Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Bài giảng TÀI CHÍNH CÔNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.93 KB, 105 trang )

TÀI CHÍNH CÔNG VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÔNG

1 - Lý luận chung về Tài chính và Tài chính công
1.1 - Bản chất của tài chính
1.1.1 Sự ra đời của tài chính
Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử và kinh tế, xã
hội nhất định. Khi xã hội bắt đầu có sự phân công lao động, sự chiếm hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, về sản phẩm lao động thì nền sản xuất hàng hoá
ra đời. Tiền tệ xuất hiện như một tất yếu khách quan và là môi giới trung gian
giúp cho việc trao đổi hàng hoá được tiến hành một cách dễ dàng. Tiền tệ trở
thành phương tiện trao đổi và phương tiện tích luỹ trong quá trình phân phối
tổng sản phẩm xã hội. Các quỹ tiền tệ cũng được hình thành nhằm mục đích
tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các quỹ tiền tệ này được tạo
lập và sử dụng bởi các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân. Các quan
hệ kinh tế này đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phân chia
giai cấp và sự xuất hiện của Nhà nước. Với chức năng và quyền lực của mình,
Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hàng hoá phát triển, mở rộng
phạm vi hoạt động của tài chính. Đồng thời, để duy trì hoạt động của mình,
Nhà nước cũng đã tạo lập quỹ ngân sách để chi tiêu cho các hoạt động của
mình. Thông qua ngân sách nhà nước, Nhà nước tác động vào quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội và hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước. Như
vậy, Nhà nước ra đời làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển hơn.
Từ đó có thể thấy các tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và tồn tại
của tài chính là sản xuất hàng hoá - tiền tệ và sự xuất hiện nhà nước, trong đó
sản xuất hàng hoá-tiền tệ là là nhân tố mang tính chất khách quan, có ý nghĩa
quyết định đối với sự ra đời và tồn tại của tài chính; còn Nhà nước là nhân tố
có ý nghĩa định hướng, tạo hành lang và điều tiết sự phát triển của tài chính.
1
1
1.1.2. Bản chất của tài chính


Tài chính, như mọi đối tượng nghiên cứu khác - có hình thức biểu hiện
bên ngoài và nội dung bên trong của nó. Quan sát thực tiễn các quá trình vận
động kinh tế, xã hội có thể nhận thấy các biểu hiện bên ngoài của tài chính là
các hiện tượng thu vào bằng tiền và hiện tượng chi ra bằng tiền trong hoạt
động của các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, biểu hiện bên ngoài của
tài chính là sự vận động của các nguồn tài chính. Kết quả của quá trình phân
phối các nguồn tài chính (các bộ phận của cải dưới hình thái giá trị) là sự hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Các nguồn tài chính trong xã hội luôn vận động một cách liên tục .trong
mối quan hệ phức tạp và đa dạng giữa các chủ thể trong xã hội. Thông qua
các biểu hiện nói trên, tài chính thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa
các chủ thể trong quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thái giá trị.
Từ đó có thể thấy bản chất của tài chính như sau: Tài chính phản ánh
hệ thống các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân phối các
nguồn tài chính thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp
ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Các nguồn tài chính khi tập trung tại một điểm nhất định sẽ tạo thành
quỹ tiền tệ. Mỗi lĩnh vực hoạt động nhất định gắn với một loại quỹ tiền tệ đặc
thù được tổ chức thành một bộ phận và hình thành nên một khâu tài chính độc
lập. Giữa các khâu tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, phụ thuộc
lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính. Điều đó
khiến chúng kết hợp với nhau và cấu thành hệ thống tài chính thống nhất.
Cơ cấu hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam bao
gồm các bộ phận cấu thành như sau:
- Tài chính công
- Tài chính doanh nghiệp
- Tài chính của các tổ chức tài chính
2
2
- Tài chính dân cư

- Tài chính các tổ chức xã hội.
1.2. Khái niệm và bản chất tài chính công
Tài chính công là một bộ phận hữu cơ của nền tài chính quốc gia. Sự ra
đời và phát triển của tài chính công gắn liền với sự ra đời và phát triển của
Nhà nước.
Tài chính công là một phạm trù kinh tế gắn với thu nhập và chi tiêu của
Nhà nước; vừa là nguồn lực để Nhà nước thực hiện các chức năng vốn có của
mình, vừa là công cụ để Nhà nước chi phối, điều chỉnh các hoạt động khác
của xã hội; vừa là công cụ quan trọng của Nhà nước để thực hiện những
nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, sự tồn tại và phát triển của tài chính
công là một đòi hỏi khách quan và hết sức cần thiết.
Tài chính công có một số đặc điểm cơ bản như sau:
- Chủ thể sở hữu và quản lý tài chính công là Nhà nước, nên quyền
quyết định các khoản thu, chi trong tài chính công thuộc Nhà nước hoặc các
cơ quan công quyền do Nhà nước uỷ nhiệm.
- Các quan hệ kinh tế trong phân phối của tài chính công gắn với quá
trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của chính quyền trung
ương, các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức, đơn vị của Nhà nước.
- Tài chính công hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu
phục vụ lợi ích cộng đồng. Vì vậy một số bộ phận của tài chính nhà nước như
doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng thương mại hoạt động vì mục đích
kinh doanh và lợi nhuận không nằm trong phạm vi tài chính công. Đây là
điểm cơ bản trong việc tạo nên sự không đồng nhất giữa tài chính công và tài
chính nhà nước.
3
3
- Tài chính công phục vụ nhiệm vụ chính trị của Nhà nước trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Do đó trong mỗi giai đoạn, tài chính công có các
nhiệm vụ cụ thể khác nhau.

