Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ_Khóa luận tốt nghiệp khoa GDTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.93 KB, 41 trang )

2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua một bài viết của nhà thơ Xuân Diệu, tôi tình cờ được đọc những
vần thơ dịch của Victor Hugo có nhan đề “Khi trẻ con xuất hiện”
Đẹp sao con trẻ! Với môi chúm chím đáng yêu
Lòng em dịu hiền tin cậy, giọng em muốn nói muôn điều
Tiếng khóc em dễ dàng chóng nín
Đưa mắt khắp nơi nhìn ngạc nhiên thương mến
Bốn phía hiến dâng cho đời cả tâm hồn,
Và sẵn sàng đưa má đón hôn!
Và quả thực đúng như Xuân Diệu nói: “Với những câu thơ như thế đưa
chúng ta vào thế giới trẻ con. Thế giới của mầm non, măng non, của chồi nụ,
của gà con, vịt con mới nở, chú bê con, của những hừng đông…”. Thế giới
trẻ con nguyên sơ và giản dị. Nhưng đó là sự bắt đầu cho cả thế giới. Ai cũng
từng có, trải qua rồi mới thành người lớn. Nhưng khi đã thành người lớn rồi
“Mỗi tâm hồn con người phải nhập môn, phải giác ngộ về cái thế giới trẻ con
kì diệu ấy.” (Xuân Diệu). Với những người nghệ sĩ sáng tác văn học cho
thiếu nhi đó không chỉ dừng lại ở sự “nhập môn giác ngộ đơn thuần” mà phải
như sự “hoá thân thành trẻ con”. Trong những người hoá thân ấy tôi muốn
nhắc đến nhà thơ, nhà văn Phạm Hổ. Con người mà cả cuộc đời mình chỉ
nuôi dưỡng, chăm chút cho ước mơ được làm Những bài thơ nho nhỏ:
Tôi chỉ mơ trong suốt cuộc đời
Được làm thơ cho các em tôi
Những bài thơ nho nhỏ
Như những hòn bi xanh đỏ
Các em chơi
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học


Suốt cuộc đời làm thơ tặng các em là niềm vui đơn sơ mà trọn vẹn của
Phạm Hổ. Đó cũng là lý do giúp ông dựng nên trong thơ mình một thế giới
trẻ thơ đầy khám phá bất ngờ thú vị. Thế giới đầy “phong vị trẻ thơ” mà các
em bước vào là nhận ra thế giới của mình, rồi tự nhiên vui chơi chạy nhảy.
Với người lớn lại thấy đó như là tuổi thơ của chính mình. Cả người lớn, trẻ
nhỏ đều bị cuốn vào thế giới trẻ trung, vui tươi, sống động.
Điều gì đã giúp nhà thơ tạo dựng nên cả một thế giới diệu kì nhường ấy?
Phải chăng đó là do nhà thơ đã “đắc đạo” trở thành trẻ con, làm thơ với cách
cảm cách nghĩ của trẻ? Và chính cái nhìn trẻ thơ ấy đã giúp nhà thơ xứ Bình
Định đến và ở trong lòng các em?
Là một bạn đọc rất yêu thơ Phạm Hổ đồng thời là một giáo viên tiểu học
yêu trẻ, muốn truyền tình yêu thơ ông đến các em nhỏ, tôi đã quyết định chọn
đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình là: “Cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho
thiếu nhi của Phạm Hổ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm
Hổ” người viết không có tham vọng đi sâu vào phân tích 20 tập thơ của nhà
thơ để tìm ra mọi biểu hiện nhỏ nhất của cái nhìn trẻ thơ trong thơ ông. Mục
đích của khoá luận là:
- Tìm hiểu và đưa ra một số biểu hiện rõ nét nhất của cái nhìn trẻ thơ
trong thơ Phạm Hổ về mặt nội dung và nghệ thuật.
- Tìm hiểu con đường hình thành phong cách thơ Phạm Hổ.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phạm Hổ được mệnh danh là cây đại thụ của nền văn học thiếu nhi Việt
Nam. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu lớn nào tìm
hiểu toàn bộ sự nghiệp và thơ của ông, có chăng chỉ dừng lại là những bài
nhận định trên sách, báo, tạp chí, website. Trong những bài viết ấy các tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học

