Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Đọc hiểu truyện ngắn Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ở trường trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.59 KB, 98 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 1
MỎ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Văn chương vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người
hóa thân và thăng hoa, vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. “ Tác phâm văn học là
một công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc tập thê sảng tạo nhằm thế
hiện những khái quát bằng hình tượng về cuộc sổng con người ” và tư tưởng văn
hóa. Nó đem lại cho con người sự hiểu biết, sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, giúp
người đọc thanh lọc tâm hồn, góp phần hoàn thiện nhân cách con người, hướng con
người đến cái Chân - Thiện - Mĩ.
1.2. Việc giảng dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường có ý nghĩa thời
sự nóng hổi luôn thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã hội. Là
một bộ phận của văn học Ngữ văn, là phương tiện công cụ để người giáo viên giáo
dục học sinh một cách toàn diện về cái hay, cái đẹp, cái xấu nên tránh ở đời Tác
phấm văn học là bằng chứng cụ thê, sinh động về cuộc sống và con người, thời đại
từ đó giúp học sinh hiểu biết và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng kĩ xảo.
1.3. Giáo sư Trần Đình Sử trong bài viết “Con đường đoi mới con đường
căn bản phương pháp dạy - học văn ” (Văn nghệ số 10 ra ngày 7 tháng 3 năm 2009)
đã khẳng định: “Khởi điếm của môn Ngữ văn là dạy học sinh đọc hiêu trực tiếp văn
bản văn học của nhà văn Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn bản ẩy, không
hiếu được các văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của môn văn đều
chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”. Thực tiễn dạy học
trong nhiều năm nay nhất là việc dạy học môn Ngữ văn có tình trạng “thế bản ” lấn
át thay thế văn bản của nhà văn. Văn bản mà học sinh phải học không phải là văn
bản văn học mà là bài giảng của thầy cô, bài phân tích định giảng về tác phấm
đó Điều đó dẫn tới việc học sinh coi nhẹ việc đọc văn bản tác phẩm từ đó làm hạn
chế khả năng cảm thụ và sáng tạo của học sinh. Điều đó dẫn đến việc học sinh chỉ
biết tiếp thu một cách thụ động, mất dần kĩ năng đọc- hiểu văn bản, hay nói một
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 2


cách khác là thiếu đi năng lực đọc sáng tạo, đồng thời làm cho học sinh mệt mỏi và
chán nản trong mỗi giờ học của môn Ngữ văn. Bởi vậy vấn đề được đặt ra là: Trở về
với văn bản văn học nghệ thuật và xem đây như là con đường đổi mới căn bản
phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay: Dạy Ngữ văn theo con đường đọc - hiểu.
1.4. Hơn nữa, sách giáo khoa Ngữ văn đã được sắp xếp theo trục thể loại là
chính. Cho nên dạy văn còn là dạy cho học sinh đọc hiểu văn bản Ngữ văn theo đặc
trưng thể loại vừa giúp học sinh có những kiến thức cụ thể ở từng bài, vừa có những
kiến thức để đọc - hiểu các tác phẩm khác cùng thể loại.
1.5. Nguyễn Tuân là một trong những tác gia lớn của nền văn học Việt Nam
và là một trong chín tác gia được chọn đê giảng dạy trong nhà trường phổ thông.
Ông là nhà văn có vị trí vững chắc trong lịch sử văn học dân tộc, người đã tìm được
cho mình tiếng nói riêng nhờ một phong cách văn học đặc sắc. Ngòi bút của ông đi
vào nhiều vấn đề, nhiều vẻ của những hình tượng. Và ở hai thời kì trước và sau cách
mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân có những khác biệt khá rõ nét. Đi vào
văn chương Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám có thể thấy cái đẹp ở “Chữ
người tử tù” trong tập truyện ngắn đầu tay “ Vang bóng một thời ” viết về những
con người trong quá khứ, từng “vang bóng”’, những anh hùng hảo hán thất thế.
Nguyễn Tuân đã cố ý níu kéo những giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của dân tộc còn
ẩn sau hoặc lấp ló thú chơi chữ của các nhân vật trong tác phẩm này. Đe cao vẻ đẹp
thiên lương của những con người biết trân trong cái đẹp; biết ngông trên cái tài năng
của mình. Vì vậy, dạy “Chữ người tử tù ” trong trường phổ thông sẽ góp phần đưa
những giá trị về vẻ đẹp của một thời đã qua đến với học sinh, và giúp các em tiếp
cận với “người chiến sĩ ngôn từ đã đưa cải đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thay
trong văn học Việt Nam ” (Hoài Anh).
1.6. Là một sinh viên sư phạm, một giáo viên tương lai thông qua thực hiện
đề tài này, người viết muốn tích lũy được những kiến thức quí báu, bước đầu tiếp
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 3
cận phương pháp dạy học đổi mới và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Tất cả những cơ sở thực tiễn trên là lí do đế em lựa chọn và nghiên cứu đề tài

