Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Pháp luật thừa kế của việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.83 KB, 178 trang )










Ph¸p luËt thõa kÕ cña viÖt nam
nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn











Hµ Néi 2009
2



16/4 Lời giới thiệu
Bộ luật Dân sự nói chung và chế định thừa kế nói riêng điều chỉnh
quan hệ tài sản ảnh hởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội của
nớc ta trong sự hội nhập với nền kinh tế thế giới.


Qua mời năm áp dụng BLDS, về cơ bản các tranh chấp thừa kế đã
đợc giải quyết thoả đáng, hợp tình, hợp lý. Tuy nhiên, do một số qui định của
phần thừa kế trong BLDS cha phù hợp với sự phát triển của kinh tế-xã hội và
do thiếu các qui định cụ thể, cho nên còn nhiều vụ việc giải quyết không triệt
để, làm ảnh hởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ngời thừa kế. Bởi vậy, cần
nghiên cứu chế định thừa kế nhằm hoàn thiện các qui định còn bất cập và bổ
sung qui định mới để tăng cờng hiệu quả điều chỉnh của qui định về thừa kế.
Hàng năm, Tòa án các cấp xét xử hàng nghìn vụ án về thừa kế, trong
đó có những vụ án qua nhiều cấp xét xử hoặc cùng một cấp, nhng xét xử lại
qua nhiều lần, mỗi lần có quyết định khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau, do
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là một số qui định về thừa
kế không rõ ràng, cụ thể, còn những qui định của phần thừa kế cha tơng
thích với qui định khác trong BLDSNgoài ra, việc áp dụng một số qui định
chung trong phần thừa kế giữa các Toà án cha thống nhất, do thiếu văn bản
hớng dẫn và do trình độ của Thẩm phán còn hạn chế dẫn đến việc áp dụng
một số qui định không chính xác trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa
kế.
Để làm rõ nội dung của các qui định về thừa kế trong Bộ luật dân sự
2005, công trình nghiên cứu của tiến sỹ Nguyễn Minh Tuấn về pháp luật thà
kế của Việt Nam sẽ luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của các qui
định về thừa kế một cách khoa học giúp bạn đọc hiểu đúng và sâu pháp luật về
thừa kế củaViệt Nam qua các thời kỳ phát triển.
Chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc quyển sách Pháp luật về thừa kế
của Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn NXB.
3



Chơng 1
Chế định thừa kế trong pháp luật

dân sự việt nam
I. Một số vấn đề Lý luận về thừa kế
1- Bản chất của thừa kế trong các xã hội có giai cấp
1.1. Giá trị nhân văn trong quan hệ thừa kế
Nghiên cứu việc điều chỉnh pháp luật về thừa kế có ý nghĩa quan trọng
trong việc tiếp cận quyền con ngời trong các chế độ xã hội khác nhau. Vấn
đề thừa kế đợc tiếp cận dới nhiều góc độ khác nhau nh xã hội học, triết
học, kinh tế và pháp lý sẽ thấy rõ bản chất của việc điều chỉnh pháp luật về
thừa kế.
Trong gia đình, quan hệ thừa kế gắn với quan hệ hôn nhân, huyết
thống và nuôi dỡng. Khi một thành viên trong gia đình chết, thì tài sản của
ngời chết chuyển cho ngời khác còn sống. Tài sản của ông, bà, cha, mẹ để
lại cho con cháu là công sức, mồ hôi, thậm chí có cả nớc mắt và những kinh
nghiệm quí báu trong lao động sản xuất và chiến thắng thiên nhiên để duy trì
sự sống, bởi vậy thừa kế không chỉ đơn thuần là việc chuyển dịch tài sản của
ngời quá cố cho ngời khác trong gia đình, mà còn chuyển dịch thành quả
lao động thể hiện giá trị vật chất và giá trị tinh thần của thế hệ trớc để lại cho
thế hệ sau thừa hởng để tiếp tục duy trì và phát triển kinh tế của cá nhân, gia
đình và dòng họ.
Quá trình phát triển của thừa kế gắn liền với sự phát triển của lịch sử
loài ngời. Thừa kế tài sản trong xã hội nguyên thuỷ là sự kế thừa mang tính
tự nhiên, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của gia đình, thị tộc và xã hội.
Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lao động thấp kém, cho nên
cuộc sống của ngời nguyên thuỷ hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Hoàn
cảnh đó bắt buộc họ phải liên kết với nhau trong lao động và trong đấu tranh
4



sinh tồn, vì vậy lợi ích của cá nhân đồng thời là của thị tộc, cho nên họ không

có quan niệm chung và riêng, vì thế xã hội thị tộc là xã hội cộng đồng tài sản,
đất đai và công cụ lao động là tài sản chung của thị tộc đợc truyền lại cho
các thế hệ sau để tiếp tục duy trì, phát triển cuộc sống của thị tộc. Thừa kế tài
sản trong thị tộc là việc kế thừa sự quản lý các t liệu sản xuất giữa các thành
viên trong thị tộc, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của gia đình, thị
tộc. Thế hệ sau thừa hởng t liệu, công cụ sản xuất của các thế hệ trớc để lại
và tiếp tục cải tiến công cụ lao động cũ, chế tạo ra các công cụ mới làm tăng
năng suất lao động, cho nên đời sống của các thành viên thị tộc ngày một tốt
hơn.
Trong xã hội nguyên thuỷ, chế độ mẫu quyền hình thành do tập quán
kết hôn quyết định, con cái sinh ra chỉ biết mẹ và lấy theo họ mẹ, ngời mẹ
chi phối quyền lực trong gia đình, cho nên gọi là chế độ thị tộc mẫu hệ hay thị
tộc mẵu quyền.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc của gia đình, của chế độ t hữu và Nhà
nớc, Ph. Ăng-nghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào huyết tộc chỉ kể về bên
mẹ và tập tục thừa kế nguyên thủy thì trong thị tộc mới đợc thừa kế của
những ngời trong thị tộc chết. Tài sản để lại trong thị tộc, vì tài sản không có
giá trị lớn nên lâu nay trong thực tiễn ngời ta vẫn trao tài sản đó cho những
bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những ngời có cùng huyết thống với
ngời mẹ. [1, tr. 90].
Vào thời kỳ nguyên thủy, việc thừa kế đợc hình thành theo tập quán
của thị tộc. Tài sản của thị tộc do ngời mẹ quản lý, khi ngời mẹ chết thì di
sản chuyển cho những ngời thân thích trong thị tộc và tài sản của thị tộc
đợc lu truyền đời này qua đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế đầu tiên
của xã hội loài ngời về t liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống
chung cho thị tộc.
5