đều dành tặng nhà thơ niềm ưu ái, sự mến mộ, cảm phục trước một tấm lòng
hết mình vì tuổi thơ.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Bình nhận định: “Võ Quảng và Phạm Hổ
cùng viết cho nhi đồng và về thế giới tự nhiên lắm, bầu bạn gần gũi với trẻ
nhỏ nhưng đã tạo cho mình một phong cách rất riêng.Võ Quảng ưa vẽ thiên
nhiên nhiều hình vẻ, nhiều màu sắc trong dạng động. Phạm Hổ lại say mê cái
hồn nhiên tươi mát, cái dí dỏm đến tinh nghịch trong cách nhìn cách nghĩ của
trẻ thơ” [8, tr30]. Và theo ông chính bởi nhờ sự say mê ấy đã giúp Phạm Hổ
sáng tác nên được những bài thơ như Xe cứu hỏa mà tứ thơ có sức “thấu đằng
sau giấy” sống mãi trong lòng bạn đọc.
Nhà văn Nguyên Ngọc lại nhấn mạnh “Bằng những tác phẩm bao giờ về
kích thước cũng nhỏ bé, anh đã tạo nên được một thế giới của riêng anh,Thế
giới ấy của anh mà anh tặng cho các em và đã trở thành thế giới của các em,
phong phú ngày càng phong phú hơn, rộng và sâu hơn, đẹp đẽ hơn” [6].
Trong thơ Phạm Hổ có một thế giới mang đậm phong cách của nhà thơ.
Nhưng nhà thơ không chiếm giữ lấy làm của riêng mà với cả tấm lòng ông
dành tặng cho trẻ. Thật kì diệu thay, thế giới ấy ngay lập tức được các em
đón nhận và yêu quí. Các em thỏa sức hồn nhiên vui chơi, khám phá những
bất ngờ thú vị, thậm chí tô vẽ cùng nhà thơ để tạo nên “một thế giới của
tưởng tượng đầy những nhầm lẫn và thắc mắc. Sự truyền cảm của thơ Phạm
Hổ chính là ở chỗ đó”[7, tr153].
Đoàn Giỏi nói: Đọc thơ Phạm Hổ thấy “toát lên một ý vị nồng nàn như mùi
hương không trông thấy của những bông hoa đẹp khiến ta bâng khuâng nhớ
mãi …” Lã Thị Bắc Lý lại thấy “tươi mát và trẻ trung”. Sự ý vị nồng nàn và
sự tươi mát trẻ trung ấy có từ đâu nếu không phải là từ “sự hòa nhập của thế
giới thơ với thế giới trẻ thơ làm một ” [7, tr155]. Sự hòa nhập này đã giúp
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
cho thơ Phạm Hổ đến và ở trong trái tim trẻ, thôi thúc các em vươn tới cái

đẹp, cái tốt trong cuộc sống.
Đi lý giải về điều tạo nên thế giới trẻ thơ trong thơ Phạm Hổ, Tế Hanh
cho rằng: “Anh có một hồn thơ đa dạng, rung động với tất cả gợi lên trong
không gian và thời gian”[10, tr18]. Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa “chính là
nghệ thuật hóa thân vào trẻ thơ hay Phạm Hổ đã tìm được chìa khóa mở cửa
tâm hồn trẻ thơ “. Đến Lã Thị Bắc Lý “Ngoài lòng nhiệt tình say mê còn đòi
hỏi Phạm Hổ phải nắm bắt được đặc điểm tâm lý lứa tuổi để lựa chọn cách
viết cho phù hợp”[5, tr110].
Như vậy trong các bài viết, bài nghiên cứu các tác giả đã nhắc đến thế
giới trẻ thơ trong thơ Phạm Hổ và coi đó là điểm tạo nên sức hút trong thơ
ông. Tuy nhiên các tác giả chưa đề cập đến vấn đề để dựng nên thế giới trẻ
thơ như vậy Phạm Hổ cần có một cái nhìn trẻ thơ. Cái nhìn thơ trẻ của tuổi
nhỏ đã được nhà thơ gìn giữ trong bao năm. Cái nhìn ấy biểu hiện xuyên suốt
các tác phẩm ở cả nội dung và nghệ thuật trong mảng thơ viết cho thiếu nhi
của Phạm Hổ. Nó góp phần làm nên phong cách của nhà thơ xứ Bình Định
này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong khoảng thời gian ngắn tác giả khóa luận chỉ giới hạn nghiên cứu
trong phạm vi 111 bài thơ của nhà thơ được lựa chọn đưa vào “Tuyển tập
Phạm Hổ”,(1999), Nxb Văn học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm ra biểu hiện rõ nét nhất của cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho
thiếu nhi của Phạm Hổ.
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
- Tìm hiểu con đường hình thành phong cách thơ Phạm Hổ.

6. Giả thuyết khoa học
Đi tìm hiểu cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ
cũng như con đường hình thành phong cách nghệ thuật của nhà thơ sẽ giúp
bản thân tác giả đề tài nâng cao được năng lực cảm thụ, phân tích thơ Phạm
Hổ. Đồng thời thiết kế được một số giờ học ngoại khóa giúp trẻ thêm yêu
thích thơ Phạm Hổ nói riêng và thơ văn nói chung, từ đó góp phần phát triển
tư duy, tình cảm cho trẻ.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, SGK.
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.Thơ
1.1.1. Khái niệm
Thơ là thể loại văn học chiếm được đông đảo cảm tình của nhiều bạn
đọc nhưng để đưa ra một khái niệm chính xác thơ là gì thật khó. Bởi có bao
nhiêu nhà thơ, nhà nghiên cứu, người yêu thơ lại có bấy nhiêu định nghĩa
khác nhau về thơ.
Ở đây tôi chọn khái niệm về thơ theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống thể hiện những
tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh
và nhất là có nhịp điệu”

[3, tr309].
Thơ mang chức năng của Văn học nghệ thuật nói chung là phản ánh
cuộc sống. Thơ không nằm trong địa hạt huyền bí xa xôi tránh xa cuộc sống