“Đọc - hiêu Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) ở trường trung học phô thông theo đặc
trưng thê loại
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về thể loại, về đọc - hiểu tác phẩm trong nhà trường là vấn đề
không hoàn toàn mới mẻ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt được những thành
tựu, có tác dụng làm nền tảng mở ra nhiều con đường tiếp nhận và giảng dạy.
2.1. Các công trình nghiên cửu giảng dạy tác phẩm vãn học theo thể
loại:
Từ xa xưa người phương Tây đã chia toàn bộ tác phẩm văn học ra làm ba loại
xuất phát từ phương thức phản ánh của chúng. Arixtốt (384-322 TCN) là người sớm
nhất đề xuất sự phân biệt này trong công trình “Nghệ thuật thi
_____> 9
ca
Ở nước ta vấn đề nghiên cứu văn học theo loại thể cũng được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm.
-GS. Nguyễn Thanh Hùng trong “Hiếu văn, dạy văn” đã đưa ra phương pháp
giảng dạy theo đặc trưng thể loại.
-GS. Trần Thanh Đạm trong cuốn “Vẩn đề giảng dạy văn học theo loại thể”
(1970) đã chia văn học thành ba loại: Tự sự, trữ tình và kịch. Sau đó tác giả gợi ý
phân tích các thể loại nhỏ hơn như: Thơ, biền văn (hịch, cáo, phú, văn tế ), truyện,
kí, và đưa ra các phương pháp giảng dạy theo đặc trưng từng thế loại
-“Thipháp hiện đại” của Đỗ Đức Hiểu tập trung vào nội dung thi pháp truyện
và giảng dạy truyện. Tuy nhiên công trình này cũng mới thành công trên lĩnh vực
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 4
nghiên cứu phê bình, chưa đề cập đến nhiều phương pháp giảng dạy.
-“Mẩy vẩn đề thi pháp truyện ” (Nguyễn Thái Hòa) cũng đề cập đến một thể
loại của tự sự là truyện ngắn, song vẫn dừng lại ở mục đích khái quát.
-Giáo trình “Lỉ luận văn học” do Hà Minh Đức (chủ biên) cũng tán đồng ý
kiến chia văn học thành ba loại: Tự sự, trữ tình và kịch. Cũng trong giáo trình này,

tác giả chủ trương tìm hiếu kĩ hơn một số thê loại nhỏ của từng loại trên. Cụ thế:
Loại tác phấm tự sự sẽ nghiên cứu tiếu thuyết và các các thế kí văn học; trong loại
tác phẩm trữ tình tìm hiểu thơ trữ tình và ở loại kịch sẽ tìm hiểu chính kịch.
-Giáo trình “Lí luận văn học ” do Phương Lựu (chủ biên) đã đưa ra sự phân
chia văn học thành năm loại chính: Tự sự - trữ tình - kịch - chính luận - kí. Ở đây,
chính luận và kí được tách ra thành những loại nhỏ. Vì theo tác giả đó chính là
những “lĩnh vực văn học đặc thù
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu văn học theo thể loại đã được các nhà nghiên
cứu quan tâm và đưa ra những kiến giải khác nhau.
2.2. Các công trình nghiên cứu về đọc - hiểu
Lịch sử đọc - hiểu xuất hiện từ thời loài người sáng tạo ra chữ viết để ghi lại
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư tưởng, tình cảm Từ trước đến nay đã có không ít
những công trình nghiên cứu bàn về vấn đề đọc - hiểu, trong đó có nhiều nhà nghiên
cún khá tên tuổi.
Trước đây người ta coi “đọc” là một hoạt động nhằm tiếp nhận xử lí thông
tin, góp phần hoàn thiện tri thức con người, còn “hiểu” là đích của “đọc Đen năm
2002, khi đối mới phương pháp dạy học, đọc - hiếu chính thức được coi là một
phương pháp.
Thuật ngữ “đọc - hiểu ” và việc dạy học Ngữ văn theo hướng dạy đọc - hiểu
được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 5
-V. A Nhicônxki trong “Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà trường phổ
thông” đã chú ý đến hoạt động đọc, vị trí của người học sinh trong trường phổ
thông, đặc biệt tác giả chú ý đến đọc diễn cảm.
-Z.Ia.Rez trong “Phương pháp luận dạy học ” đã trình bày một cách có hệ
thống các phương pháp, biện pháp dạy học và đặc biệt chú ý đến đọc sáng tạo.
Ở Việt Nam từ những năm 80 của thế kỉ XX đã xuất hiện nhiều cuốn sách
viết về các phương diện của đọc - hiểu.
-GS.TS Nguyễn Thanh Hùng (Đại học sư phạm Hà Nội) trong bài viết “Đọc-

