BÀI THẢO LUẬN NHÓM 5
ĐỀ TÀI: CÁCH THỨC XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ DÂN SỰ QUỐC TẾ TRONG
CÁC HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TỦ PHÁP GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI
1.khái niệm thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế
Tố tụng dân sự là hoạt động của toà án một nước trong việc giải quyết các vụ việc phát sinh từ
các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền xét xử của toà án theo một thể
thức do luật định.
Do vậy, trong tố tụng dân sự quốc tế, thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế tức là thẩm quyền của toà
án tư pháp một nước nhất định đối với việc xét xử các vụ việc dân sự quốc tế cụ thể.
Trong thực tiễn tư pháp quốc tế, khi có một vụ án dân sự, kinh tế, hơn nhân gia đình, lao động
hoặc vụ việc khác có yếu tố nước ngồi thì đồng thời cũng làm phát sinh tình trạng có 2 hoặc
nhiều cơ quan tư pháp của các nước khác nhau có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Đây là tình
trạng xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế.
Xung đột thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế có thể giải quyết bằng cách xây dựng các quy phạm
pháp luật thống nhất xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế hoặc bằng cách vận dụng các
quy phạm xung đột về thẩm quyền được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trong nước hoặc
các điều ước quốc tế liên quan.
2.Cách thức xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa
Việt Nam và các nước.
Cùng với sự phát triển và xu hướng hội nhập, tồn cầu hố trên thế giới để giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong các lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình Việt Nam đã kí
các hiệp định tương trợ tư pháp xác định thẩm quyền xét xử của toà án nhằm đảm bảo lợi ích của
các bên đương sự đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác của các quốc gia với nhau.
Tính đến thời điểm hiện nay, nước ta đã kí kết 15 hiệp định tương trợ tư pháp, và đang xúc tiến kí
hiệp định tương trợ tư pháp với Cămpuchia, đàm phán xong việc ký hiệp định tương trợ tư pháp
với Angiêri, triển khai rà soát sửa đổi hiệp định tương trợ tư pháp với Cộng hoà Séc.
STT
TÊN NƯỚC
NGÀY KÝ
1
Ba Lan
22/3/1993
2
Bê-la-rút
14/9/2000
3
Bun-ga-ri
03/10/1986
4
CHDCND Triều Tiên
04/5/2002
5
Cu Ba
30/11/1984
6
Hung-ga-ri
18/01/1985
7
CHDCND Lào
06/7/1998
8
Liên Xô (cũ)
10/12/1981
9
Mông Cổ
17/4/2000
10
Nga
25/8/1998
11
CH Pháp
24/2/1999
12
Tiệp Khắc
12/10/1982
13
Trung Quốc
19/10/1998
14
U-crai-na
06/4/2000
15
Hàn Quốc
15/9/2003
Các hiệp định đó thừa nhận và điều chỉnh sự hợp tác giữa các cơ quan tư pháp của hai bên về các
vấn đề: xác định thẩm quyền của các Toà án, áp dụng pháp luật, đảm bảo các quyền tố tụng của
cá nhân và pháp nhân nước ngoài, thực hiện các uỷ thác tư pháp, cơng nhận và thi hành các quyết
định của Tồ án hoặc Trọng tài nước ngoài về các vấn đề dân sự, chuyển giao tài liệu, dẫn độ tội
phạm và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực hình sự. Trong phần trình bày nhóm chỉ nghiên cứu về
cách thức xác định thẩm quyền xét xử được quy định trong một số hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam đã ký kết.
Cách thức xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt
Nam với các nước:
1.
Trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào.
Thứ nhất: Đối với các tranh chấp liên quan đến việc xác định năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự, tranh chấp liên quan đến việc xác định cơng dân mất tích hoặc đã chết.
Về vấn đề liên quan tới năng lực hành vi dân sự tại điều 17 khoản 1 Hiệp định tương trợ tư
pháp đã quy định như sau:
“1. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự sẽ tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà cá
nhân đó là cơng dân”.
“1. Việc tun bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
tuân theo pháp luật và phụ thuộc vào thẩm quyền của Cơ quan tư pháp của Nước ký kết mà cá
nhân trên là công dân”.
Như vậy trong hiệp định này việc xác định thẩm quyền khi xác định các vấn đề về năng lực
hành vi dân sự thì quy tắc luật nhân thân mà cụ thể là luật quốc tịch được ưu tiên áp dụng.Quy
tắc này cũng được áp dụng cho cả trường hợp hủy bỏ việc tước, hạn chế năng lực hành vi, tuyên
bố một người mất năng lực hành vi dân sự , việc xác định cơng dân mất tích hay đã chết được
quy định tại điều 18 ,19 và 20 của Hiệp định:
Điều 18 khoản 1:
“1. Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
tuân theo pháp luật và phụ thuộc vào thẩm quyền của Cơ quan tư pháp của Nước ký kết mà cá
nhân trên là công dân”.