con người. Ngược lại, thơ ở đó giữa cuộc đời như hoa giữa nắng. Đời sống là
ngọn nguồn sáng tạo, nuôi dưỡng và là điểm đến của thơ. Thơ thiên về thể
hiện đời sống tâm hồn cảm xúc của con người. Thơ chỉ có khi con người có
nhu cầu tự biểu hiện một cách mãnh liệt. Nhưng tình cảm trong thơ không
phải là thứ tình cảm cá nhân hạn hẹp. Tình cảm đó trước tiên mang dấu ấn cá
nhân của chính tác giả nhưng khi đọc lên người khác có thể thấy được tiếng
lòng của mình nơi đó. Tình cảm xã hội cao đẹp mà thơ hướng đến giúp tô
điểm cho thế giới tâm hồn của con người.
1.1.2. Đặc trưng của thơ
Vẫn theo Từ điển thuật ngữ Văn học: “Thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm
súc cô đọng, ngôn ngữ có nhịp điệu là những đặc trưng cơ bản của thơ”[3,
tr310].
1.1.2.1. Thơ là tiếng nói của tình cảm
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Đây là đặc trưng cơ bản đầu tiên của thơ. Nói tới thơ là nói tới những
xúc cảm mạnh mẽ. Tình cảm không phải là yếu tố duy nhất trong thơ nhưng
đó là yếu tố trước nhất, sau cùng và có ở mãi trong thơ. Không một ai có thể
sáng tác thơ và đọc thơ với một trái tim khô cằn cảm xúc. M.Gorki cho rằng
“Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm”. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định:
“Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”.
Tạo hóa ban tặng cho con người có một trái tim để yêu. Ở nhà thơ trái
tim ấy khi yêu thương hay căm giận, ước mơ và khát vọng, thứ tha…tất cả
đòi hỏi sự mãnh liệt của cảm xúc. Nhà thơ phải biết thao thức, rung cảm đến
từng tế vi trước những điều của cuộc sống cùng với nhu cầu khao khát tự
biểu hiện khi đó thơ mới được hình thành.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là ai cũng có thể làm thơ và được
gọi là nhà thơ. Để trở thành nhà thơ cần có tài năng, niềm say mê, sự lao
động không mệt mỏi cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Làm thơ không bao

giờ là công việc dễ dàng. Đó là công việc mà người nghệ sĩ để có được một
câu thơ hay, một bài thơ đẹp đã phải trả bằng bao mồ hôi nước mắt, bằng cả
máu của chính bản thân mình.
1.1.2.2. Thơ là sự hàm súc cô đọng.
Trong văn chương nghệ thuật đòi hỏi sự hàm súc cô đọng. Trong thơ sự
đòi hỏi ấy ở mức độ cao hơn. Thơ yêu cầu “ý tại ngôn ngoại”. Hình thức số
lượng câu chữ của bài thơ có thể rất ngắn nhưng khi khép lại nó phải để lại
trong người đọc bao dấu ấn xúc cảm, bao suy nghĩ về cuộc sống con người.
1.1.2.3. Ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính chất đặc trưng
của Văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Trong đó ta có thể xem ngôn ngữ
thơ ca là ngôn ngữ biểu hiện rõ nhất cho đặc trưng của ngôn ngữ văn học.
Đặc điểm của ngôn ngữ Văn học: tính chính xác, tính hình tượng, tính hàm
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
súc, tính biểu cảm đều được thể hiện tập trung với yêu cầu cao nhất trong
ngôn ngữ thơ ca.
Ngôn ngữ thơ ca giàu sức biểu cảm và là ngôn ngữ có nhịp điệu. Nhịp
điệu ấy tạo nên sự cảm giác vận động của sự sống, chống lại sự đơn điệu, đơn
nhất của văn bản nghệ thuật.
Đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:
Em ơi/Ba Lan/mùa tuyết tan
Đường Bạch Dương/sương trắng /nắng tràn
Với ngắt nhịp 2/2/3 và 3/2/2 kết hợp gieo vần “an” nhà thơ cho ta cảm
nhận được về sự vận động của thế giới: sự tan ra của từng khối băng, làn
sương giăng giăng cùng sự lan tỏa của nắng.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ tiêu biểu cho Văn học nghệ thuật. Nhà thơ
phải là người cần mẫn nhất, chăm chỉ nhất để lựa trong ngôn ngữ cuộc đời
tìm ra những hạt ngọc cho tác phẩm của mình. Nguyễn Du là người đã rất

thành công khi làm được điều đó. Chỉ một chữ dùng “tót” của thi sĩ thôi cũng
đủ lột tả được hết bản chất của nhân vật Mã Giám Sinh:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Hay với Hồ Tôn Hiền chỉ qua một chữ “ngây” thôi:
“Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”
Người đọc đã nhận thấy sự tráo trở, phản trắc của Hồ Tôn Hiến sau này
cũng là điều dễ hiểu, điều tất nhiên.
1.1.3. Điểm nhìn nghệ thuật
1.1.3.1. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học
“Vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm là
điểm nhìn nghệ thuật” [9, tr113].
Điểm nhìn nghệ thuật chiếm giữ một vai trò quan trọng trong sáng tạo
nghệ thuật. Bởi vì nó thể hiện sự chú ý, quan tâm cùng đặc điểm của chủ thể
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
người nghệ sĩ. Cùng một sự vật trong thế giới nhưng mỗi người nghệ sĩ có
điểm nhìn khác nhau, mang dấu ấn phong cách khác nhau sẽ đem lại cho
người thưởng thức những cái nhìn mới đối với cuộc sống .Chính bởi vậy “Sự
đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ sự đổi thay điểm nhìn” [3, tr113]
1.1.3.2.Điểm nhìn nghệ thuật có thể được phân chia thành các kiểu
điểm nhìn khác nhau
Nhìn xa, gần, trên, dưới, lệch, thẳng… là điểm nhìn không gian.
Nhìn từ hiện tại, quá khứ, tương lai… là điểm nhìn thời gian
Nhìn theo tầm mắt của nhân vật có đặc điểm giới tính lứa tuổi hoặc quan
hệ thân sơ là điểm nhìn tâm lý.
Ngoài ra còn có điểm nhìn quang học, điểm nhìn theo một mô hình văn
hóa, điểm nhìn theo một hệ tư tưởng…
Trong một tác phẩm điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương tiện
nghệ thuật, ngôi kể, cách xưng gọi sự vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu và bởi