hiêu văn chương” trên Tạp chí giáo dục số 92, tháng 7-2004 cũng đưa ra những kiến
giải về khái niệm đọc hiếu. Theo ông “Đọc hiêu văn chương là đọc cái chủ quan
của người viết bằng cách đồng hóa tấm hồn, tình cảm, suy nghĩ của mình trong
trang sách”, nghĩa là một quá trình đòng sáng tạo. Tác giả bài viết cũng chia “đọc”
làm ba dạng: Đọc kĩ, đọc sâu, đọc sáng tạo.
-GS Phan Trọng Luận trong cuốn “Phương pháp dạy học văn ” đã xem đọc
diễn cảm là một trong ba phương pháp thường dùng trong quá trình thâm nhập tác
phâm. Trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”, tác giả đã phân
tích rõ tầm quan trọng của hoạt động đọc.
-Trần Thanh Đạm trong bài viết “Dạy vãn: Dạy đọc và viết” (Báo “Văn
nghệ”, số 30 ra ngày 23-7-2005) đã xác định trung tâm của việc dạy văn, học văn là
dạy đọc văn và viết văn “từ đọc thông viết thạo chữ Việt Nam đến đọc thông viết
thạo văn Việt Nam Từ đó đặt ra yêu cầu mỗi thầy cô giáo dạy văn phải là những nhà
sư phạm của sự đọc văn và viết văn.
-Trong bài viết “Vẩn đề đọc - hiếu và dạy đọc - hiếu” trên Tạp chí Thông tin
khoa học sư phạm số 5, tháng 4-2004, PGS.TS Nguyễn Thái Hòa đã nghiên cứu vấn
đề đọc hiểu trên các phương diện: Chiến lược đọc - hiểu, Các hình thức đọc - hiểu,
Các cấp độ đọc-hiểu, Kĩ năng đọc - hiểu. Theo đây, đọc-hiểu có hai cấp độ: cấp thấp
nhất là đọc để ghi nhớ kí tự và cấp cao nhất là đọc đê tiếp nhận thông tin, phân tích,
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 6
giải mã, nhận xét bình giá
-TS. Nguyễn Trọng Hoàn trong bài “Đọc - hiểu văn bản Ngữ văn ở trung
học cơ sở” cho rằng đọc là “một phương thức tiếp nhận”', thông qua “ngôn ngữ
nghĩ” mà người đọc có thể chuyển hóa kí hiệu thành những đơn vị thông tin thẩm
mĩ. Ông cũng nhấn mạnh việc đọc kĩ văn bản, đọc những chú thích để vượt qua rào
ngôn ngữ.
-GS.TS Trần Đình Sử trong bài viết “Dạy học văn là dạy học sinh đọc
- hiểu văn bản ” đã bàn luận về vấn đề thế nào là đọc hiểu văn bản thông qua cắt
nghĩa đọc là gì và hiểu là gì. Ông cho rằng đọc - hiểu văn bản có hai bước: Hiểu

thông báo và hiểu ý nghĩa.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã tập trung vào nhiều khía cạnh,
phương tiện cơ bản của thể loại, của đọc - hiểu Trên cơ sở kế thừa những thành tựu
của lí thuyết đã có và vận dụng vào một tác giả cụ thê - Tác giả Nguyễn Tuân, một
tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, người
viết hi vọng có thể tìm ra một hướng tiếp cận tích cực, góp phần nhỏ vào việc hình
thành các thao tác, các bước đọc - hiểu trong giảng dạy văn chương nói chung và cụ
thể trong truyện ngắn “Chữ người tử tù
3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cún
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Tập họp các vấn đề lí luận liên quan tới đề tài.
-Khảo sát, thống kê các công trình nghiên cưu đọc - hiếu và các công
trinh nghiên cứu thể loại văn học.
-Xử lí và phát triển vấn đề đã khảo sát, vận dụng vào văn bản
íl
Chữ người tử
tù”.
3.2. Mục địch nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm:
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 7
-Củng cố và nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng
đổi mới.
-Đưa văn bản “Chữ người tử tù ” đến với học sinh theo đúng hướng đúng
phương pháp.
-Bồi dưỡng năng lực đọc - hiếu, cảm thụ tác phấm, làm cơ sở cần thiết
cho việc giảng dạy Ngữ văn sau này ở trường phổ thông.
4. Đối tượng nghiên cứu
-Đặc điểm của thể loại truyện ngắn qua “Chữ người tử tù ” (Nguyễn
Tuân)