Điều 19 khoản 1:
“Các quy định tại Điều 18 Hiệp định này cũng được áp dụng cho trường hợp huỷ bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi
dân sự”.
Điều 20 khoản 1:
“1. Việc tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết thuộc thẩm quyền của cơ quan tư pháp của
Nước ký kết mà người đó là cơng dân khi người đó cịn sống”.
Về quy định này ta cịn có thể thấy xuất hiện trong một số hiệp định tương trợ tư pháp như: Hiệp
định tương trợ tư pháp với Tiệp Khắc, với Cu Ba, với Ba Lan…
Thứ hai: Đối với quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng và ly hôn giữa vợ
chồng với nhau.
Quy tắc nơi thường trú chung (hoặc thường trú cuối cùng) của vợ chồng được kết hợp với quy
tắc luật quốc tịch của đương sự để giải quyết xung đột về thẩm quyền dân sự quốc tế. Điều này
thể hiện ở các quy định sau:
Điều 26
“1. Quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi vợ chồng cùng cư
trú
2. Nếu hai vợ chồng cùng một quốc tịch nhưng cư trú mỗi người ở một nước ký kết thì quan hệ
pháp lý giữa họ tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà họ là công dân.
3. Nếu hai vợ chồng mang quốc tịch khác nhau và mỗi người cư trú ở một Nước ký kết thì quan hệ
pháp lý giữa họ tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi cư trú chung cuối cùng của vợ chồng đó.
4. Nếu vợ chồng theo quy định tại khoản 3 của Điều này chưa bao giờ có nơi cư trú chung thì quan
hệ pháp lý giữa họ tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi có cơ quan tư pháp nhận được đơn
kiện.
5. Cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết vấn đề quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng là cơ quan
tư pháp của Nước ký kết quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này. Đối với trường hợp
quy định tại khoản 4 của Điều này, thì Cơ quan tư pháp của các Nước ký kết đều có thẩm quyền
giải quyết”.
Điều 27: Ly hơn
“1. Nếu vợ chồng có cùng quốc tịch thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của Nước ký kết
mà vợ chồng là cơng dân
2. Nếu vợ chồng có quốc tịch khác nhau nhưng cùng cư trú ở một Nước ký kết, thì việc ly hơn được
giải quyết theo pháp luật của Nước ký kết nơi vợ chồng đó cùng cư trú. Nếu trong thời gian đưa
đơn xin li hôn, vợ chồng không cùng cư trú ở một Nước ký kết, thì Cơ quan tư pháp Nước ký kết
nhận được đơn xin li hôn sẽ tiến hành xét xử theo pháp luật của nước mình.
3. Đối với trường hợp ly hôn quy định tại khoản 1 Điều này, Cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải
quyết là Cơ quan tư pháp của Nước ký kết mà vợ chồng là công dân.
4. Đối với trường hợp ly hôn được quy định tại khoản 2 của Điều này, Cơ quan tư pháp có thẩm
quyền giải quyết là Cơ quan tư pháp của Nước ký kết, nơi vợ chồng cùng cư trú. Nếu vợ chồng cư
trú ở các Nước ký kết khác nhau, thì Cơ quan tư pháp của các Nước ký kết đều có thẩm quyền giải
quyết.”
Quy tắc này chúng ta cũng có thể thấy xuất hiện ở một số hiệp định như Hiệp định tương trợ tư
pháp với Ba Lan, với Bungari, với Hunggari.
Thứ ba: Đối với tranh chấp liên quan tới hệ quả pháp lý giữa cha mẹ và con.
Hiệp định quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến quan hệ pháp ý giữa cha mẹ
và con thuộc cơ quan tư pháp của nước ký kết mà người con cư trú.
Điều 20 Hiệp định quy định:
“1. Việc xác định cha mẹ cho con và truy nhận con ngoài giá thú tuân theo pháp luật của Nước ký
kết nơi người con cư trú vào thời điểm có đơn yêu cầu.
2. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi cư trú chung của
người con và cha mẹ.
3. Nếu cả hai cha mẹ hoặc cha hay mẹ cư trú ở một Nước ký kết này, còn người con cư trú ở Nước
ký kết kia, thì quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của Nước ký kết nơi người
con cư trú.
4. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề được quy định tại khoản 1, khoản2 và khoản 3 của
Điều này là cơ quan của Nước ký kết nơi người con cư trú”.
Thứ tư: Đối với tranh chấp thuộc vấn đề nuôi con nuôi.
Điều 31 khoản 1 Hiệp định đã nêu:
“1. Công dân của Nước ký kết này có thể nhận trẻ em là công dân của Nước ký kết kia làm con
nuôi. Việc nhận con nuôi phải tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà trẻ em đó là cơng dân”.
3. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, việc thay đổi, chấm dứt nuôi con nuôi phải
tuân theo pháp luật của nước ký kết mà cha mẹ nuôi là công dân.