vậy nó cung cấp cho người đọc một phương diện để tiếp cận tác phẩm, một
cơ sở để nhận ra đặc điểm phong cách người nghệ sĩ.
1.2. Văn học thiếu nhi
1.2.1. Khái niệm
“Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc
phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu
nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học
thông thường(cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi, như: Đôn-
Ki-hô-tê của M.Xéc-van-tex, Rô-bin-xơn Cơ-ru-xô của Đ.Đi-phô, Gu-li-vơ
du kí của Gi.Xuýp-tơ, Túp lều bác Tôm của H.Bi-sơ- Xtâu,…” [3, tr412].
Ở nước ta đã có từ rất sớm những thể loại và tác phẩm văn học được
sáng tác mục đích dành cho thiếu nhi. “Văn học viết cho thiếu nhi chỉ thực sự
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
hình thành với tư cách một bộ phận văn học từ khi nhà xuất bản Kim Đồng
được thành lập (17-6-1957)” [6, tr94].
Văn học thiếu nhi bao gồm văn học dành cho thiếu nhi và sáng tác văn
học của chính các em nhỏ. Ở đây trong bài viết của mình tôi chỉ đề cập tìm
hiểu những sáng tác thơ viết cho thiếu nhi cùng một số đặc trưng riêng của
thể loại này.
1.2.2. Thơ viết cho thiếu nhi
Thơ viết cho thiếu nhi nằm trong sáng tác nghệ thuật nói chung và văn
học thiếu nhi nói riêng vì thế nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm sáng tác
nghệ thuật ngôn từ. Nhưng do đối tượng phục vụ của nó chủ yếu là trẻ mầm
non và tiểu học - lớp bạn đọc nhỏ tuổi nên thường có những nét đặc thù
riêng.
1.2.2.1. Thơ viết cho thiếu nhi thường ngắn gọn, rõ ràng.
Những bài thơ viết cho các em về mặt nội dung không đề cập đến những
vấn đề quá lớn lao của đời sống mang tầm tư tưởng rộng lớn và hàm chứa nội

dung triết lý sâu sắc. Chủ đề của các tác phẩm chỉ là các sự vật của thế giới
thiên nhiên: cây cỏ, hoa lá, loài vật…Hoặc đó là quan hệ thân thuộc trong gia
đình giữa trẻ với ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, thầy, cô giáo…Qua chủ đề đó các
tác giả dạy cho trẻ tình yêu với thiên nhiên, với loài vật vốn gần gũi trong đời
sống của các em. Qua thơ dạy cho trẻ một số cách ứng xử mà lứa tuổi thiếu
nhi cần có.
Bài thơ Ai dậy sớm của Võ Quảng:
Ai dậy sớm
Bước ra vườn
Cau ra hoa
Đang chờ đón!
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Ai dậy sớm
Đi ra đồng
Cả vừng đông
Đang chờ đón!
Ai dậy sớm
Chạy lên đồi
Cả đất trời
Đang chờ đón!
(Ai dậy sớm)
Nhà thơ không nặng nề đưa ra những lời khuyên, dạy bảo trẻ phải dậy
sớm. Tác giả đưa ra phần thưởng của người dậy sớm, của em bé dậy sớm là
hương hoa, là ánh bình minh, là cả đất trời mênh mông buổi sáng chờ đợi…
Được chào đón như vậy các em thấy thú vị xiết bao! Từ niềm vui thích ấy các
em sẽ lập tức muốn dậy sớm và yêu thích tập thể dục.
Cứ thủ thỉ tâm tình, thủ thỉ trò chuyện, từng bước dẫn dắt các em vào
cuộc sống, hướng các em tới những tình cảm yêu thương tốt đẹp, những rung

động thẩm mĩ trong sáng là nét đặc trưng của những trang thơ viết cho thiếu
nhi.
Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện
trong cả câu văn, câu thơ, phù hợp đặc điểm sinh lý của trẻ. Câu thơ thường
ngắn, sử dụng thể thơ 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ hoặc lục bát mang âm
hưởng cúa các bài vè dân gian:
Cây dây leo
Bé tẻo teo
Ở trong nhà
Lại bò ra
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Ngoài cửa sổ
Và nghển cổ
Lên trời cao
Hỏi “Vì sao?”
Cây trả lời:
- Ra ngoài trời
Cho dễ thở…
(Cây dây leo)
Các tác giả thường sử dụng những câu thơ ngắn kết hợp với sự biến hóa
của những hình ảnh, nhịp điệu cùng với việc đưa vào đó các yếu tố vui tươi
hóm hỉnh, ngộ nghính của tuổi thơ… làm cho bài thơ sinh động, vui tươi và
có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh với trẻ.
1.2.2.2.Thơ viết cho các em từ ngữ được sử dụng rất chọn lọc, giản dị,
trong sáng và dễ hiểu. Các tác giả không sử dụng những biện pháp tu từ hàm
ngôn, ẩn dụ, ngôn từ đa nghĩa khó hiểu mà chú ý sử dụng nhiều từ tượng
hình, tượng thanh, nhiều động từ, nhiều tính từ miêu tả. Việc sử dụng này
vừa tạo nên sắc thái vui tươi lại vừa có tác dụng khêu gợi, kích thích trí tưởng