-Đọc hiểu “Chữ người tử tù ” của Nguyễn Tuân ở trường trung học phổ
thông theo đặc trưng thể loại.
5. Phạm vi nghiên cửu
Đề tài này giới hạn phạm vi nghiên cứu:
-Đặc điểm loại hình tự sự qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân ở trường trung học phổ thông
6. Phưong pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dung các phương pháp:
-Phương pháp phân tích
-Phương pháp so sánh
-Phương pháp thống kê
-Phương pháp thực nghiệm
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp một phần nhỏ vào việc hình thành các thao tác, các bước đọc
hiểu trong giảng dạy văn chương ở trường THPT. Mặt khác khóa luận cũng góp một
phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong giai đoạn hiện
nay.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 8
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm có:
Mở đầu
Nội
dung:
Bao gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
Chương 2: Đọc - hiểu truyện ngắn “Chữ người tử tù ” (Nguyễn Tuân) ở
trường THPT theo đặc trưng thể loại.
Chương 3: Thực nghiệm.
Kết luận.

NỘI DUNG Chương 1
Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ Cơ SỞ THựC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
/././. Cơ sở tâm lí và lỉ luận dạy học hiện đại
1.1.1.1. Cơ sở tâm lí
Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống với mọi người Học tập là
một hoạt động giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống và trong sự phát triển của học
sinh, cấp “Trung học phổ thông” là thuật ngữ dùng để chỉ nhóm học sinh đầu tuối
thanh niên (từ 15 đến 18 tuổi) - Theo tâm lí học lứa tuối, đây là giai đoạn phát triến
bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuối mới lớn.
Có thể nói đây là lứa tuổi có những biến đổi tâm lí hết sức phức tạp. Ở lứa
tuổi này, hoạt động của các em hết sức phong phú nên những hứng thú của lứa tuổi
này không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng.
Với học sinh THPT ngày càng xuất hiện nhiều vai trò của người lớn và các em thực
hiện những vai trò đó ngày càng có tính độc lập và tinh thần trách nhiệm hơn Tất cả
các em đều đứng trước suy nghĩ về việc chọn ngành nghề định hướng cho tương lai,
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 9
cuộc sống của mình. Nói cách khác đây là giai đoạn người thanh niên trẻ đang hình
thành, tìm kiếm cái bản sắc riêng có mục đích xã hội của mình. Cũng chính vì vậy,
thái độ có ý thức của các em với học tập ngày càng phát triển. Thêm vào đó, tri giác
có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Các em biết ghi nhớ lôgic có trừu tượng, ghi nhớ
ý nghĩa. Các em cũng có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc
lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được học trong
nhà trường. Học sinh hoàn toàn có khả năng chủ động trong việc tiếp nhận đối tượng
văn học; Các em có thể phát hiện ra một lớp nội dung, các “tầng vỉa” tư tưởng ẩn
sau lớp ngôn từ. Việc áp đặt các cách hiểu của giáo viên về tác phẩm có thể sẽ gây ra
sự chán nản, thậm chí là sự phản ứng chống đối.
Bởi thế, người giáo viên phải biết thiết kế tổ chức học sinh thực hiện các hoạt
động học tập Ngữ văn nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện kĩ năng nghe-nói-

đọc-viết, năng lực cảm thụ tác phấm văn chương, Hay nói một cách khác là giáo
viên biết lựa chọn những phương pháp phù hợp nhằm phát huy hết tính chủ động,
sáng tạo của học sinh, đồng thời phải tạo được hứng thú học tập cho các em. Giáo
viên phải tinh tế trong việc nắm bắt những đặc điểm tâm lí của học sinh để đưa ra
biện pháp, phương pháp nhằm thu hút, tạo sự say mê với môn học từ phía học sinh.
ỉ. ỉ. 1.2. Lí luận dạy học hiện đại
Cách đây hơn 2500 năm, đức Khổng Tử đã đề cập đến vấn đề dạy và học,
ông cho rằng có dạy mà không có học thì dẫu sự dạy có hay thế nào thì cũng không
sao thành công được. Chính vì vậy Khổng Tử luôn lấy cả sự dạy và sự học làm điều
trọng yếu - “Học đê sau đó biết là không bao giờ đủ, dạy đê sau đó biết là còn
nhiều khó khăn. Biết không đủ đê sau đó tự mình cố gắng. Biết khó khăn đê sau đó
tự mình kiên cường lên ”
Trong thời đại ngày nay, việc dạy học và học trong trường phố thông cần có
một cách nhìn, một hướng đi phù hợp với thực tế. Người Việt Nam có câu: “Không
thầy đổ mày làm nên ” gắn bó chặt chẽ với phương pháp dạy học truyền thống vốn
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 10
tồn tại từ bao đời. về cơ bản phương pháp này hướng trọng tâm hoạt động của người
thầy. Thầy giáo bằng tất cả tài năng, tâm huyết tiếp cận với kho tàng tri thức nhân
loại, lĩnh hội chúng và chuyển tải tới học sinh. Quá trình dạy học ở đây “Là quả
trình thông tin được chuyển tải từ thầy sang trò và phụ thuộc căn bản vào tài năng
sư phạm của thầy: Thầy thuyết trình, diễn giải; Trò nghe ghi theo, nghĩ theo
Dạy học theo lối truyền thống tồn tại cả hai mặt. Trước hết, dạy học theo lối
truyền thống tiết kiệm thời gian, đồng thời lượng kiến thức mà thầy truyền đạt cho
trò là rất đầy đủ, liền mạch, có hệ thống. Song mặt hạn chế của phương pháp dạy
học này là khiến cho học sinh chán nản, ức chế, không hứng thú và không phát huy
được tính chủ động sáng tạo của học sinh.
Vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn luôn là vấn đề được
quan tâm hàng đầu. Đáp ứng yêu cầu bức xúc của xã hội, trong “Chiến lược phát
triên giáo dục từ 2001-2010” của Đảng đặt vấn đề: “Đoi mới và hiện đại hóa