Trong thị tộc, quan hệ thừa kế thực hiện theo chế độ mẫu quyền và
đợc lu truyền đến các thế hệ sau theo tập quán của thị tộc. Mặc dù, trong xã
hội thị tộc có sự phát triển kinh tế-xã hội, việc quản lý, điều hành công việc
trong thị tộc, bộ lạc đã tiến bộ, công việc chính do những ngời bô lão, tộc
trởng, tù trởng có uy tín thực hiện. Tuy vậy, không ai đợc hởng nhiều hơn
ngời khác và không đợc vi phạm chế độ sở hữu chung của thị tộc. Trong thị
tộc, cuộc sống hằng ngày ngời ta quan hệ với nhau theo những phong tục, tập
quán đã tồn tại từ đời này qua đời khác, các thành viên của thị tộc cùng làm
cùng hởng, cùng chia sẽ buồn, vui... Vấn đề thừa kế tài sản cũng theo những
tập quán đó mà tồn tại.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, tập quán thừa kế của xã hội nguyên
thuỷ đợc Nhà nớc chiếm hữu nô lệ thừa nhận để điều chỉnh quan hệ thừa kế
trong xã hội. Đây là hình thức đầu tiên của pháp luật-luật tục.
Pháp luật chiếm hữu nô lệ là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử, nó
đợc hình thành chậm chạp theo từng bớc trong thời gian dài, trên cơ sở thừa
nhận những qui phạm xã hội của xã hội nguyên thuỷ có lợi cho giai cấp chủ
nô để điều chỉnh lợi ích của giai cấp khác (luật tục). Các luật tục điển hình của
Nhà nớc chiếm hữu nô lệ La Mã cổ đại đợc ghi nhận trong Luật XII bảng,
trong đó có những luật tục về thừa kế. Tại điểm 5 Bảng IV qui định: Nếu
ngời chết không có ngời bảo trợ thì nền kinh tế (để lại sau khi ngời đó
chết) do những ngời thân quản lý .{78}. Trong xã hội La Mã, quyền gia
trởng thuộc về ngời đứng đầu gia đình, là ngời bảo trợ cho các thành viên
khác trong gia đình. Nếu một ngời chết mà không có ngời bảo trợ thì nền
kinh tế (ruộng đất, nô lệ...) của ngời đó do những ngời thân thích trong gia
đình quản lý, sử dụng.
Nh vậy, quan hệ thừa kế xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện
của chế độ mẫu quyền, ở đó ngời phụ nữ nắm toàn bộ quyền lực trong gia
đình. Toàn bộ tài sản của thị tộc thuộc sở hữu chung của thị tộc, nhng do
6




ngời mẹ chiếm giữ, cho nên khi ngời mẹ chết thì tài sản đợc trao lại cho
những ngời thân thích nhất cùng dòng máu về phía ngời mẹ. Trong tác
phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ t hữu và của Nhà nớc, Ph. Ăng-
nghen đã chỉ ra rằng: Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà dòng
dõi chỉ tính theo bên mẹ và tập quán kế thừa lúc ban đầu trong thị tộc thì chỉ
những ngời thân trong thị tộc mới đợc kế thừa những thành viên đã chết
trong thị tộc. Tài sản phải đợc giữ lại trong nội bộ thị tộc đó. [1 tr. 91].
Sự phát triển ngày càng cao của nền sản xuất xã hội, làm thay đổi địa
vị của ngời phụ nữ. Sự xuất hiện của ngành nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt đòi hỏi sức lực và trí tuệ của những ngời đàn
ông, vì thế sản phẩm lao động do ngời đàn ông làm ra không những đủ nuôi
sống gia đình và bắt đầu có tích luỹ. Vì vậy, địa vị gia đình của ngời đàn ông
dần dần đợc thiết lập. Đặc biệt, khi nhà nớc ra đời và qui định chế độ hôn
nhân một vợ, một chồng đã làm cho con cái biết rõ cha mẹ mình. Từ đó, trong
quan hệ gia đình xác lập huyết thống theo họ cha và chế độ gia đình phụ hệ
thay thế cho mẵu hệ
Trong gia đình cặp đôi, quyền lực của ngời chồng dần đợc thiết lập
khi mà của cải trong gia đình tăng lên do công sức lao động của ngời chồng
tạo ra, và chính những của cải đó đã làm cho ngời chồng có xu hớng lợi
dụng địa vị vững vàng hơn để đảo ngợc trật tự thừa kế cổ truyền đang có lợi
cho con cái mình. Nghiên cứu về ván đề này Ph. Ăngghen viết:
Thế là dòng dõi tính theo đằng mẹ và quyền kế thừa của ngời mẹ bị
xóa bỏ, dòng dõi tính theo đằng cha và quyền kế thừa của ngời cha đợc xác
lập. Cuộc cách mạng đó đã xảy ra ở các dân tộc văn minh vào lúc nào và nh
thế nào, điều đó chúng ta hoàn toàn không rõ. [1, tr. 92].
Trong quá trình phát triển của xã hội, việc thừa kế tài sản không tách
rời sự hình thành, tồn tại của sở hữu t nhân và bản chất của quan hệ thừa kế

do chế độ sở hữu t nhân quyết định.
7



Khi xã hội phân chia thành giai cấp, giai cấp thống trị chiếm hữu hầu
hết t liệu sản xuất và đợc truyền lại cho con cháu, cho nên địa vị thống trị
đợc củng cố từ đời này sang đời khác, do đó việc thừa kế tài sản là sự chuyển
dịch công cụ, phơng tiện bóc lột của giai cấp thống trị cho cháu con nhằm
tiếp tục xác lập quyền lực chính trị, kinh tế đối với ngời lao động. Ngời lao
động làm thuê không có t liệu sản xuất, tài sản là thu nhập một phần do sức
lao động tạo ra.
Trong xã hội XHCN, chế độ sở hữu t nhân đợc thiệt lập đối với
những tài sản sản không phải là t liệu sản xuất chủ yếu nh đất đai, rừng núi,
hầm mỏ...cho nên thừa kế là việc chuyển dịch quyền sử dụng đất và thành quả
lao động ( vốn, t liệu sản xuất khác do lao động tạo ra, các quyền tài sản) của
ông bà, cha mẹ cho cháu, con.
Qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài ngời, quan hệ thừa kế có
tính kế thừa và phát triển các giá trị vật chất và giá trị tinh thần của gia đình và
dòng tộc. Di sản thừa kế của gia đình đợc truyền từ đời này qua đời khác nh
nhà ở và của cải khác. Đây không những là thành quả lao động mà còn là di
sản văn hoá phi vật chất của thế hệ trớc để lại cho thế hệ sau, bởi vì nhà ở và
các công trình xây dựng của gia đình, dòng tộc là tài sản có giá trị lớn, mặt
khác còn là giá trị văn hoá đã tồn tại và phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Các
giá trị tinh thần trong xây dựng đã thể hiện bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc
phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và phong tục tập quán của
cộng đồng dân c.
Trong các xã hội khác nhau, thừa kế tài sản là thừa hởng di sản của
ngời chết để lại. Di sản của ngời chết không những là tài sản mà còn các lợi
ích khác mà những ngời thừa kế đợc hởng và phải thực hiện nghĩa vụ của

ngời chết cha thực hiện. Ngời chết không có nghĩa là chấm dứt mọi lợi ích
của họ. Ngời để lại thừa kế, để lại di sản và giao cho ngời thừa kế các nghĩa
vụ về nhân thân thì ngời thừa kế phải thực hiện, nguyện vọng của ngời để
8