tượng ở trẻ. Ví dụ như trong bài thơ Bắp cải xanh:
Bắp cải xanh
Xanh mát mắt
Lá cải sắp
Sắp vòng tròn
Búp cải non
Nằm ngủ giữa
(Bắp cải xanh)
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Hay như trong bài thơ Hoa kết trái nhà thơ đã sử dụng hàng loạt các tính
từ miêu tả và các tính từ chỉ màu sắc (tim tím, vàng vàng, đỏ, trắng…) vẽ lên
trước mắt bé một khu vườn thật sinh động:
Hoa cà tim tím
Hoa mướp vàng vàng
Hoa lựu chói chang
Đỏ như đốm lửa
Hoa vừng nho nhỏ
Hoa đỗ xinh xinh
Hoa mận trắng tinh
Rung rinh trước gió…
(Hoa kết trái)
Đọc bài thơ các bé có thể tưởng tượng ra khu vườn và hình dung ra từng
loại hoa với màu sắc, hình dáng rất cụ thể.
1.2.2.3. Yếu tố truyện trong thơ và yếu tố thơ trong truyện
Đặc điểm này là yếu tố nổi bật trong sáng tác văn học cho thiếu nhi. Bởi
khác với thơ viết cho người lớn, thuần túy là hình tượng cảm xúc. Thơ viết
cho các em có thể dễ dàng đem “kể” cho người khác nghe.
Một cô giáo đã dựa vào bài thơ “Mời vào” của nhà thơ Võ Quảng để

dựng lại và kể thành một câu chuyện Ai gọi đấy? nhằm dạy trẻ biết cảnh giác
khi trông nhà cho ba cho mẹ.
Các bài thơ khác như: Dàn hoa tặng mẹ, Chiếc cầu mới, Chú bò tìm
bạn, Xe chữa cháy, Bướm em hỏi chị, Gạch đỏ… là những bài thơ đọc xong
có thể “kể” lại được.
Chất thơ bay bổng hòa quyện với chất truyện giúp cho những sáng tác
cho trẻ thơ không hề bị khô khan, cứng nhắc mà nhẹ nhàng, thấm sâu, nuôi
dưỡng tâm hồn trẻ, theo các em đi suốt cả cuộc đời.
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
CHƯƠNG 2. CÁI NHÌN TRẺ THƠ TRONG THƠ
VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ
2.1. Cái nhìn trẻ thơ trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ
2.1.1 Cái nhìn bầu bạn yêu thương
Với người lớn chúng ta sự nhận thức về vị trí của con người trong thế
giới tự nhiên là rất rõ ràng. Ta nhận thức: trong nấc thang tiến hóa của tự
nhiên con người là động vật cao cấp nhất, thông qua lao động của bàn tay và
khối óc đã chinh phục được tự nhiên, bắt tự nhiên phải thuần phục mình. Từ
sự nhận thức như vậy dẫn đến khi nhìn thế giới người lớn mang cái nhìn của
kẻ bề trên, khát khao chiếm lĩnh. Nhưng với trẻ nhỏ lại khác. Trẻ mới bước
đầu nhận thức: có một thế giới vô cùng rộng lớn và đầy bí ẩn ở xung quanh
các em. Các em ở bên trong, ở giữa thế giới ấy với rất nhiều mối quan hệ:
quan hệ giữa người với người, giữa người với sự vật, giữa người với truyện
đã qua, chuyện chưa tới, giữa kỉ niệm với ước mơ, giữa cái có thực và cái
không bao giờ có, giữa cái tốt với cái xấu… Những quan hệ thật là giàu có và
với một sức sống tràn trề, trẻ muốn tìm hiểu khám phá tất cả mối quan hệ ấy.
Nhu cầu giao tiếp của bé với thế giới là rất lớn. Một đặc điểm khác trong tâm
lý tính cách trẻ là các em rất sợ một mình. Trẻ rất cần bạn bè để cùng nhau
chia sẻ khám phá thế giới diệu kì. Và thế là với trẻ thơ cái nhìn đầu tiên của

các em trước thế giới là cái nhìn bầu bạn yêu thương.
Trong thơ Phạm Hổ bao trùm toàn bộ tác phẩm thơ viết cho thiếu nhi
của nhà thơ ta nhận ra một cái nhìn bầu bạn yêu thương. Hiện lên qua sáu tập
thơ viết về tình bạn của Phạm Hổ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những
người bạn im lặng, Những người bạn nhỏ, Ai kêu đấy, Bạn nào thích nhảy…
là hình ảnh của một em bé rất thèm bạn, luôn muốn đi tìm để kết thêm được
nhiều bạn mới.
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Người bạn đầu tiên là một chú bò rất ngộ nghĩnh đáng yêu thật đáng để
làm quen và kết thân:
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai
Bò chào: “Kìa anh bạn”
Lại gặp anh ở đây!”
Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm ò” tìm gọi mãi…
(Chú bò tìm bạn)
Quan sát một hình ảnh rất thực trong cuộc sống: Chú bò uống nước bên
bờ sông một buổi chiều. Bằng cái nhìn thân ái “Phạm Hổ đã khéo léo tạo ra
một không gian đông đúc, ấm áp của tình bạn giữa bò và mặt trời, nước, mây,
và cả bóng của bò nữa ”(Lã Thị Bắc Lý). Đọc bài thơ ai cũng có cảm giác thú
vị! Đằng sau điều đó, ta thấy chú bò này được Phạm Hổ gửi gắm một tâm