- Tài chính công tạo ra môi trường bình đẳng cho mọi công dân về
hưởng thụ các hàng hoá công và dịch vụ công được cung cấp bằng nguồn lực
tài chính công.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy:
Tài chính công là các hoạt động thu và chi bằng tiền của Nhà nước,
phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị trong quá trình
hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm phục vụ cho việc
thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Cơ cấu tài chính công bao gồm:
- Ngân sách nhà nước Trung ương và Địa phương
- Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước
- Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước
- Tài chính phục vụ hoạt động công ích do Nhà nước tài trợ (các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích).
- Các quỹ tài chính ngoài ngân sách của nhà nước
1.3. Các chức năng của Tài chính công
Chức năng của tài chính là các thuộc tính khách quan vốn có, là khả
năng bên trong thể hiện tác dụng xã hội của tài chính.
Tài chính nói chung có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và
chức năng giám đốc. Tài chính công là một bộ phận cấu thành quan trọng của
tài chính, có nét đặc thù là gắn với thu nhập và chi tiêu của Chính phủ. Do đó,
các chức năng của tài chính công cũng xuất phát từ hai chức năng của tài
chính, đồng thời có mở rộng thêm căn cứ vào nét đặc thù của tài chính công.
Có thể nêu lên ba chức năng của tài chính công là:
4
4
1.3.1. Chức năng tạo lập vốn
Trong nền kinh tế thị trường, vốn tiền tệ là điều kiện và tiền đề cho mọi
hoạt động kinh tế - xã hội. Bất kỳ một khâu tài chính nào về thực chất cũng có
chức năng tạo lập vốn. Thực ra, chức năng tạo lập vốn là một khâu tất yếu của

quá trình phân phối, nên khi nói về chức năng của tài chính nói chung, người
ta thường không tách riêng ra thành một chức năng. Tuy nhiên, đối với tài
chính công, vấn đề tạo lập vốn có sự khác biệt với việc tạo lập vốn của các
khâu tài chính khác, nó giữ một vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ quá trình phân phối, vì vậy có thể tách ra thành một chức năng
riêng biệt.
Chủ thể của quá trình tạo lập vốn là Nhà nước. Đối tượng của quá trình
này là các nguồn tài chính trong xã hội do Nhà nước tham gia điều tiết. Đặc
thù của chức năng tạo lập vốn của tài chính công là quá trình này gắn với
quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của
mình để hình thành các quỹ tiền tệ của mình thông qua việc thu các khoản có
tính bắt buộc từ các chủ thể kinh tế xã hội.
1.3.2. Chức năng phân phối lại và phân bổ
Chủ thể phân phối và phân bổ là Nhà nước với tư cách là người nắm
giữ quyền lực chính trị. Đối tượng phân phối và phân bổ là các nguồn tài
chính công tập trung trong ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác của
Nhà nước, cũng như thu nhập của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội mà
nhà nước tham gia điều tiết.
Thông qua chức năng phân phối, tài chính công thực hiện sự phân chia
nguồn lực tài chính công giữa các chủ thể thuộc Nhà nước, các chủ thể tham
gia vào các quan hệ kinh tế với Nhà nước trong việc thực hiện các chức năng
vốn có của Nhà nước. Chức năng phân phối của tài chính công nhằm mục tiêu
công bằng xã hội. Tài chính công, đặc biệt là ngân sách nhà nước, được sử
5
5
dụng làm công cụ để điều chỉnh thu nhập của các chủ thể trong xã hội thông
qua thuế và chi tiêu công.
Cùng với phân phối, tài chính công còn thực hiện chức năng phân bổ.
Thông qua chức năng này, các nguồn lực tài chính công được phân bổ một
cách có chủ đích theo ý chí của Nhà nước nhằm thực hiện sự can thiệp của

Nhà nước vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong điều kiện chuyển từ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước, chức năng phân bổ của tài chính công được vận dụng có sự lựa
chọn, cân nhắc, có trọng tâm trọng điểm, nhằm đạt hiệu quả phân bổ cao.
1.3.3. Chức năng giám đốc và điều chỉnh
Với tư cách là một công cụ quản lý trong tay Nhà nước, Nhà nước vận
dụng chức năng giám đốc và điều chỉnh của tài chính công để kiểm tra bằng
đồng tiền đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính công và điều
chỉnh quá trình đó theo các mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Chủ thể của quá
trình giám đốc và điều chỉnh là Nhà nước. Đối tượng của sự giám đốc và điều
chỉnh là quá trình vận động của các nguồn tài chính công trong sự hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Giám đốc bằng đồng tiền là vai trò khách quan của tài chính nói chung.
Tài chính công thực hiện sự giám đốc bằng đồng tiền đối với mọi sự vận động
của các nguồn tài chính công, thông qua đó biểu hiện các hoạt động của các
chủ thể thuộc nhà nước. Còn chức năng điều chỉnh của tài chính công được
thực hiện trên cơ sở các kết quả của giám đốc, là sự tác động theo ý chí của
Nhà nước nhằm điều chỉnh các bất hợp lý trong quá trình hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ thuộc tài chính công.
1.4. Vai trò của tài chính công
- Huy động nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước
6
6
Bất cứ một nhà nước nào cũng cần có các nguồn lực tài chính để duy trì
bộ máy nhà nước và phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các
nguồn tài chính này có thể được huy động từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần
kinh tế trong xã hội dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau.
Một trong những hình thức huy động nguồn vốn chủ yếu của nhà nước
hiện nay là thuế. Các khoản thuế này là một phần thu nhập của các cá nhân, tổ