phương pháp giảo dục, chuyên từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng trò
ghi chép sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quả trình tiếp cận tri
thức; dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ
thong và cỏ tư duy phân tích, tỏng hợp; phát triên năng lực của môi cả nhân; tăng
cường tỉnh chủ động và tính tự chủ cho học sinh Rõ ràng, đổi mới phương pháp dạy
học làm cho người học được nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn.
Giờ đây giáo viên không phải là trung tâm mà chỉ là người nêu tình huống, kích
thích hứng thú, gợi suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh, từ đó hệ
thống hóa vấn đề, rút ra kết luận, hình thành bài học và khắc sâu những tri thức cần
nắm vững.
Người học trong phương pháp dạy học mới trở thành trung tâm của giờ học,
dưới sự gợi ý, cố vấn của giáo viên, người học tự chiếm lĩnh tri thức.
Đổi mới Phương pháp dạy học Ngữ văn là một tất yếu khách quan. Trước
đây, quan niệm về dạy Văn chủ yếu là giảng Văn thì nay dạy học Văn là dạy học
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 11
sinh đọc - hiểu văn bản. Đứng trước một văn bản văn học, không còn con đường nào
khác là đọc. Đọc được coi là phương thức đặc thù trong tiếp nhận văn học. Mặt khác
không ai có đặc quyền nào khi tiếp nhận một văn bản văn học. Đọc-hiếu vì thế vừa
là một hoạt động đặc thù, có ảnh hưởng xuyên thấm đến các phương diện khác của
qui trình tích hợp và liên thông kiến thức, vừa được xem là chiến lược trong đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay
1.1.2. Vấn đề tiếp nhận văn học
ỉ. 1.2. ỉ. Khải niệm
Theo “Từ điên tiếng Việt”, “tiếp nhận ” là “đón nhận cái từ người khác, nơi
khác chuyên giao cho
Theo đó, “tiếp nhận văn học ” là “hoạt động chiếm lĩnh giả trị tư tưởng
thâm mĩ của tác phấm văn học, bat đầu từ sự cảm thụ vẫn bản ngôn từ, hình tượng
nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài năng tác giả cho đến sản
phấm sau khi đọc

Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn chương”
lại quan niệm: “Tiếp nhận tác phẩm văn học là đem lại cho người đọc sự hưởng thụ
và hứng thủ trí tuệ hướng vào người đọc đê củng cố và phát triên một cách phong
phủ những khả năng thuộc thế giới tinh thần và năng lực cảm xúc của con người
trước đời sống
về thực chất, tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa
người đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Nó đòi hỏi người đọc phải tham gia
bằng tất cả trái tim, khối óc, hứng thú, nhân cách và tri thức của mình. Có thế nói nó
được xem như một quá trình “ đoi tượng hóa sức mạnh bản chất người” của cá thể
trong xã hội. Đe thực hiện quá trình đó, chủ thể tiếp nhận không chỉ dựa vào những
phân tích văn bản ngôn từ một cách máy móc rồi khái quát giá trị ý nghĩa của tác
phẩm. Nói tới tiếp nhận chính là đề cập hai phương diện thống nhất bản chất của
một vấn đề: về phía đối tượng- tức tác phẩm văn học, khi được tiếp nhận nó không
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 12
còn là những “kí hiệu tĩnh” không còn là hình thức tồn tại khách quan của những
con chữ khô khan, mà trở nên một thế giới có hồn, có đời sống, có số phận, hoàn
cảnh sự việc và tâm lí. Có được điều đó hay không và có đến mức độ nào-nhân tố có
vai trò quyết định lại do khả năng chuyển kí hiệu thẩm mĩ sang hoạt động thẩm mĩ
của chủ thể tiếp nhận: người đọc.
Tiếp nhận văn học là quá trình sáng tạo hay còn gọi là quá trình “đồng sáng
tạo”. Và bạn đọc ở mỗi thời đại sẽ bồi đắp cho nó những lớp ý nghĩa sinh động khác
nhau. Bởi thế, tiếp nhận văn học có tác dụng thúc đẩy ảnh hưởng văn học, làm cho
tác phấm không đứng yên mà luôn vận động, phong phú thêm trong quá trình phát
triến văn học.
Việc dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường thực chất là dạy cho học
sinh cách tiếp nhận văn học. Nhưng tiếp nhận văn học với học sinh là tiếp nhận dưới
sự giúp đỡ, gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. Giáo viên cần phải lưu ý: Mỗi tác phẩm văn
học đều được người nghệ sĩ sáng tạo bằng những phương thức riêng, vì vậy giáo
viên cần phải nắm được những phương thức đặc trưng ấy đê giúp học sinh có cách