trạng rất trẻ nhỏ là thèm bạn và muốn đi tìm kết bạn.
Những người bạn nhỏ trong thơ Phạm Hổ còn là một chú ngựa con, chú
bê, mèo, gà, vịt, ngan, ngỗng, chim, rong và cá, thỏ, gấu trắng, gấu đen … Đó
là những con vật trong cuộc sống hàng ngày trẻ vẫn thường gặp, thường chơi
đùa cùng. Sự gần gũi với loài vật cùng sự quan sát tỉ mỉ đã giúp nhà thơ
khám phá ra một tình bạn rất đẹp:
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Tro bếp làm đệm
Mèo ta khoanh tròn
Cả hai cùng ấm
Cùng ngủ thật ngon
( Mèo và tro bếp )
Chú mèo nhỏ xưa nay vẫn thường nằm xó bếp có ai để ý. Với cái nhìn
thơ trẻ tác giả đã chú ý quan sát hình ảnh đó, phát hiện ra giữa tro bếp và mèo
con có một tình thân gắn bó rất đáng yêu. Cả hai người bạn đang cùng chia sẻ
những điều tốt đẹp và cùng trở nên thật ngoan.
Giữa chó và mèo có phải chỉ là sự gầm gừ, đuổi bắt không ngừng như
trong câu thành ngữ “ Cắn nhau như chó với mèo ”? Trong suy nghĩ của trẻ
nhỏ không có sự bất đồng ấy, ngược lại chó và mèo con lại là những người
bạn vô cùng thân thiết qua trò chơi ú tim:
Rủ nhau chơi ú tim
Giờ đến phiên chó trốn
Mèo đảo mắt nhìn quanh
Chó nấp đâu giỏi gớm!
Bỗng òa chỗ khe tủ
Chó để lộ cái đuôi
Rón rén mèo đến nơi
Òa! Chộp ngay lưng bạn

Chó vẫn thú vị lắm
Cứ nhe răng ra cười
“Không! mình nấp giỏi thật
Lỗi chỉ tại cái đuôi!”
(Chơi ú tim )
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Chơi ú tim là một trò chơi dân gian được các em nhỏ rất yêu thích và
hay chơi. Theo các em cảm giác ẩn náu, đi tìm, rồi “òa” lên khi phát hiện chỗ
bạn nấp thật vô cùng thú vị. Sức hấp dẫn của bài thơ Chơi ú tim là ở chỗ tác
giả đã dựng lại rất sống động trò chơi này. Trong bài thơ chú chó và mèo
cùng rủ nhau chơi. Mèo chốn trước và đã bị phát hiện, giờ đến phiên mình
chó trốn thật kĩ. Nhưng dù đã ẩn nấp rất kín đáo thì chó con vẫn bị mèo phát
hiện. Nguyên nhân là do để lộ cái đuôi. Lẽ ra chó con phải thấy buồn nhưng
chú chó này vẫn “ Nhe răng ra cười ”.Vì sao? Vì chú có lí lẽ của riêng mình
“Mình trốn giỏi thật - Lỗi chỉ tại cái đuôi” . Cái lí lẽ nghe có có vẻ rất vô lý
nhưng thật ra lại rất có lý. Bởi nó phù hợp với logic ngây thơ, rất đúng với
tâm lý dễ tin dễ hồ hởi trước mọi điều của trẻ. Nếu không yêu trẻ, không giữ
cho mình cách nhìn của trẻ nhà thơ sẽ không dựng lại được trò chơi thú vị
cùng cái lí lẽ đáng yêu đến như vậy.
Những người bạn nhỏ không chỉ có các con vật mà còn là biết bao cây
cối trong vườn. Trong khu vườn tình bạn có Bạn hàng rào đứng xung quanh
làm nhiệm vụ bảo vệ mà khi mở ra là:
Một màu xanh êm đềm
Trăm hương thơm vị ngọt
Qua con mắt nhà thơ cây thị, lựu, na, chuối, ổi, bưởi, roi, dứa, nhãn, vải,
cam, dưa hấu, sầu riêng,… không còn là các loại cây quả vô tri nữa mà như
được khoác lên mình sự màu nhiệm của phép thần cổ tích. Mỗi loại cây đều
được thổi vào đó một linh hồn, thức dậy trò chuyện cùng nhau, thủ thỉ cùng

với trẻ. Này đây là một quả thị với niềm ước mong:
Người qua nhìn lên
Thị thơm nhìn xuống
Thị muốn theo về
Chơi cùng trẻ xóm
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Những bông hoa khế cũng điệu đà yêu tắm gội:
Hoa từ cành cao
Rủ nhau xuống giếng
Tắm xong hoa tím
Theo gầu nước lên
(Khế)
Cây sung già góc vườn theo năm tháng vẫn tự hào về ích lợi của mình:
Sung ghế cùng cơm
Sung ngâm dưa muối
Sung tôi ngày xưa
Qua ngày túng đói
(Sung)
Rồi Củ cà rốt, Bắp cải xanh, cô Lang, cô Muống,… những loài rau củ
vốn rất bình thường giản dị rất ít khi có mặt trong thơ, cũng được Phạm Hổ
nhắc tới và qua con mắt nhà thơ hiện lên thật ngọt ngào và hấp dẫn.
Trong suốt các tập thơ Phạm Hổ người ta thấy mọi ranh giới giữa người
và thế giới tự nhiên đều bị xóa bỏ. Hay nói đúng hơn trong con mắt của Phạm
Hổ không hề tồn tại ranh giới giữa người và vật chỉ có một thế giới duy nhất.
Thế giới của bạn bè được dựng nên gồm những Người bạn nhỏ, Bạn trong
vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào. Trong thế giới của
tình bạn đó bạn Phạm Hổ không chỉ dừng lại ở việc biết đến, gọi tên đơn
thuần mà còn hiểu rõ đặc điểm, tính cách riêng của từng người bạn.