chức có nghĩa vụ đóng góp theo luật định, được tập trung vào ngân sách nhà
nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo các mục tiêu đã định
đối với từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển. Đây là vai trò mang tính lịch
sử của tài chính công gắn liền với sự ra đời của Nhà nước. Tài chính công
phải thực hiện vai trò này trong bất kỳ chế độ xã hội và cơ chế kinh tế nào.
- Đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững
Nhà nước có vai trò đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền
vững và tạo động lực cho sự phát triển. Chức năng phân bổ và ổn định của tài
chính công được sử dụng một cách hữu hiệu để thực hiện vai trò này trong
quá trình quản lý vĩ mô về kinh tế xã hội của Nhà nước.
Thông qua chức năng phân bổ, các nguồn lực của Nhà nước được phân
bổ một cách cân đối, hợp lý, hiệu quả đối với mọi lĩnh vực, mọi thành phần
trong xã hội nhằm thực hiện sự bình đẳng và tập trung vào những ngành mũi
nhọn, những khu vực trọng điểm để tạo cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó chức năng giám đốc và điều chỉnh đòi hỏi Nhà nước kiểm
tra bằng đồng tiền đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính công,
trên cơ sở đó điều chỉnh quá trình này theo các mục tiêu mà Nhà nước đề ra
và giải quyết những biến động bất thường xảy ra để đảm bảo sự phát triển ổn
định và bền vững của nền kinh tế.
- Đảm bảo công bằng xã hội
Công bằng luôn là một trong những tiêu chí hướng tới của một xã hội
văn minh. Tài chính công có khả năng thực hiện vai trò này để đảm bảo sự
7
7
công bằng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Việc đảm bảo công bằng
được thực hiện bằng chức năng phân phối của tài chính công thông qua hai
công cụ là thuế và chi tiêu công.
Công cụ thuế được sử dụng để phân phối lại thu nhập, rút ngắn khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội bằng cách
đánh thuế cao đối với những người có thu nhập cao hay những mặt hàng xa xỉ

mà chỉ những người có thu nhập cao mới có khả năng sử dụng để điều tiết bớt
thu nhập của họ. Bên cạnh đó, giảm thuế cho những người có thu nhập thấp
hay những mặt hàng thiết yếu cung cấp chủ yếu cho những người có thu nhập
thấp là một giải pháp hữu hiệu nhằm hỗ trợ thu nhập cho họ.
Từ các quỹ tiền tệ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước như Ngân sách
Nhà nước, các quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ quốc gia giải quyết việc làm chính
sách chi tiêu công được sử dụng để hỗ trợ cho những người có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn, những người không có việc làm, hay chi phát triển các dịch vụ
công phục vụ lợi ích cộng đồng không vì mục tiêu lợi nhuận để đảm bảo sự
công bằng trong hưởng thụ cho mọi người dân.
Có thể nói, thông qua việc thực hiện các chức năng của mình, tài chính
công có vai trò quan trọng và chủ đạo giúp nhà nước duy trì sự hoạt động và
thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
2. Quản lý tài chính công
2.1. Khái niệm, mục tiêu và nguyên tắc quản lý tài chính công
2.1.1. Khái niệm
Nhìn chung, có thể thấy quản lý tài chính công là sự tác động của hệ
thống các cơ quan của nhà nước đến những mặt hoạt động của tài chính công
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Thực chất của
Quản lý tài chính công là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và
kiểm soát hoạt động thu, chi của Nhà nước nhằm phục vụ thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước hiệu quả nhất.
8
8
Từ khái niệm trên, có thể nêu đặc điểm của quản lý tài chính công là:
- Quản lý tài chính công là một loại quản lý hành chính nhà nước.
- Quản lý tài chính công được thực hiện bởi một hệ thống những cơ
quan của nhà nước và tuân thủ những quy phạm pháp luật của nhà nước.
- Quản lý tài chính công là một phương thức quan trọng trong việc điều
tiết các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà

nước đối với xã hội.
2.1.2. Mục tiêu và yêu cầu của quản lý tài chính công
Mục tiêu tổng quát của quản lý tài chính công là tạo ra sự cân đối và
hiệu quả của tài chính công, tạo môi trường tài chính công thuận lợi cho sự ổn
định và phát triển kinh tế, xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước.
* Các mục tiêu cụ thể của quản lý tài chính công là:
- Thứ nhất, bảo đảm kỷ luật tài khoá tổng thể. Chính phủ quản lý các nhu
cầu có tính cạnh tranh nhau trong giới hạn nguồn lực tài chính công cho phép,
từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
- Thứ hai, bảo đảm hiệu quả phân bổ và huy động nguồn lực. Chính phủ
phải xác định được thứ tự ưu tiên trong phân bổ nguồn lực; phù hợp với các
chiến lược và kế hoạch quốc gia, các bộ ngành và các tỉnh (chiến lược phân
bổ hay sự lựa chọn mang tính chiến lược).
- Thứ ba, đảm bảo hiệu quả hoạt động, tức là làm thế nào để các cơ quan
cung ứng dịch vụ công có thể cung ứng được các hàng hoá và dịch vụ có hiệu
quả mong muốn trong phạm vi ngân sách cho trước hoặc với chi phí thấp
nhất.
* Các yêu cầu đối với quản lý tài chính công là:
- Tập trung được nguồn lực tài chính công để giải quyết các nhiệm vụ
quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước.
9
9
- Sử dụng tập trung nguồn lực tài chính công cho các ưu tiên chiến lược
với chính sách nhất quán và thống nhất.
- Đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập của nền kinh tế, tạo
nên sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công ở tầm vĩ mô và
hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công ở những đơn vị trực tiếp sử dụng.
- Nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị

trực tiếp sử dụng nguồn lực tài chính công.
- Hướng tới mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước, đó là nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng
những dịch vụ công được cung cấp.
2.1.3 - Nguyên tắc của quản lý tài chính công
Hoạt động quản lý tài chính công được thực hiện theo những nguyên
tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ là nguyên tắc hàng
đầu trong quản lý tài chính công. Các khoản thu, chi trong quản lý tài chính
công phải được bàn bạc thực sự công khai nhằm đáp ứng các mục tiêu vì lợi
ích chung của cộng đồng. Điều này được thể hiện ở quản lý ngân sách nhà
nước, quản lý các quỹ tài chính nhà nước và quản lý tài chính ở các cơ quan
hành chính và đơn vị sự nghiệp. Tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn
lực của xã hội, của nền kinh tế được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý.
- Nguyên tắc hiệu quả: Nguyên tắc hiệu quả là nguyên tắc quan trọng
trong quản lý tài chính công. Hiệu quả trong quản lý tài chính công được thể
hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Khi thực hiện các nội
dung chi tiêu công, Nhà nước luôn hướng tới việc thực hiện các nhiệm vụ và
mục tiêu trên cơ sở lợi ích của toàn thể cộng đồng. Ngoài ra, hiệu quả về kinh
tế cũng là thước đo quan trọng để Nhà nước cân nhắc khi ban hành các chính
sách và các quyết định liên quan tới chi tiêu công. Hiệu quả về xã hội là tiêu
10
10
thức rất cần quan tâm trong quản lý tài chính công. Mặc dù rất khó định
lượng, song những lợi ích của xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng
trong quá trình quản lý tài chính công. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là
hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một
quyết định, hay một chính sách chi tiêu ngân sách.
- Nguyên tắc thống nhất: Thống nhất quản lý theo những văn bản pháp
luật là nguyên tắc không thể thiếu trong quản lý tài chính công. Thống nhất

quản lý chính là việc tuân thủ theo một quy định chung từ việc hình thành, sử
dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá
trình triển khai thực hiện. Thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất sẽ đảm
bảo tính bình đẳng, công bằng, đảm bảo hiệu quả, hạn chế những tiêu cực và
những rủi ro khi quyết định các khoản chi tiêu công.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: Công khai minh bạch trong động
viên, phân phối các nguồn lực tài chính công là nguyên tắc quan trọng nhằm
đảm bảo cho việc quản lý tài chính công được thực hiện thống nhất và hiệu
quả. Thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng
đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi trong quản lý tài
chính công, hạn chế những thất thoát và đảm bảo hiệu quả của những khoản
thu, chi tiêu công.
2.2. Phạm vi quản lý tài chính công và mối liên hệ giữa các bộ phận
2.2.1. Phạm vi quản lý tài chính công
Xuất phát từ khái niệm tài chính công chúng ta thấy rằng phạm vi quản
lý tài chính công bao gồm những bộ phận sau: ngân sách nhà nước, các quỹ
tài chính công ngoài ngân sách nhà nước, tài chính trong các cơ quan hành
chính, các đơn vị sự nghiệp và quản lý công sản.
- Quản lý ngân sách nhà nước: Theo Luật Ngân sách nhà nước năm
2002 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
11
11
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ngân sách nhà nước là công cụ quan trọng nhất của Nhà nước trong
việc thực hiện các chính sách của mình. Ngân sách nhà nước phản ảnh các
quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không
hoàn trả trực tiếp. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế, hoạt động thu, chi của
ngân sách nhà nước thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại một bộ phận

giá trị tổng sản phẩm xã hội.
Quản lý ngân sách nhà nước là quản lý sự vận động của các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng qũy tiền tệ tập trung của nhà
nước nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước.
- Quản lý các quỹ tài chính khác của nhà nước: Ở Việt Nam đã hình
thành một số quỹ tài chính nhà nước như: Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ Bảo
hiểm xã hội, Quỹ hỗ trợ tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ khuyến khích
hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Các quỹ tài
chính nhà nước được quản lý thông qua các quy trình riêng biệt (khác với quy
trình quản lý ngân sách nhà nước), qua đó tạo ra được sự linh hoạt trong quyết
định chi tiêu của Nhà nước, tránh được những nguyên tắc quản lý cứng nhắc
và khắt khe của quản lý ngân sách nhà nước.
Nguồn hình thành chủ yếu của các quỹ tài chính nhà nước thường là từ
Ngân sách nhà nước hoặc là sự kết hợp nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước và
huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng quỹ tài chính nhà
nước này không hạch toán theo kiểu quản lý ngân sách nhà nước mà được
quản lý theo các quy định riêng biệt.
Tuy nhiên, nếu có quá nhiều quỹ ngoài ngân sách nhà nước thì có thể
làm phân tán nguồn lực trong quản lý tài chính công. Thông thường thì các
hoạt động thu, chi được thực hiện từ các quỹ này không được phân loại theo
12
12
các tiêu chí như các khoản thu - chi ngân sách, từ đó làm ảnh hưởng đến tính
đầy đủ, chính xác của việc phân tích và đánh giá hiệu quả của các chương
trình chi tiêu của Nhà nước.
- Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước: Cơ quan
hành chính là hệ thống cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý nhà
nước và cung cấp các dịch vụ hành chính cho các tổ chức và công dân.
Ở những cấp độ quản lý khác nhau, các cơ quan hành chính nhà nước
đều tổ chức những bộ phận tài chính tương ứng để phục vụ cho việc thực hiện

