Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.59 KB, 10 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Con người ta muốn sống phải có cơm ăn, áo mặc muốn có những của cải vật
chất ấy thì phải sản xuất ra, loài người sẽ chết đói nếu nó ngừng sản xuất.
Nhưng trong qúa trính sản xuất ra của cải vật chất con người không bao giờ tiến
hành đơn độc một mình mà họ phải biết kết hợp với nhau và trao đổi hoạt động
cho nhau. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất. Còn Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất cho
nên lực lượng sản xuất vẫn là yếu tố quyết định. Như vậy qua lịch sử ba
phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ đó có thể vận dụng vào
điều kiện hiện nay của nước Việt Nam ta .
1
Nguyễn Thị Minh Phượng - 03D03081 ớíp
804
1
PHẦN NỘI DUNG
Trước chủ nghĩa tư bản, lịch sử loài người đã trải qua 3 phương thức sản
xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Mỗi phương thức đó
đều vận động trong sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, trở nên mâu
thuẫn không thể điều hoà với quan hệ sản xuất hiện tồn, làm cho phương thức
sản xuất cũ tan rã và phương thức sản xuất mới ra đời.
I. Phương thức sản xuất công xã nguyên thuỷ.
- Lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu công xã nguyên thuỷ đó là loài
người ngay từ thủa mới ra đời đã sống theo tập thể. Đó là những bầy người
nguyên thuỷ vì vậy loài người ra đời cũng là xã hội loài người ra đời. Chính lao
động đã sáng tạo ra bản thân loài người. Tuy nhiên, trong buổi sơ sinh của nó,
loài người còn hết sức yếu ớt, bất lực trước thiên nhiên. Họ ăn sống thức ăn sống
trong hang động và luôn bị thú dữ đe doạ. Việc phát hiện ra lửa trong thiên nhiên


và biết cách lấy lửa từ những hòn đá bằng cách cọ xát chúng lại với nhau mang
một ý nghĩa cực kỳ quan trọng và là dấu mốc son của tiến bộ loài người thời
nguyên thuỷ. Lửa không những đem lại cho họ thức ăn chín, ngon mà là vũ khí
lợi hại để họ chống lại thú dữ. Họ dùng lửa để đốt rẫy làm nương và chống lại
giá lạnh. Đó là nét khác biệt để phân biệt sự khác nhau giữa người và động vật.
Cùng với phát hiện ra lửa con người thời kỳ này còn biết sử dụng đá làm vật mài
nhọn các vũ khí từ thô sơ có sẵn trong thiên nhiên trở thành vũ khí sắc bén để
bảo vệ mình và săn thú dữ….. Sáng tạo ra cung tên là bước ngoặt quan trọng
trong cải tiến công cụ sản xuất, cung tên giúp cho nghề săn bắn phát triển nhờ
đó mà thức ăn ngày càng dồi dào hơn, tiếp tục đó là cuộc cách mạng đồ gốm. Họ
2
Nguyễn Thị Minh Phượng - 03D03081 ớíp
804
2
chế tạo dụng cụ chứa thức ăn bằng đất nung sét, con người biết tự mình trồng
trọt lấy các thứ cây công nghiệp, nghề nông nguyên thuỷ xuất hiện. Nhờ đó thức
ăn của con người được đảm bảo chắc chắn hơn, săn bắn phát triển thú vật săn
bắt về được nhiều thì dần dần nảy sinh nghề chăn nuôi nguyên thuỷ, họ biết
dùng súc vật làm sức kéo trong nông nghiệp. Như vậy trải qua hàng mấy chục
vạn năm lao động, qua sự phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất, loài người
mới dần dần thoát khỏi tình trạng dã man và bước tới ngõ cửa của đời sống văn
minh.
- Quan hệ sản xuất thời nguyên thuỷ còn rất đơn giản, từng cá nhân riêng
lẻ không sao sống nổi. Nhờ lao động tập thể con người mới tránh khỏi làm mồi
cho thú dữ và mới có thể đấu tranh được với thiên nhiên. Quan hệ sản xuất thời
kỳ này chưa có hình thức chiếm hữu về tư liệu sản xuất, công cụ lao động hết
sức thô sơ. Tất cả mọi người trong xã hội đều làm chung cùng làm cùng hưởng
không có người lãnh đạo. Họ sống với nhau bình đẳng cũng vì không có sản
phẩm thừa nên không có khả năng chiếm đoạt sản phẩm thặng dư vì lúc đó chưa
có giai cấp và hiện tượng người bóc lột người nào. Phân phối sản phẩm một

