Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thế nào là khái niệm và phạm trù trong khoa học quản lý giáo dục Trình bày ví dụ về 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục và xác định khả năng thực hiện các khái niệm đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.42 KB, 15 trang )

Thế nào là khái niệm và phạm trù trong khoa học quản lý giáo dục Trình bày ví
dụ về 5 khái niệm trong khoa học quản lý giáo dục và xác định khả năng thực
hiện các khái niệm đó
BÀI LÀM
I. KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ
Khái niệm: là ý nghĩa phản ánh ở dạng khái quát các sự vật, hiện tượng của hiện
thực và những mối quan hệ giữa chúng.
Phạm trù: Là khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ
chung, cơ bản nhất của các hiện tượng.
II. VÍ DỤ VỀ 5 KHÁI NIỆM TRONG KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1. Quản lý
1.1. Khái niệm quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển loài người, con người phải luôn
luôn lao động để duy trì và phát triển nòi giống. Trong khi lao động cần sự hợp
tác của một nhóm người hoặc nhiều người, do sự hợp tác này mà xã hội xuất hiện
một loại hình lao động mới mang tính đặc thù là tổ chức điều khiển các hoạt động
lao động theo yêu cầu nhất định loại hình lao động, đó là hoạt động quản lý.
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Trong xã hội loài người,
quản lý là một hoạt động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội. Quản lý là nhân tố
không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội. Loài người đã
trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau nên cũng
trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ
thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định và phát
triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử
Theo Các Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[4]


Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình
xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra,
nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người. Chẳng
hạn:
Theo Frederich Wiliam Taylor (1856-1915) người Mỹ: “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[20]. Hoặc theo nhà lý luận quản lý quốc tế Henri
Fayol (1841-1925) người Pháp cho rằng: “Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố
gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực của nó”[13]
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Herscy và Ken
Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: quản lý là một quá trình
cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của
cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”[31].
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định”[29].
Theo Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt
của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy
quản lý, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các khâu và các
cấp quản lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu quả”[14]
Quan điểm của Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa
học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích
hợp nhằm đạt các mục tiêu đặt ra cho hệ và từng thành tố của hệ”
Giáo trình “ Quản lý giáo dục và đào tạo ” của trường cán bộ quản lý
GD&DT nêu rằng
- Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào
hệ thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội.
- Quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên
các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng ổn định và phát triển đến mục tiêu đã định.

- Quản lý là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
- Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
là đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến đổi của môi trường [13].
Từ các định nghĩ trên có thể rút ra một số điểm chung:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động, hoạt
động khác.
- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý
- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, quan
hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý chính là
những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu đối với đối
tượng quản lý. Các Mác so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng đối với hệ
thống nhạc công, trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc công là chủ
thể bị quản lý (các nhạc công chịu sự tác động của nhạc trưởng) để đưa đến một
sản phẩm “kép” một sản phẩm “siêu sản phẩm” - Đó là cả chủ thể quản lý và chủ
thể bị quản lý đều phát triển (hoạt động tạo ra các chủ thể và về sự phát triển của
con người).
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã
hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn
tại, vận hành và phát triển.
- Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác lập
rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định.
Hiện nay quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: Quản lý là quá trình đạt đến
mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng của các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2. Các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá
Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý đương đại hàng đầu, đã

đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc “đúng”)
và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc). ông cho rằng, tính hiệu nghiệm
là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu. Hai
tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh của kế hoạch: xác định những
mục tiêu “đúng” và lựa chọn những biện pháp “đúng” để đạt các mục tiêu này.
Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình quản lý [32].
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta có
thể định nghĩa như sau: chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu
và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực
chất của kế hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch
hoá, với mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các
điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi
hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc đầu tầu
kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, người quản lý, nếu
không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực
khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái gì nữa. Không có
kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo người thuộc quyền hành
động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả mong đạt tới. Cũng
vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng
hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự kiểm tra trở
thành vô căn cứ.
Trong QLGD, quản lý nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan
trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng
đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt
động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi
kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy bởi bản thân nó
có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó. Đối với nhà trường đó là trạng thái về cơ sở

vật chất, về đội ngũ giáo viên, về các kết quả về hoạt động sư phạm của các năm
học trước đó, những mặt tốt và mặt tồn tại, nguyên nhân của chúng…Dựa trên
những số liệu của năm học trước rút ra kết luận cụ thể về trạng thái xuất phát của
nhà trường trong năm học mới.
Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên
cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học
mới để suy ra những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó có tính tới
nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu tiên,
dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có
tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
- Chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “ Hệ thống các hoạt động hay tác động có
ý thức của hai hay nhiều người”.
Cuốn “Cơ sở khoa học quản lý” đã xác định: “Tổ chức là hoạt động hướng
tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các
hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp hành)” [9].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
đã chỉ rõ: “Kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà
nước” [42; 72]. Xuất phát từ quan điểm trên, trong quản lý giáo dục, quản lý
trường trung học, điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ
vai trò của mỗi bộ phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ ngược, sự thống nhất
và đồng bộ về tổ chức trong quản lý giáo dục ở trường trung học.
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho phép
các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều kiện
của quản lý, đúng như V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng,
muốn quản lý tốt…còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa” [23]. Thực chất
của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa các bộ phận
trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực, tổ chức không
tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.

- Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi
và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể
hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ
chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để
họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
- Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để đạt
tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện hoá
các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét việc
triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần thiết
trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý
như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi mới cơ
chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã
hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
2. Quản lý giáo dục
2.1. Khái niệm giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động. Trong
lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới xung
quanh, dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm, từ đó nảy sinh những nhu cầu
truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của
hiện tượng giáo dục.
Sơ khai, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành
một hoạt động có ý thức. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ

chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế hoạch, có nội dung,
phương pháp hiện đại và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng
của xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người, nhờ
có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc,
nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội loài người không ngừng
tiến lên.
2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Nhà nước quản lý mọi hoạt động của xã hội, trong đó có hoạt động giáo
dục. Nhà nước quản lý giáo dục thông qua tập hợp các tác động hợp quy luật
được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý, nhằm tác động đến các
phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất
lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Đã có nhiều nghiên cứu về quản lý nói chung cho nên cũng có nhiều quan
niệm khác nhau về quản lý giáo dục.
Theo M.I.Kônđacôp: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và hướng đích của chủ quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích
của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của
xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và
tâm lý trẻ em [21;124].
Theo P.V.Khuđôminxky (nhà lý luận Xô Viết): QLGD là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến các khâu của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích bảo đảm
việc giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, bảo đảm sự phát triển toàn diện
và hài hoà của họ.
Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành

giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh…” [16].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng
thái mới về chất [30].
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh
công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Trong
hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của mọi hoạt động. Con
người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động giáo dục và
QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, bởi vậy
con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
2.3. Đặc điểm của quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục vừa có những đặc điểm chung của quản lý vừa có những
đặc điểm của riêng lĩnh vực quản lý giáo dục :
+ Các đặc điểm chung của quản lý :
- Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý .
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối
liên hệ ngược.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
- Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
+ Đặc điểm đặc thù của quản lý giáo dục.
- Quản lý giáo dục gắn liền với việc điều hành quá trình giáo dục đào tạo
con người, đặc biệt là lao động sư phạm của các nhà giáo.
- Quản lý giáo dục được gắn liền với quyền lực nhà nước trong việc điều
hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, thông qua việc xây dựng, ban hành và
chấp hành các văn bản như luật, điều lệ và các qui định, qui chế chuyên môn sư

phạm
- Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù là hình thành và phát triển nhân
cách cho người học, nên quản lý giáo dục phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn
những sai sót trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như không được phép tạo ra
“phế phẩm” trong giáo dục.
- Quản lý giáo dục gắn liền với phát triển quan điểm quần chúng, xã hội
.
- Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc.
3. Quản lý nhà trường
3.1. Khái niệm nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức năng
kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho mọi nhóm dân cư nhất định của xã
hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên đạt được các mục
tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này
một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội.
Quá trình sư phạm là quá trình kiếm tạo các điều kiện và cơ hội để cá thể
người lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, thực hiện việc xã hội hoá nhân
cách của mình. Nhà trường thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội
thông qua quá trình sư phạm hay nói cách khác, nhà trường là thiết chế chủ yếu
để thực hiện quá trình sư phạm.
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một thiết
chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công
dân có ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ,
được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình
mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Những nhiệm vụ của nhà
trường cũng được đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau. Việc quản lý nhà
trường cũng có nhiều cách để tiếp cận. Bản chất giai cấp của nhà trường được
khẳng định bởi tính mục đích cũng như cách thức vận hành của nó và một điều
được khẳng định là: Khi nhà trường thực hiện chức năng giáo dục trong một xã
hội cụ thể, bản sắc văn hoá dân tộc in dấu sâu đậm trong toàn bộ hoạt động của

nhà trường.
Ta có thể thấy rõ các dấu hiệu phân biệt nhà trường với các thiết chế khác
là: Tính mục đích tập trung hay mục đích hẹp, mục đích được “chiết xuất”; Tính
tổ chức và tính kế hoạch cao; Tính hiệu quả giáo dục - đào tạo cao nhờ quá trình
truyền thụ có ý thức; Tính biệt lập tương đối hay tính lý tưởng hoá các giá trị xã
hội; Tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính chất phân biệt đối xử theo
phát triển tâm lý và thể chất [13].
3.2 Quản lý nhà trường
Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy – học, tức
là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần
tiến tới mục tiêu giáo dục [15; 72].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý nhà trường là: “Tập hợp những
tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…) của
chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác. Nhằm tận
dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp, do lao
động xây dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động
của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất
lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới”
[30].
Theo Phạm Viết Vượng: Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và
các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng
cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường [44; 205].
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động sau: Tác động của những
chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường (đó là những tác động quản lý
của các cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động
giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, hoặc những chỉ dẫn, những quyết
định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà
trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng giáo dục nhằm
định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực

