Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản của học sinh tiểu học lớp 4 trên cơ sở các bài Tập đọc_Khóa luận tốt nghiệp khoa GDTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.06 KB, 81 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Lời cảm ơn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy, Cô trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2 và các thầy cô giáo trường Tiểu học Thị Trấn
Sóc Sơn – Hà Nội, trường Tiểu học Cảnh Thuỵ – Bắc Giang. Qua
đây tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo Lê Bá
Miên – Giảng viên chính, Thạc sĩ môn Ngôn ngữ trường Đại học
Sư Phạm Hà Nội 2 đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trong khoa Giáo
dục Tiểu học. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến
tập thể giáo viên và học sinh trường Tiểu học Thị Trấn Sóc Sơn
và trường Tiểu học Cảnh Thuỵ đã tạo điều kiện để tôi tiến hành
điều tra thống kê kết quả nghiên cứu của đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2008
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
1
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Sinh viên
Lời cam đoan
Với thái độ và tinh thần làm việc nhiệt tình và nghiêm túc,
đặc biệt là sự hướng dẫn hết sức tận tình của ThS – GVC Khoa
Văn, thầy Lê Bá Miên, tôi đã hoàn thành đề tài “Tìm hiểu khả
năng xác định từ loại cơ bản của học sinh tiểu học lớp 4 trên
cơ sở các bài Tập đọc”. Tôi xin cam đoan kết quả này là của
riêng tôi, không trùng với kết quả của tác giả khác.
Hà Nội, ngày 29 tháng 4 năm 2008
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
2
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH


Tràn Thị Hoa
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
3
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
01
Lời cam đoan
02
Mục lục
03
Phần mở đầu
04
1. Lí do chọn đề tài 04
2. Lịch sử vấn đề 05
3. Mục đích nghiên cứu - Nhiệm vụ nghiên cứu 07
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu
6. Dự kiến cấu trúc của bài viết
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề về từ loại cơ bản và việc học từ loại
cơ bản của học sinh tiểu học
1. Khái niệm về từ loại
2. Việc dạy và học từ loại cơ bản ở tiểu học
Chương 2: Miêu tả, phân loại về khả năng xác định từ loại cơ
bản của học sinh tiểu học
Loại 1: Bà tập nhận biết và phân Loại từ loại cơ bản
1. Khả năng nhận biết về danh từ
2. Khả năng nhận biết về động từ
3. Khả năng nhận biết về tính từ

Loại 2: Bài tập nhận biết hiện tượng chuyển loại giữa các
từ loại cơ bản
Kết luận chung
TàI liêu tham khảo
Phụ lục
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
4
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quyết định số 2957/QĐ - ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã chỉ rõ vai trò và tính chất của Giáo dục Tiểu học:

Tiểu học là cấp học
nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách con người, đặt nền tảng vững chắc cho Giáo dục Phổ thông và
cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân”. Vì vậy, giáo dục Tiểu học cần
được chuẩn bị tốt về mọi mặt để học sinh tiếp tục học lên trên.
Trong chương trình tiểu học, Tiếng Việt là một môn chính, chiếm
nhiều tiết trong tuần. Trong các giờ Tiếng Việt, nhà trường đã cung cấp
cho học sinh những kiến thức về ngôn ngữ như: kiến thức về ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp, tu từ học - phong cách học tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng
giàu đẹp của tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, phân môn “Luyện từ và câu” có nhiệm vụ cung cấp
kiến thức tiếng Việt cho học sinh, trong đó có kiến thức về ngữ pháp học.
Trong lịch sử ngôn ngữ học, ngay từ thời Hi Lạp cổ đại, gắn liền với
sự ra đời và phát triển của ngữ pháp học, từ loại đã được nghiên cứu rất
sớm. Nó là một vấn đề cổ truyền bậc nhất của ngữ pháp học truyền thống.
ở tiếng Việt cũng như ở nhiều ngôn ngữ khác, từ loại được xem là một bộ
phận không thể thiếu được trong cơ cấu ngữ pháp học. Từ loại tiếng Việt