lại thừa kế có đợc thực hiện hay không là do những ngời thừa kế quyết định.
Bởi lẽ, khi mở thừa kế, trong gia đình tồn tại hai lợi ích, đó là lợi ích của mỗi
thành viên và của toàn thể gia đình, trong đó có lợi ích của ngời để lại thừa
kế. Lợị ích của cá nhân là sở hữu tài sản để thoả mãn các nhu cầu của mình.
Lợi ích của gia đình là nền kinh tế và các giá trị vật chất, giá trị tinh thần
cùng tồn tại và phát triển. Nếu đặt lợi ích của gia đình trên lợi ích của cá nhân,
thì thành quả lao động của cá nhân cho nhiều ngời cùng hởng, cho nên con
ngời sống có tính quảng đại, tình cảm và bao dung. Ngợc lại, nếu đặt lợi ích
của mình trên lợi ích của gia đình, sẽ trở thành ngời ích kỷ. Vì những lý do
trên, nên khi con ngời chết không có nghĩa là chấm dứt tất cả những gì liên
quan đến ngời đó và những ngời khác. Thế hệ trớc phấn đấu vì thế hệ sau,
giá trị vật chất và tinh thần mà ngời chết để lại cho con cháu là một loại tài
sản vô giá cần phải giữ gìn và phát triển.
Trong xã hội Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập
quán của từng dân tộc, từng miền, từng địa phơng khác nhau. Thậm chí trong
cùng một địa phơng thì mỗi gia đình, mỗi dòng họ, việc phân chia di sản
thừa kế theo truyền thống của dòng tộc. Trong gia đình, con cháu hởng di sản
của ông bà, cha mẹ và thực hiện việc thờ cúng tổ tiên từ đời này qua đời khác.
Thông qua việc thờ cúng, nhắc nhở cháu con luôn nhớ công ơn của ngời đã
khuất. Đây là một truyền thống uống nớc nhớ nguồn đợc lu truyền đến
ngày nay và mai sau.
Thông thờng, sau khi cha mẹ qua đời, di sản của cha mẹ sẽ chuyển
cho một ngời con trai quản lý sử dụng. Ngời quản lý di sản khai thác công

dụng của di sản để thu hoa lợi, lợi tức, một phần dùng vào việc thờ cúng tổ
tiên, phần còn lại ngời quản lý di sản đó đợc hởng. Con cháu tiếp nhận di
sản của ông bà, là hởng thành quả lao động và tiếp nhận các nghĩa vụ bảo vệ
giữ gìn các truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ và cộng đồng.
Ngày nay, cơ chế thị trờng có ảnh hởng đến phong tục, tập quán của
9



nhân dân ta nhng truyền thống tốt đẹp "nhờng áo, xẻ cơm" vẫn đợc duy trì
và phát huy, các giá trị văn hoá ứng xử, văn hoá thờ cúng tổ tiên ngày càng
phát triển theo hớng tiến bộ, văn minh. Nh vậy, thừa kế không những
chuyển dịch tài sản từ ngời chết cho những ngời khác còn sống làm sở hữu,
mà còn chuyển tiếp và kế thừa các giá trị văn hoá đợc chắt lọc từ cuộc sống
để tạo nên các tài sản đó.
1.2. Bản chất của quyền thừa kế trong các chế độ xã hội khác nhau.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nớc dùng pháp luật điều chỉnh quan hệ
thừa kế, vì vậy quan hệ thừa kế là đối tợng điều chỉnh của pháp luật. Nhà
nớc điều chỉnh quan hệ thừa kế để đạt mục tiêu nhất định, điều này phụ
thuộc vào các chế độ xã hội khác nhau. Việc điều chỉnh pháp luật các quan hệ
thừa kế, cho phép cá nhân thực hiện đợc quyền định đoạt tài sản của mình
ngay cả sau khi chết, vì vậy quyền thừa kế vừa mang tính chủ quan và tính
khách quan.
Quyền thừa kế với t cách là quyền chủ quan của cá nhân tức là quyền
của con ngời, quyền để lại tài sản của mình cho ngời khác hởng và quyền
đợc hởng di sản của ngời chết để lại.
Con ngời tham gia lao động sản xuất để làm ra của cải cho gia đình
và xã hội nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên, nền kinh tế của
gia đình, dòng tộc có phát triển hay không phụ thuộc vào khả năng sản xuất,
kinh doanh của ngời thừa kế, vì thế ngời lập di chúc có quyền lựa chọn

ngời thừa kế để giao tài sản. Ngợc lại, sau khi mở thừa kế, ngời thừa kế có
quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản. Đây là quyền tự định đoạt của ngời để
lại thừa kế và ngời thừa kế.
Quyền thừa kế của cá nhân là một trong những quyền kinh tế quan
trọng không phải tự nhiên có, là thành quả lao động, là kết quả của đấu tranh
giai cấp, đấu tranh với thiên nhiên của cá nhân tạo ra, do đó quyền thừa kế là
quyền của con ngời không ai có thể tớc đoạt đợc, nhà nớc phải ghi nhận
10



và bảo hộ quyền kinh tế quan trọng đó.
Xuất phát từ quan điểm trên, Đảng và Nhà nớc ta luôn luôn lấy các
quyền con ngời làm mục tiêu đấu tranh và bảo vệ các quyền kinh tế, dân sự,
chính trị của cá nhân. ở Việt Nam, quyền con ngời đợc ghi nhận trong các
Hiến pháp. Căn cứ vào Hiến pháp, các ngành luật cụ thể hóa phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nớc trong từng thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng Tháng tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại vờn
hoa Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trớc đồng bào cả nớc và nhân dân toàn thế giới việc thành lập Nhà
nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố:
Tất cả mọi ngời sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm đợc, trong các quyền ấy có quyền đợc
sống, quyền tự do và quyền mu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nớc Mỹ. Suy
rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sớng và quyền tự do.
[64, tr. 118].
Trong lời dẫn của bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chủ Tịch đã xuất phát

từ quyền tự nhiên của con ngời và Bác coi các quyền này không ai có thể phủ
nhận đợc. Trong các quyền của con ngời, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
đóng một vai trò quan trọng, vì nó là cơ sở để thực hiện các quyền chính trị,
dân sự, kinh tế. Để thực hiện quan điểm trên, Nhà nớc ta ghi nhận và bảo hộ
quyền con ngời trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Đặc biệt trong Hiến
pháp 1992, quyền con ngời đợc ghi nhận một cách đầy đủ tại Điều 50: ở
nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngời về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội đợc tôn trọng, thể hiện ở các quyền công
dân và đợc qui định trong Hiến pháp và luật. [28, tr. 19].
11



