Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.7 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tế cho thấy rằng, tài sản ngoài ý nghĩa đáp ứng nhu cầu, lợi ích cho
con người thì nó còn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định có thể gây thiệt hại
cho con người. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây
chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả
năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Thế giới ngày càng phát triển
kéo theo sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, kỹ thuật nhưng con người vẫn
không hoàn toàn kiểm soát được các nguy cơ mang lại rủi ro từ tài sản. Xuất
phát từ lý do này mà trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy
hiểm cao độ”. Trên cơ sở đánh giá “nguồn nguy hiểm cao độ” (NNHCĐ) với
sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nó gây
ra mà pháp luật dân sự đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NNHCĐ
gây ra. Sau đây chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về vấn đề này trong hệ thống luật
dân sự Việt Nam.
NỘI DUNG
I. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.
Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra tại Điều 623. Trên cơ sở quy định của BLDS 2005, Tòa án
Nhân dân Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày
8/7/2006 hướng dẫn các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong BLDS 2005, trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do
NNHCĐ gây ra. Tuy nhiên, cả bộ luật và nghị quyết trên đều không đưa ra khái
niệm NNHCĐ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là NNHCĐ. Khoản 1 Điều
623 BLDS quy định: “NNHCĐ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các NNHCĐ khác do pháp luật quy
định”. Theo quy định này thì có các loại NNHCĐ sau:
+ Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Hiện nay, chưa có một văn bản
pháp luật nào chính thức đưa ra khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ
giới”. Tuy nhiên, ta cũng có thể hình dung được phương tiện giao thông vận tải


cơ giới có thể là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao
thông vận tải cơ giới đường sắt, phương tiện giao thông cơ giới đường thủy
hoặc phương tiện giao thông cơ giới đường hàng không. Nhưng liệu có phải tất
cả các phương tiện giao thông vận tải cơ giới đều được coi là NNHCĐ? Pháp
luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Ví dụ như các phương
tiện chuyên dùng thô sơ di chuyển trên đường sắt thì không được coi là
NNHCĐ.
Luật giao thông đường bộ quy định: Phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ gồm: xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy và các loại
xe tương tự, kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật.... Theo liệt kê của quy
định này thì các loại phương tiện như xe đạp điện, xe babetta, java hay máy thi
công, cần trục, cần cẩu, máy nông lâm ngư cơ… có phải là phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ không, có thể cho chúng là “các loại xe tương tự” theo
quy định trên để xác định NNHCĐ không. Có nhiều quan điểm khác nhau về
điều này nên luật của chúng ta cần phải sớm có những hướng dẫn rõ ràng.
+ Hệ thống tải điện: Luật Điện Lực 2004 không đưa ra khái niệm hệ thống
tải điện mà chỉ đưa ra khái niệm “lưới điện”, “thiết bị đo đếm điện”:
“…3. Lưới điện là hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết
bị phụ trợ để truyền dẫn điện. Lưới điện, theo mục đích sử dụng và quản lý vận
hành, được phân biệt thành lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối…”
4. Thiết bị đo đếm điện là thiết bị đo công suất, điện năng, dòng điện,
điện áp, tần số, hệ số công suất, bao gồm các loại công tơ, các loại đồng hồ đo
điện và các thiết bị, phụ kiện kèm theo.”
Bên cạnh đó, trong hệ thống truyền tải điện còn có thể có hệ thống trang
thiết bị phát điện, do đó, hệ thống trang thiết bị phát điện cũng được coi là bộ
phận trong hệ thống truyền tải điện.
+ Nhà máy: Có thể hiểu nhà máy là “xí nghiệp, cơ sở sản xuất của nền đại
công nghiệp thường sử dụng máy móc tương đối hiện đại với quy mô lớn: nhà
máy cơ khí, nhà máy điện…. Nhà máy công nghiệp có thể là nhà máy công
nghiệp nặng, nhà máy công nghiệp nhẹ…