Chú Đinh được miêu tả đầy yêu mến, từ hình dáng tới ích lợi và đặc biệt
là tính cách không thể trộn lẫn cùng ai:
Chân nhọn, đầu tà
Thân hình thẳng tuột
Chôn mình vào cột
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Chôn mình vào tường
Cho chị treo gương
Cho em treo ảnh
Xong rồi, hóm hỉnh
Đinh ta tươi tỉnh
Nhô đầu nhìn quanh
( Đinh )
Trong hai câu thơ tác giả đã khéo léo dùng tới hai từ láy gieo vần inh là
“hóm hỉnh”, “ tươi tỉnh”. Chiếc Đinh treo tường vô tri vô giác lập tức biến
mất thay vào đó là một cậu bé vui vẻ, tinh nghịch. Đặc biệt chú Đinh cũng
mang niềm khao khát khám phá thế giới. Bằng chứng là sau khi hoàn thành
tốt công việc của mình thì “Đinh ta tươi tỉnh – Nhô đầu nhìn quanh”.
Bạn thước chăm chỉ, bạn chổi điệu đà, bạn dao và kéo biết yêu ông đá
mài, rế ngoan biết đợi chờ, cầu chì biết bắc cầu cho điện qua, loa truyền
thanh biết hát biết cười mà đôi khi bị cúm giọng cũng khàn khàn.
Và người bạn thật không thể quên là Xe chữa cháy:
Mình đỏ như lửa
Bụng chứa nước đầy
Tôi chạy như bay
Hét vang đường phố
Nhà nào bốc lửa
Tôi dập liền tay

Ai gọi chữa cháy?
“Có … ngay! Có… ngay!”
( Xe chữa cháy )
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Phạm Hổ đã để cho người bạn này xuất hiện thật ấn tượng. Xe chữa
cháy tự miêu tả về mình: mình đỏ rực, bụng chứa đầy nước, chạy nhanh như
bay và nhất là tiếng hét thì thật to khiến ai đi trên đường cũng phải sợ. Và nếu
dừng lại ở đó hẳn không một ai dám làm bạn với Xe chữa cháy. Nhưng đến
khổ thơ thứ hai khi biết nhiệm vụ của xe chữa cháy và nhất là tinh thần nhiệt
tình với công việc của cậu “Ai gọi chữa cháy - Có ngay! có ngay!” thì ai
cũng đều quí mến người bạn ồn ào này.
Bài thơ có chứa yếu tố truyện bởi thế có thể kể lại được. Nhưng người
kể nào đó phải thật khéo để không làm mất đi cái nhìn hài hước, dí dỏm trong
cách miêu tả của Phạm Hổ. Chính cái nhìn tinh nghịch, hài hước theo cách
nhìn cách nghĩ của trẻ là bí quyết giúp Phạm Hổ tạo nên tứ thơ có “sức thấm
đằng sau trang giấy”(Vũ Ngọc Bình).
Song hành cùng cái nhìn bầu bạn trong thơ ông là cái nhìn trong trẻo
tràn đầy tình yêu thương. Cái nhìn của một em bé khi thấy u ốm muốn ở nhà
mà vẫn phải đến trường nên bé thấy con đường hàng ngày gần là vậy nay
bỗng thật xa:
Em vẫn đi học
Trường xa càng xa
Người em ở lớp
Bụng em ở nhà
Và khi có trống tan trường là:
Em vội ra trước
Quên cả bạn bè
Em vượt con đê

Theo đàn cò trắng
Thiếu u trên đồng
Nhiều người vẫn vắng
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Về đến nhà bé vội vã gọi ngay “U ơi !” rồi vội đi nhóm lửa, nấu cháo,
đập trứng, bỏ hành để u ăn ngon cho mau khỏi bệnh. Với bé thơ yêu và ghét
rất rõ ràng nên càng thương u bao nhiêu bé càng:
Ghét cái bệnh tật
Làm u mệt người
Đừng ai ốm cả
Là vui nhất đời!
( Mẹ ốm )
Hẳn ai đọc câu thơ này cũng phải bật cười trước lời ước mong của em
bé trong bài thơ. Nhưng sau nụ cười đó là niềm xúc động, sự ấm áp nơi trái
tim khi hiểu ra tình yêu trong sáng trong tâm hồn trẻ thơ.
Cái nhìn yêu thương trong trẻo còn là khi nhà thơ để em bé biết lắng
nghe nghe sương thủ thỉ:
Chúng tôi chỉ sinh ra
Những quả sương như thế
Để yên vậy ngắm chơi
Đừng hái đi bạn nhé!
Thì :
Em bước đi rất khẽ
Cứ sợ động vào sương
Cứ sợ làm rơi mất
Loại quả mình yêu thương…
(Quả sương)
Cái bước đi rất khẽ kia xuất phát từ nỗi sợ, còn nỗi sợ xuất phát từ trái

tim tràn tình yêu không tì vết của trẻ thơ - trong suốt long lanh như những
quả sương dưới nắng mặt trời.
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
Trong thơ bài “Bé và Còng” ta bắt gặp một em bé ham chơi, mải mê với
trò chơi bắt còng:
Xin mẹ cái túi nhỏ
Bé chạy bắt còng chơi
Còng lớn và còng bé
Bắt càng nhiều, càng vui
Bỗng một con chết rồi
Đúng là con bé nhất
Hai cái càng tí teo
Giơ lên trời, lạnh ngắt!
Giấu mẹ bé thả hết
Còng bốn phía trốn nhanh
Bé thở dài khe khẽ
Trước biển chiều mênh mông
(Bé và còng)
Có một cái gì đó thật gần hay là trùng nhau giữa tiếng thở dài khe khẽ
của em bé trong bài thơ với quan niệm về nhân sinh, lòng trắc ẩn của đạo
Phật. Tiếng thở dài khe khẽ trước biển chiều mênh mông sẽ bị sóng biển ồn
ào giấu mất nếu không có Phạm Hổ bằng trái tim rộng mở phát hiện và gửi
vào trang thơ.
Trẻ em có gì khác với người lớn chúng ta. Rõ ràng các em dễ cười, dễ
tức, dễ ghét, dễ yêu. Những tình cảm đó đều nhiệt tình sôi nổi, đan xen vào
nhau cho trẻ cái nhìn trong veo trước cuộc sống. Đã qua tuổi hoa tuổi nụ
nhưng bằng tình yêu trẻ nên dù ở tuổi 80 Phạm Hổ vẫn giữ được cho mình
Nguyễn Thị Thanh Thảo