Quyền thừa kế là quyền của con ngời trong một chế độ xã hội nhất
định, cho nên trong các xã hội khác nhau, Nhà nớc điều chỉnh quan hệ thừa
kế nhằm đạt những mục đích khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đất đai nằm trong tay giai cấp chủ nô,
những ngời nông dân hầu nh không có tài sản, vì vậy trong xã hội này thừa
kế tài sản nhằm củng cố chế độ t hữu tuyệt đối về đất đai của giai cấp thống
trị, cho nên ngời lao động đấu tranh để thay đổi phơng thức chiếm hữu tài
sản của giai cấp thống trị và khi giành đợc chính quyền, đất đai đợc phân
chia cho ngời lao động, từ đó làm thay đổi các quan hệ thừa kế. Quá trình
phát sinh, thay đổi quan hệ thừa kế có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của
các quan hệ kinh tế, xã hội và cũng chính quan hệ này làm thay đổi các chế độ
khác nhau trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời. Chính vì vậy, điều
chỉnh pháp luật các quan hệ thừa kế không ngừng phát triển theo hớng đảm
bảo quyền con ngời ngày một tốt hơn. Ph. Ăng-nghen cho rằng:
C. Mác là ngời đầu tiên đã phát hiện, tìm ra qui luật phát triển của lịch sử
loài ngời, nghĩa là tìm ra sự thật đơn giản...là trớc hết con ngời cần phải
ăn, uống, ở và mặc trớc khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học,

nghệ thuật, tôn giáo. [39, tr. 87].
Con ngời sản xuất ra của cải vật chất, đó là yêu cầu khách quan của
tồn tại xã hội. Con ngời không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những
cái đã có sẵn trong tự nhiên. Để duy trì và nâng cao đời sống, con ngời phải
sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất không những là cơ sở cho sự tồn tại của
con ngời mà còn là nền tảng để hình thành các quan hệ khác nh: quan hệ
chính trị, quan hệ pháp luật, quan hệ đạo đức... Việc sản xuất của con ngời
luôn luôn thay đổi, phát triển, cho nên những quan hệ trên cũng thay đổi và
phát triển theo. Khi chế độ t hữu và Nhà nớc xuất hiện, thừa kế là một công
cụ để duy trì quyền lực, giai cấp bóc lột đợc thừa hởng di sản cũng đồng
nghĩa với việc đợc thừa hởng quyền lực của ngời đó đối với xã hội. Khi
12



nhà nớc ra đời, để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, nhà nớc ban hành
pháp luật và qui định cho mỗi cá nhân, tầng lớp trong xã hội đợc hởng cái
gì và họ phải gánh chịu các nghĩa vụ nào đối với nhà nớc.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế-xã hội đầu tiên theo
chế độ phụ quyền, cho nên quyền thừa kế đợc xác định dựa trên nền tảng của
chế độ phụ quyền và gia trởng.
Theo chế độ phụ quyền, quyền lực của ngời cha là tuyệt đối đợc xác
lập trên các thành viên của gia đình. Trong gia đình, ngời nắm quyền gia
trởng toàn quyền quản lý tài sản của gia đình, con cháu không có quyền sở
hữu tài sản. Khi ngời nắm quyền gia trởng chết, di sản tiếp tục chuyển cho
ngời kế tục quyền gia trởng quản lý.
Bộ luật đầu tiên của chế độ phụ quyền là Bộ luật của Nhà nớc chiếm
hữu nô lệ Bavilon có tựa đề là Luật Khămurapi (Thế kỷ thứ XVII trớc công
nguyên). Bộ luật này gồm 282 điều và đợc chia thành từng nhóm theo nội
dung, đợc phân chia rõ ràng các qui định riêng về hình sự, dân sự, tố tụng.

Chế định dân sự của Bộ luật này qui định quyền sở hữu của vợ, chồng, các hợp
đồng dân sự nh: cho vay, mua bán, qui định về thừa kế theo di chúc, thừa kế
theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc chỉ đợc thực hiện khi các con trai mang
trọng tội, ngời bố đợc phép truất quyền thừa kế của con trai và di chúc cho
ngời khác hởng. Khi chia di sản các con đợc hởng kỷ phần ngang nhau.
Những qui định về thừa kế của Nhà nớc chiếm hữu nô lệ đợc phát triển và
hoàn thiện hơn trong Luật XII bảng và các đạo luật khác của Nhà nớc La Mã
cổ đại hay đợc gọi là Luật La Mã. Trong Luật La Mã, chế định thừa kế tơng
đối hoàn chỉnh. Mặc dù cấu trúc của chế định thừa kế không chia thành các
phần rõ ràng, tuy nhiên có các qui định chung và các qui định chia di sản theo
pháp luật, chia di sản theo di chúc.
ở các nhà nớc phong kiến và t bản, phần lớn t liệu sản xuất chủ
yếu thuộc về giai cấp thống trị, ngời lao động không có t liệu sản xuất phải
13



làm thuê cho địa chủ và các nhà t bản, vì vậy pháp luật về thừa kế thực chất
là bảo hộ quyền sở hữu t nhân của giai cấp thống trị đối với t liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội.
Trong chế độ XHCN, t liệu sản xuất chủ yếu thuộc về nhân dân lao
động, nhà nớc bảo hộ thu nhập hợp pháp của cá nhân, gia đình từ các hệ
thống kinh tế khác nhau. Cá nhân có quyền sở hữu tài sản thì có quyền để lại
thừa kế cho ngời khác hởng. C. Mác và Ph. Ăng-nghen khẳng định trong
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản: "Chủ nghĩa cộng sản không tớc bỏ của ai
cái quyền chiếm hữu những sản phẩm của xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ
tớc bỏ quyền dùng sự chiếm hữu đó để bóc lột lao động của ngời khác".
[38].
Ngày nay, ở mỗi quốc gia, phụ thuộc vào chế độ chính trị, chế độ sở
hữu và phong tục, tập quán của nhân dân trong quốc gia đó, mỗi nhà nớc

điều chỉnh quan hệ thừa kế có sự khác nhau.
ở Việt Nam, nhân dân ta đã và đang xây dựng CNXH mà nền tảng
kinh tế của xã hội là chế độ công hữu hóa t liệu sản xuất và đợc thể hiện tại
Điều 17 Hiến pháp 1992: "Đất đai, rừng núi, sông hồ tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi vùng biển... là của Nhà nớc, đều thuộc sở hữu toàn dân". Nh
vậy, theo Hiến pháp, cá nhân không có quyền sở hữu đất đai, nhng có quyền
sử dụng, nhà nớc cho phép cá nhân, hộ gia đình để lại thừa kế quyền sử dụng
đất cho ngời khác theo di chúc hoặc theo pháp luật, tạo điều kiện cho cá
nhân an tâm lao động sản xuất, đầu t vốn, công sức, trí tuệ để sản xuất kinh
doanh, tạo ra nhiều của cải cho gia đình và xã hội. Cá nhân có quyền sở hữu
các loại tài sản mà pháp luật không cấm, khi còn sống họ định đoạt tài sản
bằng nhiều phơng thức khác nhau nh: bán, cho thuê, cho vay, cho tặng hoặc
lập di chúc để định đoạt cho ngời khác sau khi họ chết. Khi mở thừa kế, nếu
có di chúc, di sản đợc chia theo di chúc, nhà nớc luôn luôn tôn trọng ý chí
của ngời lập di chúc. Tuy nhiên, trong một số trờng hợp đặc biệt, ý chí của
14