tiếp nhận cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
ỉ. ỉ.2.2.Cơ sở tiếp nhận văn học
Mọi sự vật, sự việc đều có nguồn gốc, lịch sử; và để hiểu rõ bản chất sự vật,
sự việc thì phải hiểu rõ nguồn gốc, lịch sử của những đối tượng đó. Cũng như muốn
tiếp nhận tác phẩm trước hết phải hiểu con đường mà nhà văn sáng tạo ra nó, từ đó
tạo tiền đề cơ sở cho việc tiếp nhận văn học một cách đúng hướng.
*Con đường nhà vẫn sảng tạo tác phâm
Tác phẩm sinh ra từ tâm hồn và trí tuệ nhà văn trong một quá trình hoạt động
tâm lí tư duy và ngôn ngữ, kết thúc thành một văn bản ngôn ngữ. Có thể nói khi trí
tuệ và cảm xúc đã đạt đến sự hài hòa, kết tinh sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật
của nhà văn, dẫn dắt nhà văn đến những mục tiêu nghệ thuật bằng con đường gần
như trực giác bản năng. Platôn gọi đó là “thần hứng”. Còn như Lecmôntôp lại nói:
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 13
“có những đêm không ngủ, mat rực chảy và thôn thức, lòng tràn ngập nhớ
nhung khi tôi viết” hay Nêkratxốp cũng khẳng định: “Nếu những đau khổ từ lâu bị
kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi viết”. Khi cảm hứng xuất hiện,
người nghệ sĩ có nhu cầu giãi bày, biểu hiện và cũng khi đó nhà văn sáng tạo ra tác
phẩm văn chương.
Song con đường nhà văn sáng tạo ra các tác phẩm văn chương không thẳng
tap, không giản đơn và không phải nhà văn, nhà nhà thơ nào cũng tạo ra các tác
phâm mang giá trị sâu sắc một cách dễ dàng. Nhà thơ Tản Đà đã từng nói:
“Bao nhiêu củi nước mới thành văn
Được bán văn ra chết mấy lần
Đường văn, đời văn bao gập ghềnh, có những nhà văn, nhà thơ đã sáng tác,
đang sáng tác nhưng đến một thời điểm nào đó cũng phải nhức nhối vì không thê
viết, không thê phơi bày ý tứ trong tác phâm của mình.
Nhà văn đứng trước cuộc sống ăm ắp, bằng óc quan sát cảm thụ, bằng sự hồi
tưởng và trí ttưởng tượng phong phú đã tạo ra tác phẩm văn học-“đứa con tinh
thần” của mình.