cách bình quân, vì số thức ăn ít ỏi nếu một người nào đó được lĩnh phần nhiều
hơn thì số người khác phải chết đói. Cuối thời kỳ này xuất hiện một công xã thị
tộc là những người cùng chung dòng máu sống quây quần bên nhau. Thị tộc bầu
ra người tù trưởng để lãnh đạo công việc chung. Nhiều thị tộc có quan hệ dòng
máu với nhau họp thành bộ lạc. Bộ lạc là hình thức tổ chức cao nhất của xã hội
nguyên thuỷ. Biết chế tạo ra đồ đồng, sắt là sự phát triển cao nhất của lực lượng
sản xuất trong xã hội nguyên thuỷ. Lực lượng sản xuất phát triển lên một trình
độ mới thì phân công lao động lớn dần, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và
sự bất bình đẳng về tài sản, sự phân chia giai cấp trong nội bộ làm cho xã hội
nguyên thuỷ dần dần tan rã. Cần phải có một xã hội mới, phương thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ đã ra đời. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ
nhất định trở nên mâu thuẫn không thể điều hòa với quan hệ sản xuất hiện tồn
3
Nguyễn Thị Minh Phượng - 03D03081 ớíp
804
3
làm cho phương thức sản xuất mới ra đời. Như vậy quan hệ sản xuất đã không
thích ứng với lực lượng sản xuất thời bấy giờ, phương thức sản xuất mới ra đời
là phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
II. Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ
- Lực lượng sản xuất thời chiếm hữu nô lệ có khác nhiều so với xã hội
nguyên thủy, người lao động chính là những người nô lệ của chủ nô, bị lệ thuộc
và dưới sự cai trị của chủ nô. Là sự sở hữu hoàn toàn về thể xác, họ có thể bán
hoặc giết người nô lệ tùy ý. Sản phẩm ngưòi nô lệ làm ra là tài sản của chủ, họ
không có một chút tài sản nào cho riêng mình, không có một chút tự do bình
đẳng. Họ bị bán sức lao động một cách rẻ mạc, nô lệ không được coi là người
mà chỉ như thứ công cụ biết nói. Chủ nô dùng roi vọt, nhục hình để bắt nô lệ làm
việc như vậy họ đã trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Công cụ lao động va
kỹ thuật canh tác còn thô sơ, năng xuất lao động thấp, sự phân công lao động
trong nội bộ ngành xuất hiện. Xã hội có các ngành chính là trồng trọt chăn nuôi

và thủ công nghiệp. Trao đổi phát triển thương nhân tách khỏi sản xuất.
- Quan hệ sản xuất cả tư liệu sản xuất lẫn người lao động đều thuộc sở hữu
tư nhân, nô lệ được coi như công cụ rẻ tiền. Họ chịu sự chi phối hoàn toàn của
chủ nô cả vể thân thể, chủ nô chiếm đoạt hết sản phẩm của nô lệ, chỉ cấp cho
một chút ít tư liệu sinh hoạt để họ khỏi chết đói và tiếp tục lao động. Do hình
thức sở hữư tư nhân về tư liệu sản xuất nên quá trình sản xuất được tiến hành
qui mô lớn, xuất hiện xưởng thủ công với đa số là nô lệ. Như vậy năng suất lao
động sẽ tăng lên một cách đáng kể so với sản xuất nhỏ trước kia. Sự phân chia
giai cấp trong xã hội ngày càng rõ rệt đó là hai giai cấp: chủ nô và nô lệ. Xã hội
khi đã phân chia thành giai cấp thì cần có nhà nước, nhà nước của chủ nô ra đời
nhằm áp bức bóc lột nô lệ và quần chúng nhân dân, bảo vệ lợi ích của giai cấp
chủ nô. Nhà nước của chủ nô có tác dụng rất lớn trong việc củng cố và phát triển
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Nhờ có lao động tập thể mà con người mới
4
Nguyễn Thị Minh Phượng - 03D03081 ớíp
804
4
xây dựng được những công trình kiến trúc đồ sộ như: Kim tự tháp (Ai Cập), Vạn
lý trường thành (Trung Quốc), đê điều, thành trì… Phân công lao động xã hội
phát triển hơn. Xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới trong Nông nghiệp cũng như
trong Thủ công nghiệp. Phân công phát triển thì hàng hóa trao đổi ngày càng
nhiều, khu vực trao đổi càng mở rộng, giai cấp thương nhân xuất hiện.
- Nếu như thời nguyên thủy mọi người đều làm chung, ăn chung, ở chung
chưa có sản phẩm riêng thì thời nô lệ sản phẩm lao động làm ra là hoàn toàn phụ
thuộc vào chủ nô, đã có sự phân phối sản phẩm vào tay chủ nô. Vì vậy sản phẩm
thừa (giá trị thặng dư) cũng đã xuất hiện ở thời kì này hay là sự xuất hiện của
bóc lột đối với người nô lệ. Như vậy phương thức sản xuất sau bao giờ cũng hơn
phương thức sản xuất trước đó (xã hội nguyên thủy). Chế độ nô lệ có tạo ra sự
phát triển nhất định trong lực lượng sản xuất nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh
mâu thuẫn sâu sắc: chủ nô - nô lệ, lao động trí óc và lao động chân tay, thành thị

– nông thôn… đến một giai đoạn nhất định chế độ chiếm hữu nô lệ trở thành
nhân tố kìm hãm sự phát triển. Có áp bức là có đấu tranh vì vậy người dân nô lệ
đã thờ ơ với việc cải tiến, thậm chí họ còn phá hoại công cụ lao động. Do kinh tế
suy sụp , nhiều chủ nô trả tự do cho nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ càng mở rộng
lao động càng bị coi là hèn hạ, chỉ đáng dành riêng cho nô lệ , không xứng đáng
là công việc của những người dân tự do. Thợ thủ công bị phá sản vì bị nền sản
xuất lớn của chủ nô cạnh tranh, bị kiệt quệ thuế khóa nặng, lực lượng sản xuất bị
phá hoại nặng nề đòi hỏi một quan hệ sản xuất khác phù hợp thích ứng lực
lượng sản xuất vì vậy phương thức sản xuất thời phong kiến ra đời .
III. Phương thức sản xuất phong kiến
- Lực lượng sản xuất trong xã hội phong kiến người lao động tuy đã được
giải phóng nhưng họ phải chói buộc vào chủ ruộng bởi địa tô và những mối
quan hệ lệ thuộc thân thể. Nhưng họ vẫn có hứng thú lao động sản xuất hơn khi
5
Nguyễn Thị Minh Phượng - 03D03081 ớíp
804
5

×