ngời lập di chúc bị hạn chế theo Điều 669 BLDS. Trờng hợp ngời để lại di
sản không lập di chúc, di sản chia theo pháp luật. Ngời thừa kế theo pháp
luật là những ngời có quan hệ gia đình đối với ngời để lại di sản. Ngời
thừa kế nhận di sản, phải thực hiện nghĩa vụ của ngời chết trong phạm vi di
sản hởng. Mặt khác, nếu ngời để lại thừa kế giao nghĩa vụ quản lý di sản
thờ cúng, thì ngời thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ thờ cúng. Ngoài ra, di sản
là di tích văn hoá nh nhà thờ, nhà rờng đợc xếp hạng di tích, những ngời
thừa kế có nghĩa vụ giữ gìn, bảo quản các giá trị văn hoá đó theo qui định của
Luật Di sản Văn hoá.
Nh vậy, trong các chế độ xã hội khác nhau, con ngời đều có quyền
thừa kế tài sản, tuy nhiên phạm vi quyền thừa kế đợc bảo hộ thế nào do bản

chất chế độ xã hội quyết định.
Quyền thừa kế có thể tiếp cận dới góc độ pháp luật là chế định thừa
kế trong luật dân sự. Với ý nghĩa là một chế định pháp luật về thừa kế, quyền
thừa kế là tổng hợp các qui định của nhà nớc, qui định những tài sản nào
đợc chuyển dịch, phạm vi chủ thể để lại di sản và nhận di sản, quyền nghĩa
vụ của các chủ thể. Ngoài ra, pháp luật qui đinh trình tự, phơng thức phân
chia di sản theo di chúc và theo pháp luật...
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, pháp luật quy định cho giai cấp chủ nô
có quyền sở hữu tuyệt đối với tài sản của mình, trong đó nô lệ cũng trở thành
đối tợng của sở hữu. Vào thế kỷ thứ V trớc công nguyên, Nhà nớc La Mã
đã ban cho công dân những quyền lực xã hội tỷ lệ với tài sản của họ. Chủ nô
chiếm hữu toàn bộ đất đai và các t liệu sản xuất khác, giai cấp nô lệ và những
tầng lớp nông dân tự do không có t liệu sản xuất, cho nên phụ thuộc hoàn
toàn vào giai cấp chủ nô. Rõ ràng nhà nớc chiếm hữu nô lệ là nhà nớc của
giai cấp hữu sản, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai cấp không có tài
sản. Cho nên thừa kế là một công cụ pháp lý chuyển quyền lực chính trị, kinh
tế từ đời này sang đời khác. Ph. Ăngghen nhận xét:
15



Để duy trì và bảo vệ địa vị xã hội của giai cấp chủ nô, pháp luật điều
chỉnh việc thừa kế di sản của ngời chết, cho phép ngời chủ nô để lại t liệu
sản xuất của mình cho các con của họ theo di chúc. Việc áp dụng chế độ di
chúc khiến cho ngời có của có thể chi phối đợc tài sản của mình ngay cả
sau khi đã chết. [1, tr. 262].
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô không những để lại cho
con cháu t liệu sản xuất mà còn để lại quyền lực xã hội của mình, và quan hệ
thừa kế đợc dịch chuyển từ thế hệ này đến thế hệ kế tiếp, có nghĩa là quyền
lực xã hội đợc lu truyền từ đời này sang đời khác. Quyền lực xã hội này

đợc thiết lập đối với giai cấp chủ nô, cho phép họ nô dịch giai cấp nô lệ.
Trong chế độ phong kiến và t bản chủ nghĩa, nền tảng xã hội đợc
hình thành và phát triển dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất, giai cấp
thống trị bóc lột ngời lao động bằng các phơng thức mới nh địa tô và giá
trị thăng d. Tuy nhiên, phơng thức bóc lột sức lao động có khác nhau, nhng
bản chất của xã hội không thay đổi. Khi nghiên cứu về bản chất xã hội và tính
chất kinh tế của thừa kế trong xã hội t bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ ra: Quyền
thừa kế mang ý nghĩa xã hội nhng dần dần nó đem lại cho ngời thừa kế một
quyền lực suốt đời. Quyền lực đó đợc hình thành trên nền tảng của sở hữu t
nhân và để bóc lột sức lao động của ngời khác". [74. tr. 37].
Trong xã hội t bản, ngời thừa kế thừa hởng quyền sở hữu t liệu
sản xuất. Dựa trên quyền lực kinh tế này, ngời thừa kế thiết lập quyền lực xã
hội đó với ngời lao động, họ dùng tài sản đợc thừa kế để tiếp tục bóc lột sức
lao động của ngời làm thuê, vì vậy bản chất của quyền thừa kế tài sản là phải
đảm bảo quá trình chuyển dịch quyền sở hữu các t liệu sản xuất từ đời này
qua đời khác, qua đó củng cố quyền t hữu của giai cấp bóc lột đối với các t
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nh vậy, vấn đề thừa kế có ý nghĩa quan
trọng đối với giai cấp t sản, nhng với ngời lao động thì không có ý nghĩa
thực tế đối với họ.
16



Nghiên cứu về quyền thừa kế trong chế độ t bản chủ nghĩa, C. Mác cho
rằng, học thuyết về thừa kế của những ngời CNXH không tởng sai lầm lớn,
họ quan niệm quyền thừa kế không có hậu quả pháp lý, mà nó là một nguyên
nhân kinh tế của cơ cấu xã hội đơng thời và đòi hỏi phải hủy bỏ quyền thừa
kế. C. Mác đã chỉ ra:
Luật dân sự nói chung, luật thừa kế nói riêng, nó không phải là
nguyên nhân mà nó là hậu quả, là kết quả đợc sinh ra từ cơ cấu kinh tế của

xã hội, mà cơ cấu đó dựa sự chiếm hữu t nhân về t liệu sản xuất, khi quyền
thừa kế bị tiêu diệt sẽ là hậu quả tất yếu dẫn đến việc thay đổi chế độ xã hội, mà
chế độ đó sẽ thủ tiêu sở hữu t nhân đối với t liệu sản xuất. [74 tr. 336].
Chính từ quan điểm về thừa kế nh trên, cho nên trong Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản C. Mác và Ph. Ăng-nghen đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy
rằng cuộc cách mạng của giai cấp vô sản muốn xoá bỏ chế độ t bản chủ
nghĩa, tiêu diệt hoàn toàn giai cấp bóc lột thì phải dùng chuyên chính tớc
đoạt quyền sở hữu và quan hệ sản xuất t bản. Ngoài ra có thể áp dụng một số
biện pháp kinh tế khác là thủ đoạn không thể thiếu để đảm bảo đảo lộn toàn
bộ phơng thức sản xuất.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã chỉ cho cuộc cách mạng
XHCN ở những nớc có điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau thì những biện
pháp, cách thực hiện khác nhau. Nhng đối với những nớc tiên tiến nhất thì
những biện pháp sau đây có thể áp dụng khá phổ biến:
1- Tớc đoạt sở hữu ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của Nhà nớc;
2- Đánh thuế theo mức độ lũy tiến thật cao;
3- Xóa bỏ quyền thừa kế. [38, tr. 78].
Nh vậy, ở một nớc t bản chủ nghĩa nào đó mà quyền thừa kế của cá
nhân về t liệu sản xuất bị xóa bỏ, thì quyền sở hữu về t liệu sản xuất cũng bị
triệt tiêu và chế độ xã hội sẽ thay đổi từ chế độ xã hội dựa trên t hữu chuyển
sang chế độ xã hội dựa trên công hữu về t liệu sản xuất. Trong chế độ này
17



