinh cụ thể, cặn kẽ, có sự thâm nhập để tích luỹ kiến
thức cho các em được sâu hơn, chắc hơn.
3. Phải có sự kiểm tra đánh giá thường xuyên để tạo nề nếp thói quen cho
học sinh để động viên khích lệ các em có ý thức vươn lên.
4. Khi kiểm tra các bài Tập đọc của học sinh giáo viên phải nghiên cứu kỹ
yêu cầu mà các em cần diễn đạt.
VI. KẾT LUẬN CHUNG:
Công tác giảng dạy là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi
người giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, coi tri thức của học sinh là sản phẩm
trí tuệ của mình. Vì vậy hoạt động dạy nó đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư
chính đáng, vận dụng linh hoạt các phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh. Nhưng đầu tư như thế nào? Vận dụng ra sao? Lại là "Bí quyết thành
công" của mỗi người giáo viên. Muốn được như vậy đòi hỏi người giáo viên luôn
học hỏi, tìm tòi sáng tạo trong công tác giảng dạy tránh áp dụng cứng nhắc, đi vào
lối mòn…

Nhận thức được điều này tôi tự đề ra cho mình một nguyên tắc "Không sao
nhãng việc nghiên cứu bài trước khi soạn giảng".
Qua các đợt dự giờ thăm lớp và qua nhiều năm giảng dạy ở khối 5 tôi luôn suy nghĩ
trăn trở về chất lượng luyện đọc của các em và tôi quyết định chọn đề tài này để
nghiên cứu. Mong có được những biện pháp hữu hiệu hơn nhằm "Nâng cao chất
lượng đọc cho các em"
Tuy nhiên để đạt được những kinh nghiệm bước đầu này tôi đã gặp không ít
khó khăn. Nhưng được sự chỉ đạo cụ thể, sát sao của Ban giám hiệu và những trao
đổi động viên tận tình của đồng nghiệp, tôi đã mạnh dạn trình bày những việc làm
cụ thể, nhưng kết quả bước đầu tuy chưa cao và mong muốn được những ý kiến
đóng góp, bổ sung của các đồng chí, đồng nghiệp của trường bạn để kết quả nghiên
11
cứu, thực hiện của tôi đạt kết quả cao hơn và hoàn thiện hơn, có thể trở thành kinh
nghiệm giảng dạy cho những trường có đối tượng học sinh yếu như lớp, trường tôi.
Mường Cơi, ngày 27 tháng 5 năm 2009
XÁC NHẬN CỦA TRƯỜNG NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Thị Hồng
12

×