hết sức phong phú, có thể xếp thành hai nhóm chính: nhóm thực từ và
nhóm hư từ. Trong thực từ, có danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ,…;
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
5
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
trong hư từ có quan hệ từ, tình thái từ, trợ từ,… Trong danh từ, động từ,
tính từ lại bao gồm những loại nhỏ hơn. Vì vậy, việc tìm hiểu từ loại tiếng
Việt là rất rộng. Trong khuôn khổ của khoá luận này, tôi xin được tìm hiểu
về đề tài “Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản của học sinh tiểu
học lớp 4 trên cơ sở các bài Tập đọc”.
Xác định từ loại chính xác cho các từ trong văn bản tiếng Việt là vấn
đề rất quan trọng trong lĩnh vực xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Việc xác định này
sẽ hỗ trợ cho việc phân tích cú pháp các văn bản góp phần giải quyết tính
đa nghĩa của từ và trợ giúp các hệ thống rút trích thông tin đến ngữ nghĩa.
Hệ thống bài tập về từ loại có số lượng không nhiều song vấn đề từ loại
tiếng Việt được đưa vào giảng dạy ngay từ cấp tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông và lên cả đại học. Các bài tập trong sách giáo khoa là
cơ bản, đa số học sinh đều làm được do đó khó phân loại học sinh và phát
hiện học sinh khá, giỏi. Trong khi đó, để dạy học đạt hiệu quả cao cần phân
loại học sinh để các bài tập đưa ra không tạo sự nhàm chán hay khó quá đối
với các em. Qua điều tra thực tế việc xác định từ loại cơ bản của học sinh,
tôi nhận thấy còn những vấn đề tồn tại làm cho hiệu quả học từ loại tiếng
Việt chưa cao. Là một giáo viên tiểu học tương lai, tự nhận thấy tầm quan
trọng của việc bồi dưỡng kiến thức tiếng Việt cho học sinh, tôi mạnh dạn
chọn và thực hiện đề tài “ Tìm hiểu khả năng xác định từ loại cơ bản của
học sinh tiểu học lớp 4 trên cơ sở các bài Tập đọc”, với mong muốn được
học hỏi, nâng cao tri thức cho học sinh. Đồng thời đề ra một số biện pháp
thích hợp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bài giảng của mình sau này.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
6

Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề từ loại là một vấn đề xa xưa và cổ truyền bậc nhất của ngữ
pháp học truyền thống.
Học thuyết về từ loại ra đời từ thời cổ Hy Lạp gắn với tên tuổi của
nhà triết học Arixtôt. Thuở ấy từ loại đã được đặt trong quan hệ với lô gic, song
Arixtôt đã không gắn các từ loại với các phạm trù mà ông đề xuất. Ông chỉ chú ý
đến tính chất vị ngữ của động từ và cho rằng động từ thể hiện vị thể của phán
đoán. Danh từ thì được coi là tên gọi của các sự vật.
Các nhà ngữ pháp của học phái A lêch xăng đri định nghĩa danh từ và
động từ không phải theo các thành phần của phán đoán mà theo những khái niệm
do chúng biểu hiện: “Danh từ là từ loại biến cách chỉ vật thể đồ đạc, được phát
ngôn cả cái chung và cái riêng”. “Động từ là từ loại không biến cách và thể hiện
các hoạt động chủ động, bị động”.
Thế kỉ XVII - XVIII các nhà ngữ pháp duy lý lại đặt trở lại mối quan hệ
giữa từ loại và các phạm trù của lô gic, cụ thể là mối quan hệ giữa động từ với vị
thể của phán đoán. Danh từ và tính từ được giải thích như là những từ chỉ sự vật
không xác định nào đó qua một khái niệm đã xác định mà ngẫu nhiên đối với
bản chất sự vật.
Trong nhiều năm, mối quan hệ giữa từ loại và các phạm trù của lô gic
chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Phải đến cuối thế kỉ XIX vấn đề từ
loại tiếng Việt mới được bàn lại, theo đó vấn đề từ loại được xem xét:
Năm 1986, tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Từ
loại) quan tâm đến các vấn đề:
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
7
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
1) Bản chất và các đặc trưng của từ loại, tiêu chuẩn phân định từ loại.
2) Hệ thống các từ loại tiếng Việt.
3) Từ loại là các phạm trù của tư duy.