loại trừ đợc yếu tố ngời này bóc lột sức lao động của ngời khác, đó là xã
hội XHCN mà bản chất của xã hội là đảm bảo quyền lợi cho đa số ngời lao
động không ngừng đợc nâng cao, dần dần đáp ứng đợc đầy đủ các nhu cầu
của ngời lao động.
Cuộc cách mạng XHCN ở Liên Xô và các nớc XHCN khác của giai

cấp vô sản đã lật đổ giai cấp bóc lột và xóa bỏ chế độ sở hữu t nhân, vì sở
hữu t nhân đối với t liệu sản xuất chủ yếu là mầm mống bóc lột lao động
làm thuê. Trong xã hội t bản, lao động chỉ là một phơng tiện để tăng thêm
lao động tích lũy cho giai cấp t sản, những ngời làm thuê là giai cấp vô sản
không tạo ra sở hữu của giai cấp vô sản. Ngợc lại, thu nhập của ngời vô sản
chỉ đủ chi phí cho bản thân để tái tạo ra sức lao động để phục vụ cho giai cấp
bóc lột.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, các nớc trong khối XHCN ở Liên
Xô và Đông Âu bị tan dã nhng Việt Nam và các nớc XHCN khác đã đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển cơ chế tập trung có kế hoạch sang quản lý
kinh tế theo cơ chế thị trờng định hớng XHCN nhằm giải phóng sức lao
động, phát huy mọi nguồn lực của xã hội trong việc phát triển kinh tế của đất
nớc.
Chế độ XHCN đợc xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng công hữu
hoá t liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, tài nguyên thiên nhiên trong lòng
đất...những tài sản này thuộc sở hữu nhà nớc. Cá nhân có quyền sở hữu đối
với thành quả lao động của mình là thu nhập hợp pháp, của cải để dành, vốn
và các t liệu sản xuất đầu t vào sản xuất kinh doanh trong các thành phần
kinh tế. Tài sản mà cá nhân có đợc là do quá trình lao động tạo ra, cho nên cá
nhân có quyền để lại cho những ngời thừa kế hởng.
Trong chế độ XHCN, t liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu toàn dân,
do vậy, quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền thừa kế là sự kế thừa thành quả
lao động của cá nhân, của gia đình và các giá trị văn hoá của thế hệ này đối
18



với thế hệ khác. Thế hệ sau tiếp tục khai thác các giá trị đó và thành quả lao
động của ông cha, tiếp tục tạo ra của cải vật chất cho mình và xã hội để xây
dựng một xã hội công bằng, văn minh.

Nh vậy, mỗi nhà nớc điều chỉnh quan hệ thừa kế theo phơng pháp
khác nhau phụ thuộc vào lập trờng, quan điểm của giai cấp thống trị và bản
chất của nhà nớc. Để điều chỉnh quan hệ thừa kế đạt hiệu quả, nhà nớc ban
hành hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ điều chỉnh quan hệ tài sản trong đó
có quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế.
Tiếp cận vấn đề thừa kế dới nhiều góc độ khác nhau thấy đợc bản
chất của thừa kế trong các chế độ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, trong các xã
hội đều có điểm chung là nhà nớc phải thừa nhận và bảo hộ quyền thừa kế
của cá nhân với t cách là quyền của con ngời.
2. Quá trình phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu, mục tiêu điều
chỉnh pháp luật các quan hệ thừa kế
Trong cuộc sống, pháp luật đóng một vai trò quan trọng, hớng dẫn
các chủ thể thực hiện hành vi xử sự và đảm bảo cho lợi ích cá nhân đợc thực
hiện phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Mặt khác, pháp luật là phơng tiện
điều hành và quản lý xã hội, cho nên nhà nớc dùng pháp luật quản lý xã hội
nhằm đạt đợc mục đích đặt ra.
Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật có đối tợng và phơng pháp
điều chỉnh phù hợp nhằm hớng tới mục tiêu nhất định. Đối với ngành luật
dân sự, mục tiêu chính là điều chỉnh các quan hệ tài sản nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội và tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
nhân dân. Để thực hiện mục tiêu đó, chế định thừa kế đóng vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh chuyển dịch t liệu sản xuất, thành quả lao động và các
giá trị văn hoá của thế hệ trớc cho thế hệ sau.
Phát triển kinh tế và xã hội là sự phát triển có tính toàn diện, bền vững.
Quá trình phát triển đó có sự tác động qua lại giữa hai mặt, kinh tế và xã hội.
19



Sự phát triển của kinh tế làm thay đổi các quan hệ xã hội. Kinh tế phát triển

gắn liền với việc giải quyết công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu
nhập của ngời lao động là tiền đề thoả mãn các nhu cầu văn hoá, tinh thần
của cá nhân. Mặt khác, quá trình thay đổi cơ cấu xã hội đó làm cơ sở cho việc
phát triển ổn định bền vững của kinh tế. Khi nhu cầu của cá nhân đợc đáp
ứng, ngời lao động sẽ phát huy hết khả năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học, an tâm đầu t và lao động sản xuất, làm ra nhiều của cải cho gia đình và
xã hội.
Sự phát triển của kinh tế-xã hội gắn liền với sự phát triển của các quan
hệ sở hữu, bởi vì quan hệ sở hữu quyết định đến việc phân phối thành quả lao
động, ảnh hởng trực tiếp đến lợi ích của các giai cấp trong xã hội. Trong xã
hội có giai cấp đối kháng, quan hệ sản xuất dựa trên nền tảng là sở hữu t
nhân, t liệu sản xuất chủ yếu tập trung trong tay giai cấp thống trị và đợc
chuyển cho các thế hệ con cháu theo trình tự thừa kế, vì thế điều chỉnh quan
hệ thừa kế phải gắn liền với việc điêu chỉnh các quan hệ sở hữu. Cá nhân có
tài sản có quyền tự do đầu t vào sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực và
ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tài sản của họ để lại cho ngời nào thừa
kế, là quyền định đoạt theo di chúc của ngời để lại di sản.
ở những nớc có nền kinh tế phát triển, cơ cấu tài sản của cá nhân
không ngừng thay đổi, ngoài tài sản là đất đai, t liệu sản xuất... tài sản vô
hình là đối tợng của sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế của một quốc gia. Giá trị tài sản vô hình ngày càng phát triển
theo nhu cầu phát triển kinh tế của thế giới, vì vậy pháp luật cần phải điều
chỉnh quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế của cá nhân đối với những tài sản là
đối tợng của quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
thị trờng.
Trong xã hội XHCN, t liệu sản xuất chủ yếu thuộc chế độ sở hữu toàn
dân. Cá nhân có quyền sở hữu những t liệu sản xuất không thuộc tài sản của
20