Trong trường hợp cha và mẹ nuôi là cơng dân của hai nước khác nhau thì phải tn theo pháp luật
của nước ký kết nơi người con nuôi cư trú.
Như vậy hiệp định này áp dụng quy tắc luật quốc tịch của người nhận con nuôi, trong trường
hợp cha mẹ nuôi là công dân của 2 nước khác nhau thì áp dụng nguyên tắc luật nơi con nuôi cư
trú.
Thứ năm: Đối với các tranh chấp liên quan đến việc giám hộ.
Điều 32
“1. Việc giám hộ trẻ em và người mất năng lực hành vi dân sự thuộc thẩm quyền của cơ quan có
thẩm quyền của Nước ký kết mà người được giám hộ là công dân và tuân theo pháp luật của Nước
ký kết nói trên, nếu Hiệp định này khơng có quy định khác”.
Hiệp định đã áp dụng quy tắc luật quốc tịch của người giám hộ để xác định thẩm quyền trong
tố tụng dân sự quốc tế. Nguyên tắc này còn được thể hiện trong các hiệp định với Liên Xô(cũ),
Tiệp Khắc…
Thứ sáu: Đối với các tranh chấp liên quan tới bồi thướng thiệt hại.
Điều 23
“1. Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại và
thuộc thẩm quyền của cơ quan tư pháp của Nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại
đó.
2. Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại cùng có quốc tịch của Nước ký kết này nhưng cư
trú trên lãnh thổ của Nước ký kết kia, thì vận dụng pháp luật của Nước ký kết nơi họ cư trú.
3. Cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết vụ án đã được khởi kiện để đòi bồi thường thiệt hại
là cơ quan tư pháp của Nước ký kết nơi xảy ra hành vi hoặc sự cố gây thiệt hại, nơi phát sinh hậu
quả thực tế hoặc nơi bị đơn cư trú. Ngoài ra, Cơ quan tư pháp của Nước ký kết nơi nguyên cư trú
cũng có thẩm quyền giải quyết, nếu bị đơn có tài sản trên lãnh thổ của nước ký kết đó”.
Qua quy định ở trên ta có thể thấy quy tắc nơi xảy ra hành vi thiệt hại được ưu tiên áp dụng.
Ngoài ra, Cơ quan tư pháp của Nước ký kết nơi nguyên cư trú cũng có thẩm quyền giải quyết,
nếu bị đơn có tài sản trên lãnh thổ của nước ký kết đó.
Thứ bảy: Đối với các tranh chấp về thừa kế
Điều 36 Hiệp định quy định:
“1. Việc thừa kế động sản được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết mà người để lại di sản
là công dân khi qua đời.
2. Việc thừa kế bất động sản được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết nơi có di sản là bất
động sản”.
Quy tắc quốc tịch của người để lại tài sản được áp dụng kết hợp với quy tắc nơi có tài sản thừa
kế để xác định thẩm quyền.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng tùy theo loại tranh chấp mà việc xác định thẩm quyền
theo nguyên tắc luật quốc tịch, luật nơi cư trú, hay luật nơi xảy ra hành vi được áp dụng.
2. Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với CHDCND TriêuTiên
ngày 04/05/2002 đã xác định thẩm quyền xét xử dân sự:
Thứ nhất, trương hợp tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc bị mất năng lực
hành vi:
Theo điều 19 của hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) thì nếu hiệp định này khơng có
quy đinh khác thì việc tun bố một người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc bị mất năng lực
hành vi thuộc thẩm quyền của tòa án nơi kí kết là cơng dân, tịa án áp dụng luật của nước
mình
Thứ hai, trường hợp cơng nhận một người mất tích, chết và xác nhận sự kiện chết:
Theo điều 20 của HĐTTTP thì việc cơng nhận một người mất tích, chết và xác nhận sự
kiện chết thuộc thẩm quyền giải quyết và theo pháp luật của bên kí kết mà người đó là cơng
dân khi cịn sống. Cơ quan tư pháp của các bên kí kết có thẩm quyền công nhận sự chết hoặc
mất tích và xác nhận sự kiện chết của cơng dân của bên kí kết kia đang thường trú hoặc tạm
trú trên lãnh thổ của nước mình.
Thứ ba, trường hợp li hôn và hủy kết hôn trái pháp luật, quan hệ nhân thân và tài sản vợ
chồng:
theo K1 Đ22 HĐTTTP thì việc li hơn, hủy kết hơn trái pháp luật, quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản của vợ chồng phải tuân theo phá luật và thuộc thẩm quyền của tịa án bên kí
kết mà cặp vợ chồng đều là công dân. Trong trường hợp 2 vợ chồng không cùng quốc tịch,
các vụ việc trên được giải quyết theo pháp luật và thuộc thẩm quyền của tòa án của bên kí kết
nơi họ thường trú cuối cùng. Nếu vợ chồng khơng có nơi thường trú chung thì tịa án của bên
kí kết nơi nhận được đơn yêu cầu đầy tiên giải quyết theo pháp luật nước mình.