hiện phương hướng phát triển đó); Tác động của những chủ thể quản lý bên
trong nhà trường (bao gồm các hoạt động: Quản lý giáo viên, quản lý học sinh,
quản lý quá trình dạy học – giáo dục, quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường
học, quản lý tài chính trường học, quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và cộng
đồng.[13].
Như vậy, quản lý nhà trường chính là QLGD trong một phạm vi xác định,
đó là nhà trường (đơn vị giáo dục). Quản lý nhà trường là một hoạt động được
thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét
riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Do đó quản lý nhà trường cần vận dụng tất
cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường
theo mục tiêu đào tạo.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có
tiến lên một trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát triển
mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo dục. Mục
đích cuối cùng của QLGD là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả để đào tạo
lớp trẻ thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh
phúc của bản thân và của xã hội [13; 20].
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục nên
quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất
của quản lý nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động trong
nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở Việt
Nam.
4. Biện pháp quản lý
Theo Từ điển Tiếng Việt, "Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành một vấn
đề cụ thể"[41;64]
Trong quản lý giáo dục, biện pháp là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành của chủ
thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý giải quyết các vấn đề trong
công tác quản lý làm cho hệ thống quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể
quản lý đã đề ra phù hợp với quy luật khách quan.
Biện pháp quản lý cũng như cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lý.

Đối tượng quản lý giáo dục phức tạp đòi hỏi biện pháp quản lý phỉ đa dạng,
phong phú, phù hợp với đối tượng quản lý. Biện pháp quản lý có quan hệ chặt
chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các biện pháp. Hệ thống các biện pháp giúp
cho nhà quản lý thực hiện tốt các phương pháp quản lý của mình.
Phương pháp quản lý thể hiện rõ tính năng sáng tạo của chủ thể quản lý trong
các tình huống, và đối với mỗi đối tượng nhất định người quản lý phải biết sử
dụng phương pháp nhất định. Hiệu quả của công tác quản lý phụ thuộc rất nhiều
vào sự lựa chọn đúng đắn và áp dụng linh hoạt các biện pháp quản lý.
5. Người quản lý
- Theo nghĩa rộng: Người quản lý bao gồm tất cả những người tham gia vào hệ
thống quản lý và hình thành chức năng nhất định.
- Theo nghĩa hẹp: Người quản lý là những người có thẩm quyền ra quyết
định dù được phân quyền hay uỷ quyền.
Người quản lý là những người làm việc trong bộ máy, là người thực hiện
các chức năng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức với kết quả
và hiệu quả cao.
- Nói chung: Người quản lý là người làm việc trong tổ chức, điều khiển
công việc của người khác và chịu trách nhiệm trước cấp trên về kết quả hoạt
động của họ; Là người chịu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra con người, tài chính, vật chất và thông tin của bộ phận hay tổ
chức để đưa tổ chức đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Người quản lý là người :
Biết điều họ muốn xảy ra và làm cho nó xảy ra
Chịu trách nhiệm kiểm soát các nguồn tài nguyên và đảm bảo chúng được
dùng một cách tối ưu
Khuyến khích tính hiệu quả trong công việc và tìm kiếm sự tiến bộ không
ngừng
Chịu trách nhiệm về kết quả làm việc của bộ phận họ quản lý, mà trong đó
họ là một thành phần
Tạo ra bầu không khí hoặc tiếng nói chung cho phép mọi người có thể phát

huy tốt nhất khả năng của họ.
- Phân loại người cán bộ quản lý
Người quản lý cấp thấp : Hướng dẫn, đốc thúc, điều khiển nhân viên trong
công việc hàng ngày.
Người quản lý cấp trung gian : Đưa ra các quyết định chiến thuật để thực
hiện kế hoạch và chính sách của tổ chức
Người quản lý cấp cao : Xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động và phát
triển tổ chức.
Một cách tổng quát: Người quản lý là người có trách nhiệm phân bố nhân
lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ
chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Chức năng của người quản lý
- Thiết lập cá mục tiêu cho tổ chức, quyết định nội dung của các mục tiêu
và cách thức thực hiện chúng
- Tổ chức mọi hoạt động, phân phối các nguồn lực của tổ chức, phân chia
công việc và lựa chọn người phù hợp giao phó đảm nhận công việc.
- Thức đẩy và truyền thông một cách có hiệu quả, động viên, thúc đẩy mọi
người làm việc đạt năng suất cao, biết cách thông tin có hiệu quả với các cấp
- Đo lường kết quả công việc của tổ chức
- Phát triển nguồn nhân lực của tổ chức.

×