toàn dân. Nhà nớc khuyến khích cá nhân đầu t trí tuệ, công sức, tài sản và
vốn để sản xuất kinh doanh dới các hình thức pháp luật cho phép. Tài sản của
cá nhân đợc pháp luật bảo hộ, cá nhân có quyền để lại thừa kế tài sản của
mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.
ở Việt Nam, trong thời kỳ bao cấp, hình thức sở hữu t nhân không
đợc phát triển. Trong trờng hợp đợc phép lao động riêng lẻ (hộ cá thể), thì
cá nhân có quyền sở hữu t liệu sản xuất nhỏ phục vụ kinh tế gia đình, pháp
luật cho phép cá nhân để lại thừa kế những t liệu sản xuất đó (Điều 27 Hiến
pháp 1980). T liệu sản xuất chủ yếu là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, cá nhân
không có quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất. Khi kinh tế thị trờng hình
thành, để khuyến khích cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp an tâm đầu
t phát triển sản xuất, nhà nớc cho phép cá nhân, các chủ thể khác có quyền
sử dụng đất và đợc phép chuyển quyền sử dụng đất, trong đó có quyền để lại
thừa kế và nhận thừa kế là quyền sử dụng đất để các thế hệ con cháu tiếp tục
sản xuất kinh doanh, làm giầu cho mình, cho gia đình và cho xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với sự phát triển của các
quan hệ sở hữu. Trong các chế độ xã hội khác nhau thì nhu cầu điều chỉnh các
quan hệ sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ sở hữu là tiền đề của quan hệ
thừa kế, do vậy pháp luật phải điều chỉnh quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc.
Quan hệ dân sự chủ yếu là các quan hệ tài sản, mỗi chế định dân sự
điều một nhóm quan hệ tài sản với những đặc trng riêng, vì thế mỗi chế định
dân sự có vai trò khác nhau trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản đó.
Chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ tài sản liên quan đến quá trình
phát triển kinh tế-xã hội và thoả mãn các nhu cầu của cá nhân và đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo điều kiện cho sở hữu t nhân tồn tại và phát triển.
Trong các xã hội, sở hữu t nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản
của họ. Tuy nhiên, tuỳ từng chế độ xã hội khác nhau dẫn đến cơ cấu tài sản
21




của sở hữu t nhân không giống nhau, cho nên di sản thừa kế rất đa dạng.
Việc chuyển dịch di sản từ bố mẹ cho các con, ông bà cho cháu là sự kế thừa
và phát triển của sở hữu t nhân. Ngời thừa kế nhận di sản tiếp tục đầu từ vào
sản xuất kinh doanh tạo ra của cải cho gia đình và xã hội. Quá trình chuyển
dịch tài sản gắn liền với quá trình phát triển các quan hệ kinh tế-xã hội, các
quan hệ sở hữu trong đó có sở hữu t nhân.
Pháp luật về thừa kế điều chỉnh quan hệ tài sản (thuộc sở hữu t nhân)
trong gia đình, đảm bảo quyền bình đẳng, giữ vững tình đoàn kết giữa các
thành viên trong gia đình. Pháp luật của mỗi quốc gia qui định diện và hàng
thừa kế khác nhau. Tuy nhiên, những ngời cùng hàng thừa kế không phân
biệt địa vị xã hội, năng lực hành vi... đều có các quyền và nghĩa vụ nh nhau
trong việc hởng di sản của ngời chết để lại và phải thực hiện nghĩa vụ tơng
ứng với phần di sản hởng. Khi phân chia di sản ngời thừa kế có quyền nhận,
từ chối nhận di sản hoặc chuyển quyền thừa kế của mình cho những ngời
thừa kế khác cùng hàng hởng. Những ngời thừa kế đợc hởng di sản là vốn
hoặc t liệu sản xuất, tiếp tục đầu t, duy trì phát triển khối tài sản của họ,
trong đó có tài sản là di sản thừa kế.
Quan hệ thừa kế hình thành dựa trên quan hệ gia đình, quan hệ thừa kế
đợc phái sinh từ quan hệ sở hữu, do đó sự phát triển kinh tế của xã hội, của
gia đình không thể tách rời quan hệ thừa kế. Tuy nhiên, quan hệ thừa kế có
tính đặc trng là mang yếu tố tình cảm trong chuyển dịch các giá trị văn hoá,
tinh thần của gia đình, dòng tộc liên quan đến phong tục, tập quán, truyền
thống của dân tộc, cho nên pháp luật về thừa kế đóng vai trò quan trọng trong
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mỗi dân tộc có những phong tục, tập quán riêng đợc hình thành và
lu truyền trong xã hội, phản ánh nhu cầu cơ bản của nhân dân. Những tập
quán này thể hiện truyền thống đạo đức và nhu cầu tín ngỡng của từng dân

tộc.
22



ở nớc ta, Nhà nớc luôn tôn trọng và tạo điều kiện để nhân dân giữ
gìn bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá mang đậm đà bản sắc dân tộc. Các
đờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc đợc ghi nhận trong các văn kiện
của Đảng và trong Hiến pháp và pháp luật. Điều 8 BLDS qui định: Việc xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc,
tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp....
Trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế nói riêng, các giá
trị văn hoá và truyền thống uống nớc nhớ nguồn của nhân dân ta nh phong
tục thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên gắn liền với việc thừa kế tài sản. Việc thờ
cúng đợc thực hiện theo ý chí của ngời để lại thừa kế hoặc do những ngời
thừa kế thoả thuận. Đây không những là phong tục, tập quán còn là bản sắc
văn hoá của dân tộc cần đợc giữ gìn và lu truyền cho thế hệ sau. Trong
BLDS, Điều 670 BLDS qui định: Trong trờng hợp ngời lập di chúc để lại
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, phần di sản đó không đợc chia thừa
kế và giao cho ngời đợc chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện nghĩa
vụ thờ cúng.... Trờng hợp, ngời lập di chúc dành một phần di sản là nhà ở,
quyền sử dụng đất làm thờ cúng, thì ngời quản lý di sản khai thác tài sản,
hởng hoa lợi, lợi tức, một phần dùng làm thờ cúng, phần khác chi dùng cho
bản thân. Nếu ngời thực hiện nghĩa vụ thờ cúng không có điều kiện quản lý
di sản thì giao cho ngời thừa kế khác tiếp tục quản lý và thực hiện việc thờ
cúng.
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế thế giới có tính toàn cầu hoá, thì
sự hình thành và phát triển của các quan hệ tài sản, sự giao thoa giữa các nền
văn hoá mang tính tất nhiên, vì vậy pháp luật về thừa kế có vai trò tạo ra môi
trờng ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ kinh tế của các nhà đầu t

nớc ngoài làm tăng tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia.
Trong cơ chế thị trờng, t liệu sản xuất quan trọng là vốn và quyền sở
hữu trí tuệ, nhà đầu t sẽ đầu t trực tiếp vốn và công nghệ vào sản xuất kinh
23