Thứ tư, trường hợp xác nhận cha mẹ, con và các tranh chấp liên quan:
Theo điều 23 HĐTTTP thì vấn đề xác nhận cha mẹ, con và các tranh chấp liên quan cũng
như quan hệ pháp lí giữa cha mẹ và con thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án và tuân theo
pháp luật của bên kí kết mà người con là cơng dân.
Thứ năm, trường hợp xử lí di sản:
Theo Đ25 HĐTTTP thì trong trường hợp cơng dân của bên kí kết mà chết trên lãnh thổ
của bên kí kết kia cơ quan có thẩm quyền của bên kí kết kia phải thông báo ngay cho cơ quan
đại diện ngoại giao, co quan lãnh sự của bên kí kết này, đồng thời chuyển giao di sản của
người chết và các giấy tờ kèm theo. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của bên kí
kết mà người chết là cơng dân tại nơi có di sản phải áp dụng các biện pháp bảo vệ và quản lí
di sản của người chết và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến di sản người
chết mà không cần bất cứ thư ủy quyền nào của người đại diện
Thứ sáu, trường hợp thừa kế:
Theo khoản 3 điều 26 HĐTTTP thì quan hệ pháp lí về thưa kế bất động sản được pháp luật
của bên kí kết nơi có BĐS và việ thừa kế được giải quyết theo pháp luật nước này.
Thứ bảy, trường hợp kí kết hợp đồng:
Theo K3Đ28 HĐTTTP thì việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án của bên kí kết nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở. Trường hợp đối
tượng của tranh chấp hoặc tài sản của bị đơn nằm trên lãnh thổ nơi nguyên đơn cư trú hoặc có
trụ sở thì tịa án của bên kí kết đó sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Thứ tám, trường hợp tranh chấp về hợp đồng lao động:
Theo Đ29 HĐTTTP thì các bên tham gia hợp đồng lao động có thể lựa chọn pháp luật áp
dụng đối với các quan hệ lao động giữa họ với nhau. Nếu các bên không lựa chọ được pháp
luật áp dụng thì pháp luật của bên kí kết noie thực hiện công việc sẽ được áp dụng để giải
quyết vấn đề hiệu lực, thay đổi, chấm dưt hợp đồng lao động và cácranh chấp phát sinh từ
hợp đồng lap động đó. Tịa án của bên kí kết nơi cơng việc đã và đang hoặc cần được thực
hiện có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp đối tượng của tranh chấp hoặc tài sản của bị đơn
nằm trên lãnh thổ nơi nguyên đơn cư trú hoặc có trụ sở, tịa án của bên kí kết sẽ có thẩm
quyền giải quyết đối với hợp đồng. Thẩm quyền tịa án có thể thay đổi thơng qua thỏa thuận
bằng văn bản của các bên giao kết hợp đồng lao động.
Như vậy việc xác định thẩm quyền xét xử dân sự trong HĐTTTP giữa Việt Nam với
Triều Tiên chủ yếu là xác định theo dấu hiệu quốc tịch và trong một số trường hợp áp dụng
luật nơi cư trú để cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh.
3. HIỆP ĐỊNH TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ CÁC VẤN ĐỀ DÂN SỰ, GIA ĐÌNH VÀ
HÌNH SỰ GIỮA CHXHCN VIỆT NAM VÀ
MÔNG CỔ
Trường hợp: tuyên bố người mất tích hoặc chết và xác nhận sự kiện chết.(điều 23)
1. Việc tuyên bố một người bị mất tích hoặc chết cũng như việc xác nhận sự kiện chết
thuộc thẩm quyền của cơ quan tư pháp của Bên ký kết mà theo những tin tức cuối
cùng người đó là cơng dân khi còn sống.
2.
Trường hợp: Quan hệ pháp lý về thân nhân và tài sản giữa vợ chồng.( điều 25)
1. Quan hệ pháp lý về thân nhân và tài sản giữa vợ chồng được xác định theo pháp luật
của Bên ký kết nơi họ cùng thường trú.
2. Nếu vợ chồng có chung quốc tịch, nhưng một người thường trú trên lãnh thổ bên ký
kết này, còn người thường trú trên lãnh thổ bên ký kết kia, thì quan hệ pháp lý về
thân nhân và tài sản giữa họ được xác định theo pháp luật của bên ký kết mà họ là
công dân.
3. Nếu vợ chồng, người thường trú trên lãnh thổ bên ký kết này, người thường trú trên
lãnh thổ bên ký kết kia và người là công dân bên ký kết này, người là công dân bên
ký kết kia, thì quan hệ pháp lý về thân nhân và tài sản giữa họ được xác định theo
pháp luật của bên ký kết mà họ đã có nơi thường trú chung cuối cùng.
4. Nếu vợ chồng nói tại khoản 3 điều này chưa từng có nơi thường trú chung thì áp
dụng pháp luật của bên ký kết có Tịa án đã nhận đơn kiện.