Trong ba NNHCĐ đã nêu ở trên thì ta cần phải chú ý đặc điểm để chúng
được coi là NNHCĐ là khi chúng đang hoạt động. Hoạt động có thể được hiểu
là “Vận động, vận hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động nào đó”.
Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới thì hoạt động của xe cơ giới có
thể là hoạt động di chuyển (cơ học hoặc điều khiển) hoặc không di chuyển
nhưng thiết bị đang được vận hành. Đối với hệ thống tải điện thì phải có dòng
điện chạy qua. Đối với nhà máy công nghiệp thì phải đang trong quá trình vận
hành, sản xuất. Như thế, tất cả các loại tài sản nêu trên nếu đang trong trạng
thái tĩnh thì không được coi là NNHCĐ.
+ Vũ khí: Vũ khí có thể được hiểu là các đồ vật được sử dụng để chiến
đấu. Như vậy thì một cái dép, một cái thước kẻ, một cái bút…cũng có thể được
coi là vũ khí nếu nó được dùng để đánh nhau. Tuy nhiên, theo Quy chế quản lý
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP
của Chính phủ ngày 12/8/1996 đã quy định: Vũ khí bao gồm: vũ khí quân
dụng, vũ khí thể thao, súng săn, công cụ hỗ trợ…
+ Chất cháy, chất nổ: Hai loại này có thể là chất rắn, lỏng, khí và dễ gây ra
cháy nổ.
+ Chất độc: Đây là loại có độc tính cao, nguy hiểm cho sức khỏe, tính
mạng của con người, động vật cũng như môi trường xung quanh.
+ Chất phóng xạ: Là “chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ
riêng lớn hơn 70 kilo Beccoren trên kilogam (70kBq/kg)” (Khoản 3 Điều 3
Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ năm 1996).
+ Thú dữ: Là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng
sữa, to lớn, rất dữ, có thể làm hại người (Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như
Ý chủ biên, Nxb. Văn Hóa – Thông tin, Hà Nội 1999). Tuy nhiên, cần lưu ý và
phân biệt giữa vật nuôi gây thiệt hại trong trường hợp nó hung dữ với thiệt hại
do thú dữ được coi là NNHCĐ gây ra. Nếu vật nuôi trong gia đình gây thiệt hại
thì thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, còn thiệt hại do thú
dữ gây ra sẽ thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra. Ngoài
ra, thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do

NNHCĐ gây ra phải đang chịu sự quản lý của một chủ thể nhất định, nếu
không có sự quản lý (thú dữ ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên hoang dã) thì
không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mặc dù tài sản này thuộc sở
hữu của nhà nước.
+ Các NNHCĐ khác do pháp luật quy định: Đây là một quy định mang
tính “mở” của pháp luật liên quan đến NNHCĐ. Nếu có văn bản pháp luật khác
quy định bổ sung về NNHCĐ thì NNHCĐ còn được xác định theo các văn bản
này.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
2.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
NNHCĐ theo Điều 623 được hiểu là những vật đang tồn tại hiện hữu mà
hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng
khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy
hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách
tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại.
Ta có thể thấy trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy
định là NNHCĐ nhưng chúng lại có đầy đủ tính chất của NNHCĐ, ví dụ như
ong bò vẽ, rắn độc, chó dại, trâu điên… Như vậy, khi xem xét sự vật gây thiệt
hại có phải là NNHCĐ hay không, cần căn cứ vào tính chất của sự vật đó như:
mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật; quy định
của pháp luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng… Xe đạp điện hay xe máy
có dung tích xi lanh dưới 50cm
3
là những phương tiện giao thông có gắn động
cơ, khi tham gia giao thông có thể đạt vận tốc lớn, có khả năng gây nguy hiểm
đến tính mạng, sức khỏe, tài sản người khác, tuy còn nhiều quan điểm khác
nhau nhưng theo em cần được xem là NNHCĐ. Đối với trường hợp chó dại,
trâu điên gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, mặc dù
rất nguy hiểm nhưng đây là những động vật đã được thuần hóa, không còn

