Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.62 KB, 24 trang )

Đề số 9: Người bào chữa trong tố tụng hình sự
LỜI MỞ ĐẦU
Với tư cách là một ngành luật độc lập, Luật Tố tụng hình sự cũng có
những quy tắc chung của hệ thống pháp luật khi vận dụng vào các quan hệ tố
tụng hình sự cũng có những biểu hiện đặc thù riêng. Trong các nguyên tắc ấy,
có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bạ can, bị cáo.
Việc ghi nhận quyền bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự là hoàn toàn cần
thiết nhất là trong thời kỳ có nhiều biến đổi như hiện nay. Được ghi nhận
trong văn bản pháp luật là Hiến pháp, Điều 132 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) quy định: “ Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo
có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Dựa trên tinh
thần ấy, Điều 11 Bộ luật TTHS 2003 có dẫn: “ Người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
Sở dĩ có quy định như trên là vì: Thực hiện quyền bào chữa là để chống
lại sự buộc tội hoặc giảm trách nhiệm hình sự, đồng thời quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là điều kiện cần thiết giúp cơ quan tiến
hành tố tụng xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong đó,
người bào chữa đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua người bào chữa,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.
Trong những người tham gia tố tụng hình sự quy định tại chương IV
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và
chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn
tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và về người
bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi
những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn
nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố
tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và
người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực
định.
So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về người bào chữa
thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm


việc xét xử dân chủ, khách quan, công bằn hơn theo tinh thần Nghị quyết 08
của Bộ chính trị.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về Người bào chữa là cần thiết.
I. Khái niệm người bào chữa:
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu khác
nhau về người bào chữa. Có một số quan điểm cho rằng: “Người bào chữa là
người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án
để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”. Một tác giả
khác còn khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để
giúp đỡ Tòa án. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào
chữa là “thầy cãi”…
Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái
niệm, vị trí, vai trò, chức năng của người bào chữa cũng như chưa phân biệt
được người bào chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi
của đương sự. Thật ra, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không
phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham
gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là
người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do
những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào
chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được
2
sử dụng quyền lực nhà nước như những người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó,
cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người bảo vệ quyền
lợi của đương sự. Ngay trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã có sự phân biệt
giữa người bào chữa vời người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để
phân biệt chính là chức năng của họ và đối tượng mà họ bào chữa, bảo vệ.
Người bào chữa tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ

quyền lợi cho đương sự tham gia tố tụng chủ yếu là để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp về dân sự cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ
án hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ
để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho
sự hiện diện của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa
họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc
tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường
hợp đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan
tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên
ngay trong trường hợp này sự tham gia của người bào chữa cũng phải được sự
đồng ý của người bị buộc tội.
Tuy Bộ luật tố tụng hình sự không nêu khái niệm khái niệm thế nào là
người bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 Bộ luật
tố tụng hình sự thì, người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo uỷ quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc cử để bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội
3
hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
II. Các loại người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự thì,
người bào chữa có thể là: Luật sư, Người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay do trình độ dân trí và ý
thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên khi nói đến người

bào chữa là người ta chỉ nghĩ tới luật sư còn những người khác không phải là
luật sư thì không được coi là người bào chữa. Trong quá trình soạn thảo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định luật sư mới
là người bào chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và nghĩa vụ
của họ như đối với luật sư, nhưng ý kiến này không được chấp nhận vì luật sư
là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng.
1. Luật sư:
Một luật sư La Mã cổ đại đã từng nói về người bào chữa ( Luật sư) như
sau: “ Sự cao thượng, tính hào hiệp, danh dự, công lý và lòng rộng lượng là
những đặc tính phù hợp nhất với bản chất của nghề luật sư, chứ không phải là
sự giàu có, niềm vui hoặc thậm chí chính bản thân cuộc sống”. Trong thời đại
hiện nay vị trí vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao và được trân trọng
thật sự. Ở Việt Nam sau khi Luật Luật sư 2006 có hiệu lực thì đội ngũ Luật sư
của chúng ta ngày càng được nâng cao cả về chất và lượng.
Đối với pháp luật hiện hành, Điều 2 Luật Luật sư quy định: “ Luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực
hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Bên cạnh đó, Luật luật sư cũng đề cập đến vấn đề tiêu chuẩn của một vị
luật sư. Theo đó, Điều 10 Luật sư quy định: “ Công dân Việt Nam trung thành
với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có
bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành
nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”. Thêm vào đó, về mặt hình thức,
4
người luật sư còn phải đáp ứng được các điều kiện như: Phải có Chứng chỉ
hành nghề luật sư, gia nhập một Đoàn luật sư nhất định. Hoạt động bào chữa
của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư
nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. (Điều 3 Luật luật sư).
Người bào chữa bao gồm: Luật sư, Người đại diện hợp pháp cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, Bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên, Luật sư và người