các nhiệm vụ của cơ quan mình. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt
động chủ yếu dựa vào cấp phát từ ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không
bồi hoàn trực tiếp để thực hiện những nhiệm vụ mà nhà nước giao.
Nguồn tài chính của các đơn vị hành chính nhà nước được sử dụng tuân
thủ theo các quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho
từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
- Quản lý tài chính trong các đơn vị cung ứng dịch vụ công của Nhà
nước: Một bộ phận lớn các dịch vụ công được các đơn vị trực thuộc nhà nước
cung ứng. Đơn vị cung ứng dịch vụ công thuộc nhà nước là những đơn vị
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ (ví dụ như các đơn vị sự nghiệp
thuộc ngành giáo dục, y tế, khoa học, thể dục thể thao,) hoặc các đơn vị thực
hiện các hoạt động công ích (ví dụ cung ứng điện, nước, xây dựng đường xá)
không vì mục đích kinh doanh lợi nhuận
Các đơn vị này cung cấp những dịch vụ công nhằm thỏa mãn nhu cầu
thiết yếu của người dân và của xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này
hoạt động là từ ngân sách nhà nước, một số những khoản thu khác có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, các khoản
thu từ quyên góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách nhà nước.
Nguồn tài chính của các đơn vị cung ứng dịch vụ công được sử dụng,
chi tiêu theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và những quy định khác
13
13
nhằm tạo thêm nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị; thúc đẩy thực
hành tiết kiệm, công khai tài chính, thực hiện phân phối công bằng trong nội
bộ đơn vị; thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt
động cung ứng dịch vụ công và tạo quyền chủ động cho đơn vị cung ứng dịch
vụ công.
- Quản lý tài sản công: Căn cứ vào pháp luật hiện hành, tài sản công
được hiểu là những tài sản được hình thành từ nguồn ngân sách nhà nước, tài
sản được xác lập quyền sở hữu Nhà nước theo quy định của pháp luật, đất đai,

rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng
biển, thềm lục địa và vùng trời.
Tài sản công là nguồn lực tài chính công của đất nước, là nguồn lực tài
chính tiềm năng cho đầu tư phát triển, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, song Nhà nước không
phải là người trực tiếp sử dụng toàn bộ tài sản công. Tài sản công được Nhà
nước giao cho các cơ quan trực thuộc bộ máy Nhà nước, các tổ chức kinh tế,
xã hội trực tiếp quản lý, sử dụng. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản
công của mình, Nhà nước phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
tài sản công, có trách nhiệm bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công một cách
tiết kiệm và có hiệu quả phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Khi xem xét tài chính công là các hoạt động thu và chi bằng tiền của
Nhà nước, chúng ta có thể thấy một phần tài sản công được hình thành từ hoạt
động chi tiêu từ các quỹ tiền tệ của Nhà nước; đồng thời tài sản công cũng tạo
ra một nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Xét dưới góc độ đó,
một bộ phận tài sản công chính là biểu hiện của thu, chi bằng tiền của Nhà
nước. Giá trị các tài sản công chiếm một phần rất lớn trong chi ngân sách nhà
nước hàng năm. Vì vậy, việc quản lý các tài sản công là một nội dung liên
quan mật thiết đến quản lý tài chính công.
2.2.2. Mối quan hệ giữa các bộ phận trong quản lý tài chính công
14
14
Trong quản lý tài chính công, Ngân sách nhà nước, các quỹ tiền tệ của
nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính, các đơn vị cung ứng dịch vụ công
và tài sản công luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó Ngân sách nhà
nước giữ vai trò quan trọng và chi phối các bộ phận khác.
Việc quản lý các quỹ tài chính nhà nước có đặc điểm riêng. Các quỹ
này thường có tính linh hoạt trong sử dụng, vì vậy các quỹ này giữ vai trò bổ
sung cho những hạn chế của Ngân sách nhà nước.
Một bộ phận rất lớn của Ngân sách nhà nước là chi cho các cơ quan