Trường hợp: Ly hôn( điều 26)
1. Đối với việc ly hôn sẽ áp dụng pháp luật của bên ký kết mà vợ chồng là công dân vào
thời điểm đưa đơn.
2. Nếu vộ chồng, một người là công dân bên ký kết này, một người là công dân của bên
ký kết kia thì áp dụng pháp luật của bên ký kết có cơ quan đã nhận đơn.
3. Đối với trường hợp nói tại khoản 1 điều này, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc
cơ quan của bên ký kết mà vợ chồng là công dân vào thời điểm đưa đơn. Nếu vào
thời điểm đưa đơn cả hai vợ chồng đều thường trú trên lãnh thổ bên ký kết kia, thì cơ
quan của bên ký kết kia cũng có thẩm quyền giải quyết.
4. Đối với trường hợp nói tại khoản 2 điều này, thẩm quyền giải quyết thuộc về cơ quan
của bên ký kết nơi cả hai vợ chồng thường trú. Nếu một người thường trú trên lãnh
thổ bên ký kết này, còn người thường trú trên lãnh thổ bên ký kết kia thì cơ quan của
cơng dân hai bên ký kết đều có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp: Tuyên bố hôn nhân vô hiệu (Điều 27)
1. Đối với việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu, pháp luật áp dụng được xác định phù hợp
với điều 24 Hiệp định này.
2. Thẩm quyền của các cơ quan trong việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu được xác định
phù hợp với các khoản 3, 4 của điều 26 Hiệp định này.
Trường hợp: Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con(điều 28)
1. Đối với việc xác định và hủy bỏ quan hệ cha con sẽ áp dụng pháp luật của bên ký kết
mà người con là công dân khi sinh ra.
2. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con được xác định theo pháp luật của bên ký kết nơi
họ cùng cư trú.
3. Nếu cả cha mẹ hoặc một trong hai người cư trú ở bên ký kết này, còn người con lại
cư trú ở bên ký kết kia thì quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con được xác định theo
pháp luật của bên ký kết nơi người con cư trú.
4. Đối với việc kiện đòi con đã thành niên trợ cấp nuôi dưỡng cha mẹ sẽ áp dụng luật
của bên ký kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng đang thường trú.
5. Việc ra quyết định về quan hệ pháp lý nói tại khoản 1 điều này thuộc thẩm quyền của
cơ quan bên ký kết mà người con là cơng dân hoặc đang cư trú. Các trường hợp nói
tại các khoản 2, 3, 4 của điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan bên ký
kết nơi nguyên đơn đang cư trú.
Trường hợp: Nuôi con nuôi( điều 29)
1. Đối với việc nhận nuôi con nuôi sẽ áp dụng pháp luật của bên ký kết mà người nhận
nuôi là công dân vào thời điểm nhận nuôi con nuôi.
2. Nếu pháp luật của bên ký kết mà con ni là cơng dân địi hỏi phải có sự đồng ý của
con nuôi hoặc của người đại diện hợp pháp của người đó, cũng như địi hỏi phải có
giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, thì cần thiết phải có sự đồng ý hoặc giấy phép
đó.
3. Nếu trẻ em được một cặp vợ chồng nhận làm con nuôi mà người là công dân bên ký
kết này, người là công dân bên ký kết kia, thì việc ni con ni phải tuân theo pháp
luật của cả hai bên ký kết.
4. Việc giải quyết các vấn đề về con nuôi thuộc thẩm quyền của cơ quan bên ký kết mà
người nhận ni là cơng dân. Trường hợp nói tại khoản 3 điều này thuộc thẩm quyền
của cơ quan bên ký kết nơi vợ chồng đang hoặc đã cùng thường trú hoặc tam trú.
5. Những quy định của các khoản 1, 2, 3 và 4 của điều này cũng áp dụng tương
ứng đối với việc hủy bỏ việc nuôi con nuôi.
Trường hợp: Giám hộ và trợ tá (Đ i ề u 30)
1. Việc đặt giám hộ và trợ tá đối với công dân của các Bên ký kết do các cơ quan của Bên
ký kết mà người cần được giám hộ hoặc trợ tá là công dân quyết định, nếu Hiệp định này khơng
có quy định khác.
2. Điều kiện đặt và huỷ bỏ giám hộ và trợ tá được xác định theo pháp luật của Bên ký kết
người cần được giám hộ hoặc trợ tá là công dân.
3. Quan hệ pháp luật giữa người giám hộ hoặc trợ tá và người được giám hộ hoặc được trợ
tá được xác định theo pháp luật của Bên ký kết có cơ quan đã chỉ định người giám hộ hoặc trợ tá.
4. Về nghĩa vụ đặt giám hộ hoặc trợ tá, sẽ áp dụng pháp luật của Bên ký kết mà người được
chỉ định làm giám hộ hoặc trợ tá là công dân.