Năm 1999, tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb
Giáo dục nghiên cứu các vấn đề: khái niệm về từ loại, đối tượng, tiêu chí, mục
đích phân định từ loại. Đặc biệt tác giả đi sâu tìm hiểu hệ thống từ loại cơ bản,
ranh giới giữa từ loại cơ bản với từ loại không cơ bản.
Đến năm 2004 trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, khi nghiên
cứu về từ loại tiếng Việt Diệp Quang Ban đã đưa ra ba tiêu chuẩn để phân định
từ loại tiếng Việt: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức vụ cú pháp. Ngoài ra
khi bàn về vấn đề các lớp từ tiếng Việt, tác giả phân thành hai lớp lớn: thực từ và
hư từ. Trong đó, tác giả tập trung nghiên cứu ba từ loại thuộc lớp thực từ: danh
từ, động từ, tính từ.
Và gần với đề tài chúng tôi nghiên cứu là cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, 2006, tác giả Diệp Quang Ban - Hoàng Văn Thung đã dành ra một
chương nghiên cứu về từ loại tiếng Việt với trọng tâm là tiêu chuẩn phân định từ
loại và hệ thống từ loại tiếng Việt. Theo tác giả, hệ thống từ loại tiếng Việt có thể
sắp xếp thành hai nhóm:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ, số từ. đại từ.
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ); kết từ; tiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Đồng thời tác giả có sự lý giải cho cách sắp xếp nêu trên.
Những cuốn sách trên chỉ viết trên cơ sở lí luận mà không được thực
nghiệm ở trường Tiểu học. Nhận thức được tầm quan trọng của việc gắn lý
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
8
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
thuyết với thực tiễn, gắn việc tiếp thu tri thức và thực hành tri thức, chúng
tôi mạnh dạn tiến hành điều tra thực nghiệm về khả năng xác định từ loại
cơ bản của học sinh tiểu học. Từ đó, có cơ sở đề ra biện pháp tổ chức dạy
học phù hợp nhằm giúp học sinh xác định từ loại đạt hiệu quả tốt nhất.
3. Mục đích nghiên cứu - Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích sau:

- Tìm hiểu thực tế khả năng xác định từ loại cơ bản của học sinh.
Trên cơ sở đó nhận định đúng thực trạng đối tượng học sinh như nhau
thuộc các vùng khác nhau.
- Phân loại được từng đối tượng học sinh để có biện pháp dạy học
phù hợp giúp học sinh xác định đúng từ loại tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi thực hiện nhiệm vụ:
- Tìm hiểu lý thuyết về từ loại cơ bản.
- Trên cơ sở lí luận đã có, tiến hành khảo sát thực tế tại các trường
thuộc hai vùng khác nhau là nông thôn và thành thị với đối tượng học sinh
như nhau.
- Miêu tả, phân loại và so sánh được kết quả điều tra.
- Đề xuất biện pháp dạy học hợp lý.
4. phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
9
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
1. Đọc và tra cứu tài liêu.
2. Điều tra thống kê tư liệu thực
3. Mô tả, phân loại và so sánh tư liệu
4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Quá trình nghiên cứu đề tài được tiến hành tuần tự theo các bước sau:
1. Đọc lý thuyết có liên quan đến đề tài.
2. Thống kê tư liệu điều tra được.
3. Xử lý tư liệu điều tra bằng các biện pháp: phân tích, phân loại và so sánh.
5. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu
5. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh thuộc khối lớp 4.

5. 2. Phạm vi nghiên cứu
Như chúng tôi đã trình bày trước đó, tìm hiểu về từ loại là một đề tài
rộng. Vì vậy, trong khuôn khổ của khoá luận này, chúng tôi chỉ đề cập
nghiên cứu một khía cạnh nhỏ là “Tìm hiểu việc xác định từ loại cơ bản
của học sinh tiểu học lớp 4 trên cơ sở các bài Tập đọc”. Từ đó đề xuất
một số biện pháp giảng dạy phù hợp và hiệu quả.
6. Dự kiến cấu trúc của bài viết
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
10
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
3. Mục đích nghiên cứu - Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu
6. Dự kiến cấu trúc của bài viết
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề về từ loại cơ bản và việc học từ loại cơ
bản của học sinh tiểu học
1. Khái niệm về từ loại
2. Việc dạy và học từ loại cơ bản ở tiểu học
Chương 2: Miêu tả, phân loại về khả năng xác định từ loại cơ
bản của học sinh tiểu học
Loại 1: Bà tập nhận biết và phân Loại từ loại cơ bản
1. Khả năng nhận biết về danh từ
2. Khả năng nhận biết về động từ