hành chính và đơn vị sự nghiệp. Do đó, hiệu quả của quản lý tài chính trong
các cơ quan hành chính và đơn vị cung ứng dịch vụ công có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả của chi Ngân sách nhà nước. Quy mô và hiệu quả của Ngân
sách nhà nước cũng có tác động đáng kể đến quy mô và hiệu quả tài chính của
các cơ quan hành chính và đơn vị cung ứng dịch vụ công.
Việc thu và chi từ các quỹ tiền tệ của nhà nước, đặc biệt là Ngân sách
nhà nước gắn với việc hình thành và sử dụng tài sản công. Việc thu thuế, phí,
lệ phí từ sử dụng các tài sản công đóng góp một phần không nhỏ cho Ngân
sách nhà nước. Việc mua sắm các tài sản công theo đúng các quy định về tài
chính cũng chính là góp phần quản lý tốt ngân sách nhà nước ở trung ương, ở
các địa phương cũng như trong từng cơ quan, đơn vị trực thuộc nhà nước.
2.3. Cải cách Tài chính công trong công cuộc cải cách hành chính.
Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, thực tế đã cho chúng ta
thấy chỉ có thể thực hiện cải cách hành chính thành công khi tiến hành đồng
thời với việc cải cách tài chính công. Thông qua các hoạt động thu, chi bằng
tiền của Nhà nước, tài chính công phản ánh các mối quan hệ giữa Nhà nước
với các chủ thể kinh tế, xã hội khác trong quá trình hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng vốn có của mình.
Hiệu quả của quản lý tài chính công vừa phản ánh năng lực của bộ máy nhà
nước, vừa có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động của các cơ quan
15
15
trong bộ máy này. Từ nhận thức đó, cải cách tài chính công trở thành nội
dung quan trọng của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta.
Nội dung của cải cách tài chính công bao gồm:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo
đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của
ngân sách trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động và trách
nhiệm của địa phương, các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
Thứ hai, bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội

đồng nhân dân các cấp, chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc
ở địa phương; quyền quyết định của các Bộ, Sở, Ban, ngành về phân bổ ngân
sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân
sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách .
Thứ ba, trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công, thực hiện đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách
cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế,
thay thế bằng cách tính toán kinh phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt
động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ
quan hành chính, đổi mới hệ thống định mức chi tiêu cho đơn giản hơn, tăng
quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.
Thứ tư, đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
Xây dựng quan niệm đúng về dịch vụ công, ban hành các cơ chế, chính sách
thực hiện chế độ tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp trên cơ sở xác định
nhiệm vụ phải thực hiện, mức hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước và phần
còn lại do các đơn vị tự trang trải.
Thứ năm, thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài
chính mới như cho thuê đơn vị sự nghiệp công, thực hiện cơ chế khoán một
số loại dịch vụ công cộng; thực hiện cơ chế hợp đồng một số dịch vụ công
trong cơ quan hành chính.
16
16
Thứ sáu, đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính
đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ
ngân sách nhà nước.
Những nội dung cải cách tài chính công được trình bày ở trên có tác
động trực tiếp đến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, làm tăng tính
tự chủ của các đơn vị gắn với sự chủ động về tài chính; tạo ra cơ chế tài chính
khuyến khích các đơn vị chi tiêu có hiệu quả, hướng vào kết quả đầu ra và tiết
kiệm ngân sách, trên cơ sở đó tăng thu nhập cho người lao động. Đó chính là

những động lực thúc đẩy các cơ quan trong bộ máy nhà nước đổi mới về tổ
chức, phương thức hoạt động và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công
chức, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn, đáp
ứng các yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta.
17
17
Bài 2
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách nhà nớc
Ngân sách nhà nước ra đời và phát triển cùng với Nhà nước nhưng
quan niệm về NSNN còn nhiều điểm chưa được thực sự thống nhất, cả trong
và ngoài nước, chẳng hạn:
Từ điển Bỏch khoa toàn thư về kinh tế của Phỏp: "Ngõn sỏch là văn
kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn về các nghiệp
vụ tài chính (thu, chi) của mộ t tổ chức công (Nhà nước, chính quyền địa
phương và đơn vị công).
Đại từ điển kinh tế thị trường của Trung Quốc, định nghĩa "NSNN là
kế hoạch thu, chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình
tự pháp định".
Luật NSNN năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 1998 của Việt Nam, định
nghia "NSNN là toàn bộ cỏc khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước".Như vậy:
18
18
Dưới góc độ lý thuyết, NSNN thể hiện các quan hệ kinh tế giữa nhà
nước và các chủ thể khác trong xã hội, là sự vận động của các nguồn tài chính
gắn với quá trình tạo lập, sử dụng quĩ tiền tệ tập trung của nhà nước phát sinh
khi nhà nước tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia.
Dưới góc độ pháp lý, NSNN được luật hóa cả hình thức và nội dung,

trình tự và và biện pháp thu, chi; là sự cụ thể hóa quyền lực của nhà nước
trong lĩnh vực ngân sách.
Dưới góc độ chuyên môn nghiệp vụ, NSNN là toàn bộ các khoản thu,
chi của nhà nước được dự toán và thưc hiện trong một năm theo một qui trình
bao gồm các khâu lập dự toán( chuẩn bị, thảo luận, quyết định, phê chuẩn),
cháp hành và quyết toán NSNN.
Dưới góc độ quản lý vĩ mô, NSNN là một trong các công cụ mạnh để
nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tác động vào nền kinh tế.
2. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò của Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường về mặt chi
tiết có thể đề cập đến nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau,
song có thể khái quát trên các khía cạnh sau:
2.1. Vai trò của một ngân sách tiêu dùng: Đảm bảo duy trì sự tồn tại
và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
NSNN đảm bảo tài chính cho bộ máy của nhà nước bằng cách khai
thác, huy động các nguồn lực tài chính từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh
tế, dới các hình thức bắt buộc, tự nguyện. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là
nguồn thu từ thuế. Việc khai thác, tập trung các nguồn tài chính này phải tính
toán sao cho đảm bảo được sự cân đối giữa nhu cầu của nhà nước với doanh
nghiệp và dân cư, giữa tiêu dùng và tiết kiệm.
Từ các nguồn tài chính tập trung được, tiến hành phân phối các nguồn
tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo tỷ lệ hợp lý nhằm
vừa đảm bảo duy trì hoạt động và sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm
19
19
bảo thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế.
Kiểm tra giám sát việc phân phối và sử dụng các nguồn tài chính từ
NSNN đảm bảo việc phân phối và sử dụng được tiến hành hợp lý, tiết kiệm và
có hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu của QLNN và phát triển kinh tế xã hội