Nhà văn hòa mình vào cuộc sống, hòa mình vào cuộc đời của muôn nghìn
con người, vạn vật Nhà văn nhận thức, tích lũy, ghi nhớ đó là một giai đoạn tích
lũy lâu dài. Và thật khó xác định giai đoạn tích lũy của nhà văn bắt đầu từ khi nào,
bởi nó được cất giấu trong lòng. Cùng với sự rung động của đời sống chạm tới khối
óc nhanh nhạy của nhà văn và nhanh chóng được nhà văn nhận diện. Sự gặp gỡ, va
chạm của hai yếu tố khách quan và chủ quan đã khiến rung động nghệ thuật, khát
vọng biểu đạt bắt đầu Nhà văn gửi tất cả những điều đó vào tác phẩm. Tuy nhiên
văn chương là địa hạt của sự sáng tạo, nó không “dung nạp” những “người thợ khéo
tay chỉ biết làm theo một vài kiêu mẫu đưa cho ” (Nam Cao). Đứng trước trang giấy
với một nghệ sĩ chân chính giống như đứng trước “pháp trường trắng” (Nguyễn
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 14
Tuân), đòi hỏi trách nhiệm và tài năng nghề nghiệp. Bởi thế tác phấm văn chương
đích thực sẽ vượt qua sự “băng hoại của thời gian và sống với loài người cho đến
ngày tận thế”.
*Con đường chiếm lĩnh tác phấm văn học
“Chiếm lĩnh tác phấm văn học ” hay còn là “quả trình tiếp nhận văn học”;
Nguyễn Thanh Hùng trong “Đọc và tiếp nhận văn chương”, khẳng định “tiếp nhận
văn học là một quá trình. Đọc văn là một quả trình tiếp nhận. Tác phấm văn học là
một “đề án tiếp nhận ” và “đọc văn chương - một con người mới ra đời”, đọc văn
chương còn là một “lao động khoa học”, là một quá trình sáng tạo.
Quá trình tiếp nhận văn học bắt đầu từ việc đọc, phân tích, cắt nghĩa và cuối
cùng là bình giá. Đây là một hệ thống thao tác có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trật tự của hệ thống này không thế đảo ngược. Tiếp cận là một hoạt động định
hướng cho sự phân tích.
Hoạt động đọc
Nhà văn là người sáng tạo ra văn bản, thực hiện quá trình kí mã. Văn bản đó
là ý đồ nghệ thuật của nhà văn, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả
năng hiểu văn bản. Còn bạn đọc, người tiếp nhận văn bản là người thực hiện quá
trình giải mã. Như vậy văn bản là một bộ mã, có thế chấp nhận nhiều cách lí giải

khác nhau nhưng phải phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi. Bởi vậy bước đầu
tiên đê chiếm lĩnh tác phấm văn học là “đọc” đê giải mã hệ thống kí hiệu ngôn ngữ
đó.
Đọc văn là lao động khoa học, người đọc phải phát huy trực cảm và khả năng
hoạt động ngôn ngữ trong một môi trường văn hóa thẩm mĩ. Đọc văn là để hiểu tác
phẩm, để tiếp nhận nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm. Với mỗi tác phấm khác nhau
sẽ có cách đọc khác nhau.
Hoạt động phân tích
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 15
Trong cuốn “Đọc và tiếp nhận văn chương”, GS.TS Nguyễn Thanh Hùng chỉ
rõ: “Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối tượng đê có cái nhìn cụ thế những yếu tố
làm nên chỉnh thê sâu hơn Tác phâm văn học là một chỉnh thể thống nhất. Phân
tích tác phẩm văn học là thao tác tháo gỡ tất cả những tương quan vốn không thê
tách rời nhau trong một chỉnh thê nghệ thuật, để rồi ghép hợp lại, người tiếp nhận sẽ
có một cái nhìn phong phú và sâu sắc đối với tác phẩm văn học. Không nên phân
tích tất cả các yếu tố trong tác phâm văn học. “Phải lựa chọn những yếu tổ có bản
sac của tác phắm, biết đi sâu vào cảm xúc mãnh liệt, trung thực nhất trong thế giới
nội tấm, vượt qua sự đầy đủ von quen thuộc và sảo mòn, kiếm tìm sự súc tích của
ngôn ngữ nghệ thuật ”
Hoạt động cat nghĩa
Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn chương. Cắt
nghĩa để làm rõ nghĩa tác phẩm ấy, không chỉ làm tường minh nghĩa ngôn ngữ của
tác phẩm mà còn phải cắt nghĩa hình tượng của tác phẩm để từ cái được phản ánh,
người đọc nhận thức cái được biểu hiện trong tác phẩm, cắt nghĩa đem lại nhận thức
chắc chắn, có cơ sở về tác phẩm văn học. Có hiểu tác phấm văn chương thì mới có
thê cắt nghĩa được, cắt nghĩa được một cách thuyết phục nội dung phân tích là bằng
chứng về sức cảm, hiểu thấu đáo giá trị nội dung trong hình thức tác phẩm.
Hoạt động bình giả
Đọc - tiếp cận, phân tích và cắt nghĩa là ba giai đoạn chủ quan hóa khách thể