5. Công dân của Bên ký kết này có thể được chỉ định làm người giám hộ hoặc người trợ tá
cho công dân của Bên ký kết kia, với điều kiện người này thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết
nơi sẽ thực hiện nhiệm vụ giám hộ hoặc trợ tá.
Trường hợp: T h ẩm quyền giải quyết các vấn đề thừa kế ( điều 37 )
1. Đối với các vấn đề thừa kế động sản, thẩm quyền giải quyết thuộc Cơ quan tư
pháp của Bên ký kết nơi người để lại di sản thừa kế thường trú cuối cùng.
2. Đối với các vấn đề thừa kế bất động sản, thẩm quyền giải quyết thuộc cơ quan tư
pháp của Bên ký kết nơi có bất động sản.
3. Các tranh chấp phát sinh từ vụ thừa kế được giải quyết theo quy định của các
khoản 1 và 2 của Điều này.
=> Qua các quy định trên ta thấy, cách thức xác định thẩm quyền xét xử dân sự
quốc tế trong hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Mông C ổ chú y ếu d ựa
vào dấu hiệu quốc tịch. Bên cạnh đó cịn dựa vào dấu hiệu nơi thường trú, t ạm trú
để xác định thẩm quyền.
4. Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự
giữa CHXHCN Việt Nam và Liên Bang Nga
Trường hợp: Tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc mất năng lực hành vi (Điều
20)
Nếu Hiệp định này khơng có quy định khác, thì việc tuyên bố một người bị hạn chế năng lực
hành vi hoặc mất năng lực hành vi thuộc thẩm quyền của Tồ án của Bên ký kết mà người đó là
cơng dân. Tồ án áp dụng pháp luật của nước mình.
Trường hợp: Tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết ( điều 21)
1. Việc tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết, cũng như việc xác nhận sự kiện chết được
thực hiện theo pháp luật và thuộc thẩm quyền của Toà án của Bên ký kết mà theo những tin tức
cuối cùng người đó là cơng dân khi cịn sống.
2. Toà án của Bên ký kết này, căn cứ theo pháp luật của nước mình, có thể tun bố cơng dân của
Bên ký kết kia mất tích hoặc là đã chết, cũng như xác nhận sự kiện chết của người đó trong các
trường hợp sau đây:
1) Theo yêu cầu của người muốn thực hiện các quyền thừa kế của mình hoặc các quyền phát sinh
từ quan hệ tài sản giữa vợ chồng đối với bất động sản của người chết hoặc mất tích để lại trên
lãnh thổ của Bên ký kết có Tồ án phải ra quyết định về việc đó;
2) Theo yêu cầu của chồng (hoặc vợ) của người chết hoặc mất tích mà vào thời điểm nộp đơn yêu
cầu cư trú trên lãnh thổ của Bên ký kết có Tồ án phải quyết định về việc đó.
3. Quyết định của Toà án được tuyên theo khoản 2 Điều này chỉ có hiệu lực pháp lý trên lãnh thổ
của Bên ký kết có Tồ án đã ra quyết định đó
Trường hợp: Quan hệ thân nhân và tài sản giữa vợ chồng (điều 25)
1. Quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi
họ cùng thường trú.
2. Nếu một người thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết này, còn người kia thường trú trên lãnh
thổ của Bên ký kết kia, thì quan hệ nhân thân và tài sản của họ được xác định theo pháp luật của
Bên ký kết mà họ là công dân. Nếu một người là cơng dân của Bên ký kết này, cịn người kia là
cơng dân của Bên ký kết kia thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết có Tồ án đang xem xét vụ
việc.
3. Toà án của Bên ký kết nơi vợ chồng thường trú có thẩm quyền giải quyết các vấn đề về quan
hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu hai vợ chồng đều là
công dân của Bên ký kết kia thì Tồ án của Bên ký kết ấy cũng có thẩm quyền giải quyết.
4. Tồ án của Bên ký kết mà hai vợ chồng là cơng dân có thẩm quyền giải quyết các vụ việc quy
định tại khoản 2 Điều này. Nếu một người là công dân của Bên ký kết này, cịn người kia là cơng
dân của Bên ký kết kia thì Tồ án của cả hai Bên ký kết đều có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp: ly hôn và tuyên bố hôn nhân vô hiệu
Điều 26. Ly hôn
1. Việc ly hôn tuân theo pháp luật và thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan tư pháp của Bên
ký kết mà vợ chồng đều là công dân vào thời điểm nộp đơn xin ly hôn. Nếu hai vợ chồng đều
thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết kia thì Cơ quan tư pháp của Bên ký kết ấy cũng có thẩm
quyền giải quyết.
2. Nếu vào thời điểm gửi đơn xin ly hôn một người là công dân của Bên ký kết này, cịn người
kia là cơng dân của Bên ký kết kia thì điều kiện ly hôn tuân theo pháp luật của Bên ký kết nơi họ
thường trú.
Nếu một người cư trú trên lãnh thổ của Bên ký kết này, còn người kia cư trú trên lãnh thổ của
Bên ký kết kia thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết có cơ quan đang giải quyết việc ly hôn.