doanh nh xây dựng hạ tầng cơ sở, nhà máy, hoặc đầu t gián tiếp thông qua
thị trờng chứng khoán... Nh vậy, các nhà đầu t có thể là ngời nớc ngoài
và công dân của quốc gia đó. Mặt khác, cơ cấu tài sản của cá nhân không chỉ
là t liệu sản xuất chủ yếu nh đai đai, còn là vốn và tài sản vô hình đã đầu t
vào sản xuất kinh doanh. Để điều chỉnh các quan hệ tài sản này, pháp luật
quốc gia phải tơng thích với pháp luật quốc tế, ghi nhận các quyền của ngời
nớc ngoài trong các quan hệ tài sản trong đó có quan hệ thừa kế. Từ đó tạo
đợc niềm tin của các nhà đầu t đối với pháp luật của nhà nớc, khuyến
khích các nhà đầu t an tâm làm ăn lâu dài tại một quốc gia ổn định về chính
trị, minh bạch về pháp lý.
Hiên nay, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo cơ chế thị trờng định
hớng XHCN, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do vậy công dân Việt Nam và
ngời nớc ngoài không có quyền sở hữu đất đai. Tuy nhiên, cá nhân có quyền
sử dụng đất thông qua giao đất, thuê đất, giá trị quyền sử dụng đất, vốn và tài
sản cá nhân đầu t vào sản xuất kinh doanh là di sản thừa kế. Ngoài ra, pháp
luật cho phép công dân Việt Nam có quyền sở hữu nhà ở và các công trình xây
dựng gắn liền với quyền sử dụng đất, có quyền để lại và nhận thừa kế nhà ở,
quyền sử dụng đất.
Để khuyến kích các nhà đầu t là ngời Việt Nam định c ở nớc
ngoài và ngời nớc ngoài đầu t vào Việt Nam, pháp luật qui định họ có
quyền sở hữu nhà ở theo qui định của Luật Nhà ở. Nhà ở là di sản thừa kế
đợc chuyển cho ngời thừa kế theo qui định của pháp luật nơi họ là công dân
và theo qui định của pháp luật thừa kế của Việt Nam.

Quyền thừa kế của ngời nớc ngoài đợc qui định tại Điều 767 BLDS
-Thừa kế theo pháp luật có yếu tố nớc ngoài:
1.Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nớc mà ngời
để lại thừa kế có quốc tịch trớc khi chết.
2. Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của
24



nớc nơi có bất động sản.
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân,
quan hệ tài sản gồm: quan hệ sở hữu, hợp đồng, bồi thờng thiệt hại, thừa kế.
Các quan hệ tài sản đợc hình thành trong quá trình sản xuất lu thông hàng
hoá và trong giao lu dân sự. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ này nhằm đạt
đợc hai mục tiêu chính: thứ nhất, là phát triển kinh tế-xã hội. Sản xuất kinh
doanh là một quá trình tạo ra và tiêu thụ hàng hoá với mục đích phục vụ các
nhu cầu của con ngời, cho nên nhu cầu của cá nhân tăng thì sản xuất phát
triển. Thứ hai, điều chỉnh các quan hệ tài sản để thoả mãn các nhu cầu vật chất
và tinh thần của cá nhân. Thông qua các giao lu dân sự, cá nhân đáp ứng
đợc các nhu cầu đó phù hợp với điều kiện, khả năng thực tế của mỗi ngời.
Để làm rõ đợc các mục tiêu trên, cần phải xem xét mối quan hệ tơng
tác của chế định thừa kế và các chế định dân sự khác trong việc điều chỉnh các
quan hệ tài sản thuộc đối tợng điều chỉnh của luật dân sự.
Trong giao lu dân sự, các quan hệ tài sản có mối liên hệ và ảnh hởng
lẫn nhau, cho nên hệ thống qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ đó có
sự tác động qua lại. Trong hệ thống pháp luật dân sự, các chế định có vai trò vị
trí khác nhau nhng có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Đối với các chế định dân sự, chế định sở hũ và chế định thừa kế có
ảnh hởng trực tiếp đến các chế định khác. Chế định thừa kế điều chỉnh các
quan hệ đợc phát sinh từ các quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của

các chế định khác, nh trong quan hệ hợp đồng nếu bên có nghĩa vụ chết thì
quyền và nghĩa vụ của họ cần phải giải quyết theo trình tự thừa kế. Hoặc trong
quan hệ sở hữu, cá nhân có quyền sở hữu tài sản, họ khai thác và sử dụng tài
sản bằng nhiều phơng thức khác nhau nh đầu t vào sản xuất kinh doanh,
tham gia vào các giao dịch dân sự nh mua bán, trao đổi. Trờng hợp cá nhân
chết, tài sản đợc chuyển dịch cho ngời khác theo qui định của pháp luật về
thừa kế.
25



Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có mối liên hệ mật thiết, quan hệ
này là tiền đề xác lập quan hệ kia. Quan hệ sở hữu xác lập dựa trên nhiều căn
cứ pháp lý nh thu nhập hợp pháp từ lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học,
thông qua việc mua bán, cho tặngNgoài ra, thừa kế là một căn cứ làm phát
sinh quyền sở hữu. Thông qua việc thừa kế, ngời hởng di sản trở thành chủ
sở hữu tài sản đợc thừa kế.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ trong cơ cấu
tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân đa dạng, gồm các loại tài sản hữu hình
và tài sản vô hình nh quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu quyền tác giả.
Đây là loại tài sản có tính đặc thù, đợc tạo ra bằng kết quả lao động sáng tạo
của cá nhân. Loại tài sản vô hình của ngời chết đợc chuyển dịch cho ngời
thừa kế theo qui định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật về thừa kế.
Trong quan hệ hợp đồng, các chủ thể tham gia vào giao dịch nhằm
thoả mãn các nhu cầu khác nhau, họ có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật
qui định. Nếu vi phạm các quyền và nghĩa vụ đó, chủ thể vi phạm phải chịu
trách nhiệm dân sự phù hợp với hành vi và mức độ vi phạm. Trờng hợp, một
bên chủ thể trong hợp đồng chết, vấn đề giải quyết hậu quả pháp lý liên quan
đến hợp đồng cần đặt ra. Nếu bên có quyền chết, pháp luật điều chỉnh việc kế
thừa thực hiện hợp đồng đến khi hợp đồng chấm dứt. Ví dụ: một ngời thuê

quyền sử dụng đất 20 năm, họ đã đầu t vào xây dựng nhà máy và hạ tầng cơ
sở, nhà máy hoạt động đựợc 3 năm thì ngời thuê chết. Trờng hợp này, quyền
tiếp tục sản xuất kinh doanh đợc chuyển cho ngời thừa kế đến hết thời hạn
thuê đất...
Đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng, đang thực hiện hợp đồng mà
chết, thì ngời thừa kế nhận di sản, phải thực hiện nghĩa vụ tơng ứng với
phần di sản đợc hởng.
Trong trách nhiệm ngoài hợp đồng, hành vi gây thiệt hại xâm phạm
đến tài sản, sức khoẻ, tính mạng của ngời bị thiệt hại thì buộc ngời gây thiệt

×