3. Khả năng nhận biết về tính từ
Loại 2: Bài tập nhận biết hiện tượng chuyển loại giữa các từ
loại cơ bản
Kết luận chung
Tài liêu tham khảo
Phụ lục
PHẦN NỘI DUNG
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
11
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỪ LOẠI CƠ BẢN VÀ VIỆC HỌC TỪ LOẠI
CƠ BẢN CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1. Khái niệm về từ loại
1.1. Khái niệm:
Từ loại là những lớp từ có cùng bản chất ngữ pháp được phân chia
theo ý nghĩa khái quát, theo khả năng kết hợp với các từ ngữ khác và thực
hiện những chức năng ngữ pháp nhất định ở trong câu. (Đinh Văn Đức -
Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại).
Từ loại là khái niệm chỉ sự phâ loại từ nhằm mục đích ngữ pháp,
theo bản chất ngữ pháp của từ. (Lê Biên - Từ loại tiếng Việt hiện đại)
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt - 2008 (trang 1327) định nghĩa “Từ
loại là phạm trù ngữ pháp bao gồm các từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý
nghĩa khái quát như: danh từ, động từ, tính từ,…”
1.2. Vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt
1.2.1. Phủ nhận sự tồn tại của từ loại, tác giả Hồ Hữu Tùng cho
rằng:tiếng Việt cơ cấu theo một lối khác hẳn so với các ngôn ngữ phương
Tây (không có sự biến đổi hình thái) do đó không có từ loại, mà tuỳ thuộc
vào vị trí trong câu mà có tính chất nhất định, một từ có thể có nhiều thuộc
tính khác nhau.

1.2.2. Thừa nhận sự tồn tại của phạm trù từ loại.Tuy nhiên trong nhóm
này có những khác biệt trong việc phân định, phân loại:

Thuần tuý ý nghĩa khái quát (Trần Trọng Kim)
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
12
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH

Chức vụ cú pháp (Phan Khôi): một từ có thể thuộc về nhiều từ loại khác nhau.

Khả năng kết hợp (Nguyễn Tài Cẩn)
- Khả năng làm trung tâm của cụm từ, ngữ.
- Khả năng làm thành tố phụ của ngữ.
1.3. Tiêu chí phân định từ loại
Trong tiếng Việt, người ta dựa vào ba tiêu chí sau đây để phân chia
các từ thành từ loại:
1.3.1. ý nghĩa khái quát
Ý nghĩa khái quát là ý nghĩa phạm trù có tính chất khái quát hoá cao;
nó là kết quả của quá trình trừu tượng hoá nghĩa của hàng loạt cái cụ thể:
danh từ chỉ sự vật; động từ chỉ hoạt động, trạng thái; còn tính từ chỉ đặc điểm, tính chất,…
1.3.2. Khả năng kết hợp
Khả năng kết hợp của một từ là năng lực tiềm tại của từ đó xuất hiện
trong một tổ hợp từ có nghĩa với tư cách một yếu tố thường trực trong tổ hợp từ
đó.
- Danh từ có khả năng kết hợp với tất cả, những, các, mọi, ,này, kia, đó,…
Ví dụ: tất cả những quyển sách đó.
- Động từ có khả năng kết hợp với hãy, đừng, chớ,…Ví dụ:đừng đi.
- Tính từ có khả năng kết với hơi, rất, lắm, quá,…Ví dụ: rất đẹp.
1.3.3. Khả năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp
Khả năng giữ chức vụ cú pháp trong câu thường được sử dụng như

một tiêu chuẩn hỗ trợ. Các từ thuộc một lớp nào đó có thể đảm đương
không phải một mà vài ba chức vụ cú pháp ở trong câu. Trong số các chức
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
13
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
vụ cú pháp đó thường có một hoăc vài chức vụ nổi lên rõ hơn có tính chất tiêu
biểu cho lớp từ đó.
- Danh từ thường làm chủ ngữ. Khi làm vị ngữ, danh từ thường phải
kết hợp với từ “là” (Ví dụ: Em là học sinh.)
- Động từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ, động từ mất
khả năng kết hợp với đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, cứ, hãy, đừng, chớ,…
- Tính từ thường làm vị ngữ. Khi đóng vai trò chủ ngữ tính từ mất khả
năng kết hợp với đã, đang, sẽ, đang, cũng, vẫn, cứ, rất, lắm, quá,…
1.4. Kết quả phân loại
Hệ thống từ loại tiếng Việt có thể sắp xếp thành hai nhóm, bao gồm
những từ loại sau đây:
Nhóm 1: danh từ, động từ, tính từ;
số từ;
đại từ.
Nhóm 2: phụ từ (định từ, phó từ);
kết từ;
kiểu từ (trợ từ và tình thái từ)
Trong khoá luận này, chúng tôi chỉ nghiên cứu trên ba lớp: danh từ,
động từ, tính từ - ba từ loại cơ bản trong SGK Tiếng Việt 4, tập 1.
A. Danh từ
Danh từ là thực từ có ý nghĩa thực thể (ý nghĩa chỉ “vật” hiểu rộng),
được dùng làm tên gọi các “vât”, kết hợp được về phía trước với từ chỉ
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
14
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH

lượng (những, các,…), về phía sau với các từ chỉ định (này, nọ,…) và
thường làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu.
Danh từ là một lớp từ lớn và đa dạng về ý nghĩa, về khả năng kết
hợp,…nên được phân thành nhiều lớp nhỏ theo những tiêu chuẩn khác
nhau, cụ thể:
1. Danh từ riêng và danh từ chung
Sự phân biệt danh từ riêng với danh từ chung căn cứ vào cách gọi tên
của chúng. Danh từ riêng là tên gọi cụ thể của từng cá thể, còn danh từ
chung là tên gọi của từng lớp sự vật đồng chất về một phương diện nào đó.
Về nghĩa, danh từ riêng không mang nghĩa, chúng là tên gọi của từng
người, tên địa danh, tên sách báo, tên gọi tổ chức,…
Danh từ chung là mảng từ lớn và đa dạng cần được xem xét ở môt số dạng khác
nhau.
2. Danh từ tổng hợp và danh từ không tổng hợp
Trong lớp lớn danh từ chung, việc tách ra lớp nhỏ danh từ tổng hợp là cần
thiết không chỉ do ý nghĩa mà còn bởi đặc điểm ngữ pháp của bản thân lớp
con này. Những danh từ chung không mang đặc điểm ý nghĩa và ngữ pháp
của danh từ tổng hợp làm thành lớp còn lại đối lập với nó và được gọi là
danh từ không tổng hợp.
Danh từ tổng hợp chỉ chung nhiều sự vật đồng chất xét ở một phương
diện nào đó, như: cây cối, bạn bè, xe cộ,…
Danh từ không tổng hợp chỉ cả lớp sự vật đồng chất, hoặc thông qua
từng cá thể sự vật như là đại diện cho cả lớp, như: bụi cây, bạn tôi, xe máy,…
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
15
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Cả danh từ tổng hợp và danh từ không tổng hợp đều có thể xem xét ở
các phương diện sau đây.
3. Danh từ vật thể, danh từ chất thể, danh từ trừu tượng, danh từ tập
thể, danh từ chỉ hiện tượng thời tiết

3.1. Danh từ vật thể
Danh từ chỉ vật thể bao gồm 4 lớp con
- Danh từ chỉ đồ vật: ao, nhà, bàn, bát,…
- Danh từ chỉ thực vật: cỏ, lúa, táo, bưởi,…
- Danh từ chỉ động vật: cá, chim, trâu, bò,…
- Danh từ chỉ người: học sinh, công nhân, bác sĩ,…
3.2. Danh từ chất thể
Danh từ chất thể chỉ các chất thuộc cả ba thể là: thể rắn, thể lỏng, thể
khí, như: đá, nước, hơi, khói,…
3.3. Danh từ trừu tượng
Danh từ trừu tượng gồm các danh từ chỉ các vật thể tưởng tượng,
như: thần, thánh, ma, quỷ,…; và các danh từ chỉ khái niện trừu tượng, như: lí luận,
trí tuệ,…
3.4. Danh từ tập thể
Danh từ tập thể là danh từ chỉ những vật khác nhau về loại cụ thể nhưng
thường đi kèm với nhau thành một tập hợp hoàn chỉnh, và mỗi tập hợp này
làm thành một “đơn vị rời” đếm được như: bầy, bọn, bộ, đám, đàn, lũ,…
3.5. Danh từ chỉ hiện tượng thời tiết
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
16
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Danh từ chỉ hiện thời tiết có khả năng kết hợp với một số loại từ
riêng, như: bão, chớp, lũ, lụt, gió, mưa, sấm,…
Ví dụ: ánh đi với chớp
cơn đi với bão, gió, mưa
tiếng đi với sấm, sét