mang tính chất hoang dã, không thể coi là “thú dữ”. Mặt khác, BLDS đã có
riêng điều luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
(Điều 625) áp dụng đối với chủ sở hữu, người quản lý súc vật nên không thể áp
dụng quy định về BTTH do NNHCĐ gây ra được. Còn ong bò vẽ, rắn độc mặc
dù không phải là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là
NNHCĐ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa
và có tính chất nguy hiểm lớn. Và như thế, việc xác định một vật có được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ hay không sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật và tính chất của sự vật đó. NNHCĐ không chỉ bao gồm những sự vật được
liệt kê tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn bao gồm những sự vật khác mà hoạt
động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung
quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại.
Đối với NNHCĐ, pháp luật thường có những quy định nghiêm ngặt trong việc
trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Vì
vậy, xác định NNHCĐ không chỉ căn cứ vào khái niệm NNHCĐ tại Điều 623
Bộ luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên
quan, nếu không thì phải xin ý kiến chỉ đạo của Tòa án nhân dân Tối cao trước
khi quyết định.
Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do
NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng
vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia
giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang
hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi NNHCĐ đang ở trạng thái “tĩnh”
– không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do NNHCĐ gây ra, ví dụ: xe ô
tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt
hại; ô tô tự nhiên bốc cháy gây thiệt hại; cột điện đổ khi đang thi công, không
có điện…
Thứ hai: Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân NNHCĐ hoặc

do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Có quan điểm cho rằng các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể
gây thiệt hại nếu không có sự tác động của con người. Quan điểm này cho rằng
đằng sau việc gây thiệt hại của một vật bao giờ cũng có sự tác động của con
người. Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm cho nó chuyển động. Quan
điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người gây ra, vì vậy các
thiệt hại đều quy về một nguyên tắc BTTH nói chung.
Tuy nhiên, không phải mọi thiệt hại do vật gây ra đều có sự tác động của
con người. Nhiều trường hợp, hoạt động của NNHCĐ nằm ngoài sự kiểm soát,
chế ngự của con người và tự thân NNHCĐ gây thiệt hại. Việc xác định thiệt hại
là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan
trọng khi xác định trách nhiệm BTTH.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến NNHCĐ nhưng do “tác động
của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc
chung của trách nhiệm BTTH. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham
gia của vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử
dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá;
dùng súng sát thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn;
dùng chất độc để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt
người vào chuồng hổ cho con thú tấn công… Những trường hợp này thiệt hại
hoàn toàn do hành vi có chủ ý của con người chứ không phải do tự thân
NNHCĐ gây thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của NNHCĐ, hoàn toàn
độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách
nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột
nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải
điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ phải có tính
trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây
dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính

của NNHCĐ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là
trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại
trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp
luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra cũng loại trừ các
trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất
khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 BLDS). Nói tóm lại, trách nhiệm
BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp
luật của NNHCĐ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
NNHCĐ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai:
chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan
đến NNHCĐ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực
tiếp tiếp xúc với NNHCĐ Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối
với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử
dụng NNHCĐ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế
độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ chỉ được đặt ra
khi NNHCĐ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi
xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến NNHCĐ
nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của NNHCĐ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt
hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do NNHCĐ gây ra chỉ có
thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy
tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con
người nên không thuộc phạm vi tác động của NNHCĐ.
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của
nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của NNHCĐ là nguyên nhân tất yếu,
nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết
quả của hoạt động của NNHCĐ. Khi xác định trách nhiệm BTTH, điểm mấu

chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách
nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ được áp dụng.
2.4. Bàn về điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
Theo quan điểm cổ điển, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi
có điều kiện lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Chỉ khi nào một người do lỗi của mình mà gây thiệt hại, xâm phạm đến
quyền lợi hợp pháp của người khác thì mới phải bồi thường. Cơ sở để người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường là họ phải chứng minh lỗi của người gây thiệt hại.
Điều kiện này trong nhiều trường hợp thực tế là không thể thực hiện được khi
thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của ai cả. Khuynh hướng xác định trách
nhiệm bồi thường dựa trên ý niệm lỗi nhiều khi không bảo đảm được một cách
hiệu quả quyền lợi cho nạn nhân trong khi việc bồi thường thiệt hại cho người
bị thiệt hại là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng
Để bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ nạn nhân chống lại việc gây ra tai
nạn, có quan điểm cho rằng trách nhiệm BTTH trong một số trường hợp có thể
phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Thực tế cho thấy các tai nạn mang tính
khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người ngày
càng gia tăng cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, cơ giới hóa, đe dọa
tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Nếu trong mọi
trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi thì không khác
gì gián tiếp bác bỏ quyền đòi bồi thường thiệt hại của nạn nhân. Vì vậy, khi có
việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong
trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. BBTH do NNHCĐ gây ra là một
trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi
không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 BLDS quy định “Chủ
sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”.
Nếu như các trường hợp BTTH thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì
trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối

×