bào chữa không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Theo quy định của pháp luật
thì luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi họ tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong tố tụng
hình sự, nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Bào chữa là một chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo. Muốn bào chữa đúng đắn, khách quan trên cơ sở các
quy định của pháp luật và thực sự có tác dụng, các luật sư phải có năng lực
thực sự, trong đó quan trọng là nắm chắc pháp luật, hiểu biết rõ về những
người mà họ đứng ra để bảo vệ.
Căn cứ vào khoản 1 và 2 Điều 23 Luật luật sư thì hình thức hành nghề luật
sư có hai loại, đó là: Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành
nghề với tư cách cá nhân. Đó là quy định hết sức thông thoáng đảm bảo họ
phát huy hết khả năng và sự cống hiến cho nghề của mình. Điều mà chúng ta
quan tâm là khi luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng thì phải tuân thủ
những quy định gì khác ngoài những quy định trên? Theo Điều 27 Luật luật
sư thì: “
5
1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của
pháp luật về tố tụng và Luật này.
2. Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người
bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án
hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính (sau đây gọi chung là giấy
chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư) khi xuất trình đủ giấy tờ thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu

của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư
nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức
hành nghề luật sư;
b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu
của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành
nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức
nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó;
c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc
của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật
sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản
phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để
tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng”.
Như vậy, pháp luật quy định vừa chặt chẽ vừa thông thoáng trên các
phương diện để trở thành một luật sư với tư cách là người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
6
2. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ. bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tham
gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho những người cần họ bào chữa. Tuy nhiên, Bộ Luật TTHS không quy định
rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám
hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu
người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không
xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha,
mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu
cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối

với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ (Điều
141 BLDS).
3. Bào chữa viên nhân dân:
Ở nước ta, trước khi có Pháp lệnh tổ chức luật sư và sau là Luật luật sư
2006 thì việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do Bào chữa viên
nhân dân đảm nhiệm. Hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân không
phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư. Cho đến bây giờ,
trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng chưa có một văn bản cụ thể nào quy
định về hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân nên vị trí vai trò của
họ cũng trở nên mờ nhạt. Hay nói cách khác, chức danh Bào chữa viên nhân
dân chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Điều này dẫn đến việc người bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư và người đại diện
hợp pháp của những người đó.
Nói tóm lại, mặc dù họ là ai, pháp luật quy định họ như thế nào thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải có nghĩa vụ tạo điều kiện để họ thực
7
hiện nhiệm vụ bào chữa. Tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng, Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án nhân dân hoặc
Hội đồng xét xử cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện nhiệm
vụ bào chữa.
III. Những người không được bào chữa, lựa chọn và thay đổi người bào
chữa:
1. Những người không được bào chữa:
Khoản 2 Điều 56 quy định: “ Những người sau đây không được bào chữa:
a) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã
hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó. b) Người tham gia vụ án đó với tư
cách là người làm chứng, người giám định hoặc nguời phiên dịch”.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Trong khi
đó, người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người này. Một bên
đứng trên góc độ Nhà nước và một bên lại đứng trên góc độ cá nhân. Thế nên
trong cùng một vụ án, một người không thể thủ một lúc hai vai để thực hiện
tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa. Bên cạnh đó, người
thân của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa
trong vụ án đó bởi nó sẽ ảnh hưởng đến sự khách quan của trong việc giải
quyết vụ án của người tiến hành tố tụng.
Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là những người tham
gia tố tụng có nghĩa vụ trung thực, khách quan đảm bảo tính chính xác. Họ
không phụ thuộc vào bất kỳ một bên nào, mà chỉ tham gia tố tụng theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa
trong cùng một vụ án.
8
2. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa:
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh
nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá
trình giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy định lựa chọn và thay đổi người bào chữa
trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Điều 57 Bộ
luật tố tụng hình sự quy định:
“1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bi can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ lựa chọn.
2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử
người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức
mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được
quy định tại Bộ luật hình sự.

b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.

3. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có
quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là thành viên của tổ chức mình”.
9

×