4. Danh từ đơn vị
Trong số các danh từ vật thể có thể tách ra những từ sẵn chứa trong
mình ý nghĩa “đơn vị rời” có thể đo đếm được, chúng tập hợp lại dưới cái

tên chung là danh từ đơn vị.
Đặc điểm chung của danh từ đơn vị là dễ dàng đứng trực tiếp sau số từ
chính xác, bao gồm hai lớp con:
- Danh từ đơn vị khoa học là những khái niệm trừu tượng chỉ đơn vị đo
lường do các nhà khoa học nghiên cứu và quy ước đặt ra, như: mét, lít, gam, oát,…
- Danh từ đơn vị dân gian là tên gọi các vật chứa hay các hành động
tạo lượng do nhân dân quy ước lấy làm đơn vị, như: thùng (thóc), bát
(phở), mâm (cỗ), bó (rạ),…
5. Danh từ đếm được và danh từ không đếm được
5.1. Danh từ đếm được
Danh từ đếm được là những danh từ có khả năng xuất hiện trực tiếp
sau số từ chính xác, gồm hai nhóm con:
5.1.1. Danh từ đếm được tuyệt đối
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
17
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Danh từ đếm được tuyệt đối là danh từ dễ dàng xuất hiện trực tiếp sau
số từ chính xác, gồm các nhóm con:
- Danh từ chỉ đơn vị đại lượng quy ước khoa học, như: mét, lít, sào, mẫu,

- Danh từ chỉ đơn vị hành chính, tổ chức xã hội,…, như: nước, tỉnh,
xã, đoàn, đội, nghề, môn,…
- Danh từ chỉ không gian, như: nơi, chốn, xứ, vùng, miền, khoảnh,…
- Danh từ chỉ đơn vị thời gian, như: dạo, khi, hồi, lúc,…
- Danh từ chỉ màu sắc, mùi vị, âm thanh, như: màu, mùi, tiếng,…
- Danh từ chỉ chức vị, như: nhà văn, nghệ sĩ, giám đốc,…
- Danh từ chỉ lần của sự việc, như: lần, lượt, phen, chuyến,…
- Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng, như: tài năng, trí tuệ,…

5.1.2. Danh từ đếm được không tuyệt đối

Danh từ đếm được không tuyệt đối là những danh từ vốn không đếm
được, nhưng trong một số trường hợp sử dụng khá quen thuộc chúng có thể
xuất hiện trực tiếp sau số từ chính xác.
Ví dụ: Làng này có ba ao năm giếng,…
Đồng hồ ba kim, bàn tám chân,…
5.2. Danh từ không đếm được
Lớp danh từ này bao gồm:
5.2.1. Danh từ không đếm được là danh từ chất thể
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
18
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Các danh từ chất thể, như: muối, dầu, hơi,…không có khả năng trực
tiếp đứng sau số từ chính xác. Chúng có thể đo đếm được thông qua các
loại đơn vị thích hợp biểu thị bằng danh từ đơn vị quy ước và một số loại từ
thích hợp.
Ví dụ:
- hai tấn sắt, hai xe sắt, hai đống sắt,…
- hai lít dầu, hai phao dầu, hai thùng dầu,…
5.2.2. Danh từ không đếm được là danh từ tổng hợp
Các danh từ tổng hợp, như: áo quần, binh lính, xe cộ,…không có khả
năng trực tiếp đứng sau số từ chính xác. Chúng chỉ có thể đo đếm được
thông qua các danh từ đơn vị quy ước, một số danh từ tập thể thích hợp
dùng làm danh từ đơn vị.
Ví dụ:
- hai bộ quần áo, hai tấn quần áo;
- hai đàn gà vịt, hai xe gà vịt, hai tạ gà vịt;
- hai chục ki-lô-mét đường sá.
B. Động từ
Động từ là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình.Động từ
thường kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, đừng, chớ,…

Ví dụ: Mai anh ấy sẽ đi huế.
Chức vụ cú pháp điển hình của động từ là làm vị ngữ. Khi làm chủ
ngữ, động từ mất khả năng kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, đừng, chớ,

Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
19
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
Động từ được phân chia thành hai lớp con: lớp động từ không độc lập và
lớp động từ độc lập.
1. Động từ không độc lập
Động từ không độc lập là những động từ về ý nghĩa, biểu thị quá
trình chưa đầy đủ, chưa chọn ven; hoặc ý nghĩa quá trình không trực tiếp
gắn với hành động hay trạng thái cụ thể. Về khả năng kết hợp và đảm
nhiệm chức năng cú pháp, do đặc điểm ý nghĩa, lớp động từ này khi làm
thành phần câu thường đòi hỏi kết hợp với thực từ hay tổ hợp thực từ để
khỏi “trống nghĩa”
Lớp động từ không độc lập bao gồm một số nhóm sau đây:
1.1. Nhóm động từ tình thái
Động từ tình thái thường biểu thị các ý nghĩa tình thái (có tính chất
quá trình) khác nhau, như:
- Từ chỉ sự cần thiết: cần, nên, phải,…
- Từ chi ý chí - ý muốn: chực, dám, đang tâm, muốn, mong muốn,…
- Từ chỉ khả năng: có thể, không thể, chưa thể,…
- Từ chỉ sự “chịu đựng” hoặc “tiếp nhân”: bị, được, mắc, phải,…