2.2. Vai trò của ngân sách phát triển: là công cụ thúc đẩy tăng
trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
- Thông qua NSNN, Nhà nước định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu
của nền kinh tế theo các định hướng đã đặt ra cả về cơ cấu vùng, cơ cấu
ngành.
- Thông qua chi NSNN, Nhà nước đầu tư cho kết cấu hạ tầng - lĩnh vực
mà tư nhân sẽ không muốn tham gia hoặc không thể tham gia; tạo điều kiện
thuận lợi cho sản xuất – kinh doanh phát triển, thúc đẩy tăng trởng kinh tế,
nâng cao đời sống dân cư.
- Bằng nguồn chi NSNN hàng năm, tạo lập các quĩ dự trữ về hàng hoá
và tài chính, trong trường hợp thị trường biến động, giá cả tăng quá cao hoặc
xuống quá thấp, nhờ vào lực lợng dự trữ hàng hoá và tiền, Nhà nước có thể
điều hoà cung cầu hàng hoá để bình ổn giá cả, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
và người sản xuất.
- Nhà nước cũng có thể chống lạm phát bằng việc cắt giảm chi NSNN,
tăng thuế tiêu dùng, khống chế cầu, giảm thuế đầu tư để khuyến khích đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cường cung. Sử dụng các công cụ vay nợ
như công trái, tín phiếu kho bạc… để hút bớt lượng tiền mặt trong lưu thông,
giảm sức ép về giá cả và bù đắp thâm hụt ngân sách.
2.3. NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng
xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
Nền kinh tế thị trường với sức mạnh thần kỳ, nhưng cũng luôn chứa
đựng những khuyết tật mà nó không thể tự sửa chữa, đặc biệt là về mặt xã hội
20
20
như: bất bình đẳng về thu nhập, sự chênh lệch về mức sống, tệ nạn xã hội;
NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng và giải quyết
các vấn đề xã hội. Nó được thể hiện thông qua các khoản thu - chi của NSNN,
điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những bất hợp lý
trong phân phối, đảm bảo công bằng và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội

- Trong việc thực hiện công bằng, Nhà nước cố gắng tác động theo hai
hướng: Giảm bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp để rút ngắn
khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
+ Giảm bớt thu nhập cao: đánh thuế(luỹ tiến) vào thu nhập cao, đánh
thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất cao vào những hàng hoá mà người có thu
nhập cao tiêu dùng và tiêu dùng phần lớn.
+ Nâng đỡ các thu nhập thấp : giảm thuế cho những hàng hoá thiết
yếu, thực hiện trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu như lương thực, điện, nước.
và trợ cấp xã hội cho những ngời có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn,
+ Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội: Thông qua NSNN tài trợ
cho các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, văn hoá, các chương trình việc
làm, chính sách dân số, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội.
3. Những nội dung thu, chi chủ yếu của NSNN
3.1. Thu ngân sách nhà nước
Là việc nhà nước dùng quyền lực của mình tập trung một phần nguồn
tài chính quốc gia để hình thành quĩ NSNN
Đặc điểm cơ cấu các khoản thu gắn với chức năng nhiệm vụ và quyền
lực chính trị của nhà nước- các khoản thu dựa trên quyên lực nhà nước. Sự
tồn tại, phát triển của nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản thu ngân sách
và ngược lại các khoản thu ngân sách là tiền đề vật chất tài chính để nhà nước
thực hiện nhiệm vụ của mình.
Các khoản thu ngân sách nhà nước bao gồm:
21
21
-Thu từ khai thác và bán các nguồn tài nguyên thiên nhiên
- Thu từ thuế và phần nộp ngân sách từ các khoản phí, lệ phí
- Từ kết quả hoạt động sản xuất kinh tế của Nhà nước: thu hồi vốn, thu hồi
tiền vay, thu nhập từ vốn góp)
- Thu từ mở rộng cung tiền.
- Vay nợ

- Các khoản thu từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân
- Các khoản thu khác
3.2. Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước là việc chi tiêu của nhà nước cho các mục tiêu
công theo những định hướng nhất định.
Là việc phân chia và sử dụng quĩ NSNN nhằm thực hiện các chức năng
của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Các khoản chi bao gồm:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư phát triển
- Chi trả nợ, cho vay
- Chi bổ sung quỹ dự trữ
- Chi khác
4. Tiêu chuẩn là một ngân sách “tốt” trong thực tế
Đảm bảo kỷ luật, hiệu quả và thoả mãn nhu cầu của cộng đồng;
Tầm nhìn phải dài hạn và chỉ ra được hiệu quả của các lựa chọn công;
Dự báo trước được các khoản thu và nhiệm vụ chi tiêu để xây dựng
chính xác kế hoạch thu, chi;
Đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và thể hiện các lợi ích khác nhau;
22
22
Ngân sách phải công khai minh bạch để ngăn chặn tình trạng trốn thuế
và lạm dụng chi tiêu công;
Ngân sách phải bền vững và cho phép dễ dàng nắm bắt mục tiêu và
thách thức cũng như điều chỉnh theo những thay đổi của môi trờng
5. Một số vấn đề trong quản lý ngân sách bền vững
5.1. Tăng cường qui trách nhiệm trong quản lý ngân sách
Qui trách nhiệm và quản lý ngân sách: điều này đòi hỏi các nhà quản lý
ngân sách nhà nước ở các cấp và nhân viên của họ có khả năng trả lời về số
tiền mà họ đã sử dụng ở đâu và như thế nào và kết quả đã thực hiện được nhờ
vào khoản tiền đó.