3. Việc ly hôn quy định tại khoản 2 Điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tư pháp
của bên ký kết nơi cư trú của hai vợ chồng.
Nếu một người cư trú trên lãnh thổ của Bên ký kết này, còn người kia cư trú trên lãnh thổ của
Bên ký kết kia thì cơ quan của cả hai Bên ký kết đều có thẩm quyền giải quyết.
4. Tồ án có thẩm quyền giải quyết việc ly hơn cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về ni
dưỡng và trợ cấp nuôi con chưa thành niên.
Điều 27. Xác định hôn nhân và huỷ hôn nhân vô hiệu
Việc xác định có hơn nhân hay khơng có hơn nhân và huỷ hôn nhân vô hiệu được giải quyết theo
pháp luật của Bên ký kết đã được áp dụng khi kết hơn. Thẩm quyền giải quyết của Tồ án được
xác định theo quy định tại Điều 26 của Hiệp định này.
Trường hợp: Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con
1. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi họ cùng
thường trú.
2. Nếu một người trong cha mẹ và con thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, thì quan hệ
pháp lý giữa cha mẹ và con được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà người con là công
dân.
3. Các vấn đề quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của Bên ký
kết mà người con là công dân, cũng như của Bên ký kết nơi người con cư trú.
Điều 29. Các trường hợp khác về cấp dưỡng
1. Đối với trường hợp khác về cấp dưỡng thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết nơi người yêu cầu
cấp dưỡng thường trú.
2. Những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Bên
ký kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng thường trú.
Trường hợp: Nuôi con nuôi (điều 30)
1. Các vấn đề về công nhận việc nuôi con nuôi được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà
người nuôi là công dân vào thời điểm xin nhận con nuôi. Nếu người nuôi là công dân của Bên ký
kết này, nhưng thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết
nơi người ấy thường trú.
2. Đối với việc công nhận việc nuôi con nuôi cũng áp dụng pháp luật của Bên ký kết mà con nuôi
là công dân để giải quyết các vấn đề liên quan đến sự đồng ý của con nuôi, của người đại diện
hợp pháp của con ni, sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như các vấn đề
liên quan đến sự hạn chế việc nuôi con nuôi do sự thay đổi nơi thường trú của con nuôi từ quốc
gia này sang quốc gia khác.
3. Nếu trẻ em được một cặp vợ chồng nhận làm con ni, trong đó một người là cơng dân của
Bên ký kết này, cịn người kia là cơng dân của Bên ký kết kia, thì u cầu đối với việc nhận nuôi
con nuôi phải tuân theo pháp luật của cả hai Bên ký kết. Nếu vợ chồng cùng thường trú trên lãnh
thổ của một Bên ký kết thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết này.
4. Các quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này cũng được áp dụng đối với việc thay đổi, chấm
dứt và tuyên bố việc nuôi con nuôi vô hiệu.
5. Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về công nhận việc nuôi con nuôi, thay đổi, chấm dứt và tuyên
bố việc nuôi con nuôi vô hiệu thuộc Bên ký kết mà con nuôi là công dân vào thời điểm xin nuôi con
nuôi. Nếu con nuôi là công dân của Bên ký kết này, nhưng thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết
kia nơi người ni thường trú, thì Bên ký kết ấy cũng có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp: Giám hộ và trợ tá (điều 31)
1. Các vấn đề về giám hộ và trợ tá được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà người cần
được giám hộ và trợ tá là công dân, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác.
2. Quan hệ pháp lý giữa người giám hộ hoặc trợ tá và người được giám hộ hoặc trợ tá được xác
định theo pháp luật của Bên ký kết có cơ quan chỉ định việc giám hộ hoặc trợ tá.
3. Nghĩa vụ nhận việc giám hộ hoặc trợ tá được xác định theo pháp luật của Bên ký kết mà người
được chỉ định làm người giám hộ hoặc người trợ tá là công dân.
4. Công dân của Bên ký kết này có thể được chỉ định làm người giám hộ hoặc người trợ tá cho
công dân của Bên ký kết kia, nếu người đó thường trú trên lãnh thổ của Bên ký kết nơi thực hiện
việc giám hộ hoặc trợ tá và nếu việc chỉ định đó sẽ đáp ứng tốt hơn lợi ích của người được giám
hộ hoặc trợ tá.
5. Các vấn đề về công nhận việc giám hộ và trợ tá thuộc thẩm quyền giải quyết của Bên ký kết mà
người cần được giám hộ hoặc trợ tá là công dân.
Trường hợp: tranh chấp về bồi thường thiệt hại
Điều 36. Nghĩa vụ hợp đồng
1. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước do các bên lựa chọn,
nếu điều đó khơng trái với pháp luật của các Bên ký kết. Nếu các bên không lựa chọn pháp luật
áp dụng thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết nơi bên phải thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng
thường trú, được thành lập hoặc có trụ sở. Đối với hợp đồng thành lập doanh nghiệp, thì áp dụng
pháp luật của Bên ký kết nơi doanh nghiệp đó cần được thành lập.