1.2. Nhóm động từ quan hệ
Động từ trong nhóm này biểu thị các ý nghĩa quan hệ (có tính chất
quá trình) giữa các thực thể, quá trình hay đặc trưng, bao gồm:
- Quan hệ tồn tại: còn, có, biến, mất, …
- Quan hệ biến hoá: thành, hoá ra, trở thành, hoá thành,…

Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
20
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
- Quan hệ diễn biến theo thời gian: bắt đầu, tiếp tuc, kết thúc,…
- Quan hệ so sánh, đối chiếu: giống, khác, như, tựa,…
- Quan hệ diễn biến trong không gian: gần, xa, ở,…
2. Động từ độc lập
Động từ độc lập là những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành
động hoặc trạng thái). Ý nghĩa quá trình có thể nhận thức được tương đối
rõ, ngay cả trong trường hợp động từ không có từ khác đi kèm để bổ nghĩa.
Có thể phân chia động từ độc lập thành một số nhóm nhỏ:
2.1. Các nhóm động từ độc lập phân loại theo phụ từ đi kèm, gồm:
2.1.1. Động từ chỉ hành động
Động từ chỉ hành động gồm những động từ kết hợp được với hãy,
đừng, chớ và với lắm, quá; không kết hợp được với rất, hơi, khí: viết, đánh, đi, làm,

2.1.2. Động từ chỉ trạng thái
Động từ chỉ trạng thái, bao gồm:
- Những động từ kết hợp được với hãy, đừng, chớ; với lắm, quá và với
rất, hơi, khí: yêu, ghét, thương, giận,…
- Những động từ không kết hợp được với “xong”: thấy, hiểu, mỏi, biết,

2.2. Các nhóm động từ phân loại theo thực từ đi kèm
Bao gồm:
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
21
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
- Động từ không đòi hỏi thực từ đi kèm: nói, cười, khóc, ngồi, đứng,
bò,… thường chỉ các hành động cơ thể hoặc chỉ trạng thái tâm lý. Những
động từ này được gọi là động từ nội động.

- Động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tượng tác động: đánh (giặc),
trồng (cây), viết (báo),…Những động từ này được gọi là động từ ngoại động.
- Động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng phát / nhận và đối
tượng được lợi hay bị thiệt hại do tác động của hành động nêu ở động từ:
cho (em) (một món quà), gửi (bạn) (một bức thư),…
- Động từ có hai thực từ đi kèm biểu thị đối tượng sai khiến và nội dung
sai khiến: nhờ (bạn) (xách nước), bảo (con) (học),…
- Động từ có thực từ đi kèm chỉ hướng dời chuyển, hoặc chỉ đích dời
chuyển của hành động, hoặc nêu đối tượng bị tác động dời chuyển: lăn vào,
chạy ra, đi xuống, đẩy xe vào nhà,…

C. Tính từ
Tính từ là lớp từ chỉ ý nghĩa đặc trưng (đặc trưng của thực thể hay
đặc trưng của quá trình).
Tính từ có khả năng kết hợp với phụ từ, với thực thể đi kèm (để bổ nghĩa
cho tính từ); không có khả năng kết hợp được với hay, đừng, chớ.
Đối với lớp tính từ, các vấn đề thường được nhắc đến làm phân biệt
những lớp con dưới đây:
- Tính từ chỉ tính chất và tính từ chỉ quan hệ.
- Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ và tính từ chỉ đặc
trưng xác định thang độ.
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
22
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
1. Tính từ tính chất và tính từ quan hệ
1.1. Tính từ tính chất
Tính từ tính chất được hiểu là những tính từ vốn mang ý nghĩa tính
chất, chứ không phải vay mượn nó ở lớp từ khác. ý nghĩa tính chất ở đây
rất phong phú về nội dung, ví dụ
- Ý nghĩa các loại phẩm chất như: tốt, xấu, đẹp, đúng, sai…