2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
cái nhìn “trong veo, xanh non”. Điều ấy chẳng phải thật đáng quý và trân
trọng lắm sao?
2.1.2. Cái nhìn nhận thức, khám phá và học hỏi thế giới
Với người lớn thế giới hành tinh trái đất đã trở nên quá quen thuộc. Cái
nhìn nhận thức khám phá người lớn muốn dành cho các hành tinh khác trong
hệ mặt trời như sao Hỏa, sao Kim…Với trẻ thơ thế giới thực lại vô cùng mới
la, thú vị và hấp dẫn. Nhắm mắt vào và mở mắt ra lại gặp một điều mới khiến
các em phải thốt lên ngạc nhiên.
Trong thơ Phạm Hổ ta dễ dàng tìm ra cái nhìn mang được đặc điểm ấy.
Cái nhìn luôn ngạc nhiên trước cuộc sống vì thế nó mở mắt cho ta cảm nhận
được sự lạ lùng trong những gì hằng thấy, những gì quen thuộc của cuộc đời.
Mười quả trứng tròn
Mẹ gà ấp ủ
Mười chú gà con
Hôm nay ra đủ
Lòng trắng lòng đỏ
Thành mỏ thành chân
Cái mỏ tí hon
Cái chân bé xíu…
(Mười quả trứng )
“Mười quả trứng tròn - Mười chú gà con” đó là điều bình thường quen
thuộc trong cuộc sống và thiết nghĩ chẳng có thể làm thơ về điều này. Nhưng
Phạm Hổ lại “ngơ ngác” trước sự biến đổi này. Và có lẽ không nói nên lời
nhưng cũng đủ nhận ra cảm xúc của tác giả cho đó là sự biến đổi kì diệu. Từ
lòng trắng lòng đỏ thành mỏ thành chân. Từ 10 quả trứng tròn ra đủ mười
chứ không phải chín, tám hay bảy chú gà con, cho thấy cả một sự biến đổi
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2

Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học
trọn vẹn, mạnh mẽ của sự sống. Kể về chuyện mười quả trứng tác giả muốn
dạy cho trẻ bài học về thế giới. Thế giới có hình thành phát triển được chính
nhờ sự sự biến đổi kì diệu của sự vật. Đây là bài học đầu tiên về thế giới tự
nhiên cho bé thơ trước khi bé đến trường.
Nhà thơ cùng trẻ học cách phân biệt nước trong tự nhiên:
Nước lên xuống: biển cả!
Nước nằm im: ao, hồ
Nước chảy xuôi: sông, suối
Nước rơi đứng: trời mưa
Ô kìa trời đang mưa!
(Nước)
Chuyện “uống nước” đơn giản vậy thôi mà cũng có sự khác nhau cần
phải nắm rõ:
Mẹ cho rau uống nước
Bằng cả bình tưới hoa
Trời cho cây uống nước
Bằng cả trận mưa to.
(Uống)
Nước mắt của hoa hồng và của con người có giống nhau không? Mượn
lời của hai chị em nhà bướm tác giả cùng trẻ khám phá thế giới của những
giọt sương:
- Chị ơi vì sao
Hoa hồng lại khóc?
- Không phải đâu em
Đấy là hạt ngọc
Người gọi là sương
Nguyễn Thị Thanh Thảo
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Giáo Dục Tiểu Học

Sao đêm gửi xuống
Tặng cô hoa hồng …!
À thì ra giọt nước mắt trên má khi bé khóc trông cũng long lanh giống
như giọt nước trên cánh hoa hồng sớm mai. Giống nhau vậy thôi nhưng đó
không phải là do cô hoa hồng khóc mà là sương - Một món quà của sao đêm
tặng cô hoa hồng.
Phạm Hổ đã tìm thấy sự cao quý trong những cái tầm thường nhất, luôn
lấy cái quen để thổi vào đó hơi thở của sự sáng tạo làm nên cái mới lạ, cái
đáng yêu rồi đem tặng cho trẻ làm quà. Đồng thời qua thơ ông muốn dạy bảo
các em những điều tốt đẹp nhất. Nhưng dạy trẻ mà cứ khuôn phép giáo điều
“đao to búa lớn” thì chỉ như “nước đổ đầu vịt” mà thôi. Ở đây Phạm Hổ
không làm thế. Nói như Xuân Quỳnh “Điều đầu tiên ta thấy ở ông là sự cảm
thông với các em chứ không áp đặt”. Ông muốn giáo dục các em nên đã nhìn
bằng con mắt của các em mà đánh giá mọi việc.
Chuyện khuyên trẻ chăm học qua lời Phạm Hổ nói thành ra chuyện của
hai bạn Ngỗng và Vịt:
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhẩm
Làm Vịt phì cười
Vịt khuyên một hồi
Ngỗng ơi! Học! Học!
( Ngỗng và vịt )
Bạn ngỗng chưa biết chữ lại không chịu học cứ khoe khoang, đã thế lại
có tật giấu dốt thật đáng chê. Còn bạn Vịt thông minh đã nghĩ ra cách thử
Nguyễn Thị Thanh Thảo

×