2. Các vấn đề quy định tại khoản 1 Điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án của Bên ký
kết nơi bị đơn thường trú hoặc có trụ sở. Tồ án của Bên ký kết nơi nguyên đơn thường trú hoặc có
trụ sở cũng có thẩm quyền giải quyết, nếu trên lãnh thổ của nước này có đối tượng tranh chấp
hoặc tài sản của bị đơn.
Các bên giao kết hợp đồng có thể thoả thuận với nhau nhằm thay đổi thẩm quyền giải quyết các
vấn đề nêu trên.
Điều 37. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật)
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định
theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại.
Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một Bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có
trụ sở ở một Bên ký kết, thì áp dụng pháp luật của Bên ký kết đó.
2. Các vấn đề quy định tại khoản 1 Điều này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án của Bên ký
kết nơi xảy ra hồn cảnh làm căn cứ để u cầu địi bồi thường thiệt hại, hoặc nơi bị đơn thường
trú hoặc có trụ sở. Toà án của Bên ký kết nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở cũng có thẩm
quyền giải quyết, nếu trên lãnh thổ của nước này có tài sản của bị đơn.
Trường hợp: Thẩm quyền giải quyết các vấn đề về thừa kế (điều 42)
1. Việc giải quyết các vấn đề về thừa kế động sản thuộc thẩm quyền của Bên ký kết mà người để
lại thừa kế là công dân vào thời điểm chết.
2. Việc giải quyết các vấn đề về thừa kế bất động sản thuộc thẩm quyền của Bên ký kết nơi có bất
động sản đó.
3. Nếu tất cả động sản là di sản của công dân của Bên ký kết này ở trên lãnh thổ của Bên ký kết
kia, thì, theo đề nghị của một người thừa kế và được sự đồng ý của tất cả những người thừa kế đã
biết khác, cơ quan của Bên ký kết đó sẽ tiến hành các thủ tục giải quyết việc thừa kế.
KẾT LUẬN
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài đã thừa nhận các
quy tắc xác định thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế sau:
1. Đối với các tranh chấp liên quan đến việc hạn chế và tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự, quy tắc quốc tịch được ưu tiên áp dụng.
2. Đối với tranh chấp liên quan đến việc xác định cơng dân mất tích hay đã chết, quy tắc
luật quốc tịch cũng được ưu tiên áp dụng, tuy nhiên trong một số trường hợp nhất
định các nước còn áp dụng quy tắc nơi cư trú của nguyên đơn để xác giải quyết các
tranh chấp liên quan đến việc xác định cơng dân nước ngồi mất tích hoặc đã chết.
3. Đối với các tranh chấp liên quan đến quan hệ thân nhân và quan hệ tài sản iữa vợ và
chồng quy tắc nơi thường trú chung hoặc nơi thường trú chung cuối cùng của vợ
chồng kết hợp với quy tắc quốc tịch của đương sự để giải quyết xung đột về thẩm xét
xử dân sự quốc tế
4. Đối với các tranh chấp liên quan đến quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con, quy tắc
luật quốc tịch được kết hợp với quy tắc nơi thường trú của đương sự. Đa số các hiệp
định đã quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến quan hệ pháp lý
giữa cha mẹ và con thuộc cơ quan tư pháp của nước kí kết mà người con là cơng dân
hoặc là người cư trú.
5. Đối với cac tranh chấp thuộc vấn đề nuôi con nuôi quy tắc quốc tịch của người nhận
nuôi con nuôi được áp dụng, nếu họ khác quốc tịch thì quy tắc nơi cư trú chung( nơi
cư trú chung cuối cùng) của vợ chồng được áp dụng.
6. Đối với việc ly hôn và tuyên bố hôn nhân vô hiệu quy tắc quốc tịch của đương sự
được kết hợp với quy tắc nơi thường trú( nơi thường trú chung cuối cùng) của họ
được áp dụng.
7. Đối với các tranh chấp liên quan đến việc giám hộ và trợ tá quy tắc quốc tịch của
người được giám hộ hoặc được trợ tá được ưu tiên áp dụng. Tuy vậy các nước ký kết
còn thoả thuận thẩm quyền của cơ quan tư pháp của nước ký kết nơi người được
giám hộ hoặc được trợ tá cư trú hoặc có tài sản của người đó trong việc áp dụng các
biện pháp tạm thời cấp thiết để bảo vệ quyền lợi của người đó.
8. Đối với các tranh chấp liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại quy tắc nơi xảy ra
hành vi gây thiệt hại được ưu tiên áp dụng.
9. Đối với các tranh chấp liên quan đến vấn đề thừa kế quy tắc quốc tịch của người để
lại tài sản được áp dụng kết hợp với quy tắc nơi có tài sản thừa kế để xác định thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp về thừa kế.