- Ý nghĩa về lượng: nhiều, ít, cao, thấp, xanh, đỏ,…
1.2. Tính từ quan hệ
Tính từ quan hệ là tính từ mà ý nghĩa chỉ tính chất của chúng được
vay mượn ở ý nghĩa thực thể của danh từ.
Tính từ chỉ quan hệ có thể có gốc là danh từ chung, cũng có thể có gốc là
danh từ riêng.
Ví dụ:
- Tính từ có quan hệ với danh từ riêng: giọng (rất) Sài Gòn, thái độ (rất) Chí Phèo,

- Tính từ có quan hệ với danh từ chung: tác phong (rất) công nhân,
cung cách (rất) quý phái, thái độ (rất) cửa quyền…
2. Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ và tính từ chỉ đặc trưng
không xác định thang độ
2.1. Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ
Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ là tính từ có thể kết hợp với
các phó từ chỉ thang độ rất, hơi, khí, quá,… về phía sau.
Ví dụ: rất đẹp, rất anh hùng…, đẹp lắm, vui quá,…
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
23
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
2.2. Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ
Trong tiếng Việt có một nhóm nhỏ từ, xét cách hoạt động trong câu
và xét mặt ý nghĩa thì giống hệt tính từ, nhưng không kết hợp được với các
phó từ chỉ thang độ thường đứng trước tính từ. Đó là những tính từ chỉ đặc
trưng không xác định thang độ như: chính, công, chung, riêng, tư,… trong
các tổ hợp từ: vấn đề chính, quyền lợi chung, quỹ công, đời tư,…
Về nghĩa, Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ có thể là tính từ
chỉ tính chất hoặc tính từ quan hệ. Ví dụ:
Vấn đề chính = vấn đề có tính chất chính ( tính chất)
Quyền lợi chung = quyền lợi nói chung, không cụ thể (tính chất)

quyền lợi thuộc về mọi người (quan hệ)
Về hoạt động ngữ pháp, tính từ không thang độ thường làm yếu tố mở
rộng cho danh từ.
Ví dụ: thì thầm, róc rách,… trong các tổ hợp từ: giọng thì thầm, tiếng nước róc rách,

2. Việc dạy và học từ loại cơ bản ở tiểu học
2.1. Nội dung dạy từ loại cơ bản ở tiểu học
Về từ loại, ở tiểu học chỉ học các khái niệm danh từ, động từ, tính
từ, danh từ chung, danh từ riêng, tính từ chỉ tính chất chung không có mức
độ, tính từ chỉ tính chất có xác định mức độ, đại từ chỉ ngôi, ở chương trình
CCGD, nội dung kiến thức về từ loại nằm trong phân môn Từ ngữ - Ngữ
pháp học sinh được học ngay từ lớp 2. Đến chương trình Tiếng Việt 2000,
theo sự tăng dần độ khó của kiến thức, ở học kỳ 1 (lớp 4) học sinh mới
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
24
Khóa luận tốt nghiệp Trần Thị Hoa – K30B GDTH
chính thức được học các khái niệm về danh từ, động từ, tính từ. Các bài
Luyện từ và câu đề cập đến cách phân loại các từ loại cơ bản. Cách phân
loại này dựa vào các tiêu chí: ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và khả
năng đảm nhận các chức vụ ngữ pháp. Tuy nhiên ở tiểu học, sách giáo khoa
Tiếng Việt 4 mới chỉ giới thiệu một tiêu chí trong cách phân loại nêu trên,
tiêu chí về ý nghĩa khái quát theo tiêu chí này:

Danh từ là những từ chỉ sự vật.
Để giúp học sinh hiểu rõ hơn khái niệm sự vật sách giáo khoa nêu ra 5
nội hàm của khái niệm này. Sự vật gồm:
- Người: ông, bà, cha, mẹ, công nhân, nông dân,…
- Vật (đồ vật, con vật, cây cối,…): sông, núi, mèo, chó,…
- Hiện tượng (cái xảy ra trong không gian, thời gian mà người ta nhận
thấy): mưa, sấm, sét,…

- Khái niệm (chỉ các đối tượng có tính chất trừu tượng hoặc thuộc tư
duy) cuộc sống, cái đẹp,
- Đơn vị: con, cái, cơn,…
Sau khi đưa ra các khái niệm về danh từ sách giáo khoa dành riêng môt
tiết đề cập đến vấn đề phân chia danh từ thành danh từ riêng và danh từ
chung.
Danh từ chung là tên chung của một loại sự vật.
Ví dụ: núi, sông, xe,
Trường ĐHSP Hà Nội 2 K30B - GDTH
25

×