Trong quá trình xác định trách nhiệm, điều quan trọng là luôn phải có
sự hiện diện của kết quả: kết quả cần được dự kiến và phải có ý nghĩa và khả
thi và tổ chức thành hiện thực.
5.2. Công khai minh bạch trong quản lý ngân sách
Đây là một trong những nguyên tắc quản lý ngân sách, nhưng trên thực
tế, nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ và trọn vẹn, hoặc nếu có thực
hiện thì cung chỉ là hình thức. Để thực hiện được nguyên tắc công khai minh
bạch, các điều kiện thiết yếu cần có để đảm bảo thông tin cung cấp cho các
nhà quản lý, quốc hội và công chúng :
- Thông tin phải sẵn sàng, hữu ích và có thể hiểu được
- Vai trò và trách nhiệm cần được phân định rõ ràng
- Những ưu tiên trong các chính sách thuế và chi tiêu cần được chỉ rõ.
Tính công khai minh bạch của ngân sách không chỉ là vấn đề của các
nước đang phát triển mà còn của các nước phát triển. Có những mặt khuất của
ngân sách như sau:
- Ở nhiều nước, một tỷ lệ quan trọng trong ngân sách, trong các khoản
chi tiêu của chính phủ được quản lý bởi các thủ tục đặc biệt. Ví dụ: quĩ dành
23
23
cho tình trạng khẩn cấp; viện trợ hay vay từ bên ngoài; quĩ đặc biệt … các qui
này thường nằm ngoài tầm kiểm soát của nghị viện của Quốc hội
Một sự xem xét đầy đủ các khía cạnh vì sự công khai minh bạch hơn
- Điều quan trọng là mọi khoản chi công cộng phải được đưa vào ngân
sách: để đảm bảo các nguồn lực được phân bổ trong các chương trình ưu tiên;
đảm bảo sự kiểm soát của luật pháp và qui trách nhiệm một cách đúng đắn;
giảm thiểu nguy cơ tham nhũng và thất thoát
- Thu từ thuế cũng cần phải công khai: sự cho phép về pháp lý cần đ-
ược làm rõ; các hệ thống đánh thuế phải xây dựng dựa trên sự hợp tác với
người sử dụng; tổng chi phí cho dịch vụ đánh thuế cần được xác lâp, cơ quan
thuế hiệu quả, được kiểm soát.

- Các khoản chi “gián tiếp” cũng cần công khai minh bạch. Đó là các
bảo lãnh cho vay (thay thế trợ cấp trực tiếp cho các DN); Chi thuế ( là các
khoản khấu trừ thuế).
5.3. Tạo ra cho ngân sách tầm nhìn trung và dài hạn
Mở rộng phạm vi dự báo
- Tạo ra sự khác biệt giữa các dự kiến ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
- Cung cấp các thông tin về tác động lâu dài của các quyết định ngân sách
- Đánh giá các tác động của các quyết định ngân sách
Tầm nhìn nhiều năm
Tăng cường kỷ luật chi tiêu công thông qua: xác định mục tiêu tổng
thể; đánh giá chi phí của các hoạt động cam kết; làm rõ kết quả của các quyết
định hiện nay
Tăng cường yếu tố chiến lược của quản lý ngân sách thông qua:
- Phát hiện các khuynh hướng không thuận lợi và làm rõ chúng;
- Coi trọng tác động của yếu tố dân số tới sự vận động của tài chính công
24
24
NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG
NGÂN SÁCH TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
NGÂN SÁCH HUYỆN
VÀ CÁC CẤP TƯƠNG ĐƯƠNG
NGÂN SÁCH XÃ VÀ
CẤP TƯƠNG ĐƯƠNG
NGÂN SÁCH NHÀ NỚC
- Thể hiện công khai minh bạch
Chú ý các vấn đề mang tình phương pháp
- Tránh ảo tưởng đánh giá cao về tiềm năng tăng trưởng kinh tế
- Ảo tưởng về các dự báo trung và dài hạn tạo ra về sự cải thiện tình hình tài
chính trong khi về lâu dài tình trạng tài chính xấu đi
- Khuynh hướng đẩy các khoản chi ra ngoài phạm vi xem xét

6. Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước
6.1. Khái niệm
Phân cấp quản lý NSNN là xác định phạm vi trách nhiệm và quyền hạn
của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý và điều hành thực hiện
nhiệm vụ thu - chi của NSNN.
Theo luật NSNN 2002, điều 4: "NSNN bao gồm ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của các
đơn vị hành chính các cấp có HĐND và UBNN". Như vậy hệ thống ngân sách
nước ta bao gồm:
- Ngân sách trung ương
- Ngân sách tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương)
- Ngân sách huyện ( quận, thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh)
- Ngân sách xã ( phường)
25
25

×