thẩm mĩ trong tiếp nhận văn học. Nó mở ra giai đoạn khách quan hóa chủ thế thấm
mĩ của cá nhân người đọc. Điều đó phản ánh qui luật trong cơ chế tiếp nhận văn
chương bao giờ cũng kèm theo sự đánh giá, bình phâm về tác phẩm với những quan
điểm, tư tưởng và tiêu chuẩn thẩm mĩ đậm màu sắc cá nhân chủ quan. Bình giá trong
tiếp nhận văn chương là hoạt động hoàn tất cơ chế tiếp nhận lĩnh hội tác phẩm văn
học.
Khi bình giá, người đọc phải đề cao nội dung, lí tưởng về cuộc sống và con
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 16
người trên cơ sở khái quát hóa, điển hình hóa lí tưởng ấy trong hình tượng văn học.
Đồng thời trong hoạt động bình giá cũng cần lưu ý đến cái được nhận thức và đánh
giá như thế nào, bởi vì bản chất nghệ thuật của tác phấm văn chương là cái đẹp của
tư tưởng và quan niệm của nhà văn về cuộc sống, cái đẹp của hình thức thể
hiện Trọng tâm của hoạt động bình giá là cái mới về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm, cần tránh sự bình giá phiến diện, chủ quan, bảo thủ và càng nên tránh sự
“nhại lại” ý kiến của người đi trước một cách thiếu bản sắc.
Như vậy, tiếp cận tác phấm văn học bao gồm một hệ thống hoạt động có quan
hệ chặt chẽ với nhau: đọc - tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá. Và như đã nói
thì trình tự hệ thống này không thế đảo ngược. Đọc là yêu cầu bắt buộc để tiếp cận
tác phẩm văn học và định hướng cho sự phân tích. Hoạt động cắt nghĩa xác định tính
chính xác của nội dung phân tích. Hoạt động bình giá mở rộng, đi sâu hơn vào giá trị
tác phẩm bằng sự phong phú và đầy cá tính của người tiếp nhận .
ỉ. ỉ.2.3.Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học
Có thể nói, mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc là mối quan hệ tương tác
giữa người lập mã và người giải mã. Trong sự tương tác này, văn bản là sự mã hóa
thông tin thẩm mĩ của nhà văn;còn người đọc thực hiện một qui trình ngược lại: giải
mã văn bản để tiếp nhận thông điệp thẩm mĩ.
Bạn đọc đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn học. Mỗi tác giả
khi sáng tạo ra tác phấm đã gửi gắm vào đó bao hoài bão, ước mơ, lí tưởng lớn
lao nhưng nó vẫn chỉ ở trên trang giấy tĩnh. Khi bạn đọc giải mã văn bản đó thì tác

phẩm văn học mới thực hiện được những chức năng xã hội của mình. P.Valery nói:
“Ỷ nghĩa trong thơ tôi là do bạn đọc cho nó”. Hay Giôn Điwây phân biệt “sản
phẩm nghệ thuật" do người nghệ sĩ sáng tạo ra khi nào được công chúng thưởng
thức tiếp nhận thì mới trở thành “tác phẩm nghệ thuật”. Vai trò của bạn đọc đối với
sinh mệnh, sự sống còn của tác phẩm nghệ thuật là vô cùng quan trọng.
Trong lời nói đầu góp phần phê phán chính trị và kinh tế học, Các Mác nói:
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 17
“Vói tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu bản thân sự tiêu dùng là một yếu tổ nội tại
của hoạt động sản xuất”. Tiếp nhận văn học của bạn đọc cũng là một hoạt động tiêu
thụ, bạn đọc cũng là một người tiêu thụ. Nhưng người tiêu dùng thông thường chỉ sử
dụng sản phẩm với những giá trị vốn có của nó, do đó giá trị sử dụng nói chung là
ngang nhau giữa tất cả mọi người. Trái lại, người đọc văn học làm phong phú thêm
cho tác phấm bằng những cảm thụ và đánh giá riêng của mình. Bởi thế “Sêchxpia
chỉ viết một Hamlet nhưng có hàng triệu Hamlet trong lòng bạn đọc
Nói tới vấn đề bạn đọc với tiếp nhận văn học không thể không nhắc tới khái
niệm tầm tiếp nhận (hay tầm đón nhận): “Với tư cách là chủ thể tiếp nhận với bất
cứ tác phấm văn học nào người đọc không bao giờ là một tờ giấy trang thụ động mà
von có một “tầm đón nhận ” được hình thành một cách tông hợp bởi nhiều yếu tổ”.
Mỗi bạn đọc tùy vào điều kiện sống, lứa tuổi, tâm lí, trình độ, học vấn, nghề nghiệp,
thời đại lại cón những kiến giải khác nhau về một tác phẩm. Đó là một điều bình
thường làm phong phú cho đời sống văn học.
Như vậy, mối quan hệ giữa gắn bó, biện chứng giữa người đọc và tiếp nhận
văn học sẽ đưa ra những kết luận cho sự tồn tại và phát triển của tác phấm văn học
đó. Bạn đọc, công chúng chính là nhân tố chuyên hóa những giá trị tinh thần trong
tác phấm trở thành những động lực tình cảm trong tiến trình lịch sử.
1.1.3. Vẩn đề thê loại
1.1.3.1. Khải niệm và phân loại
Khái niệm thê loại
Theo “Từ điến thuật ngữ văn học”: “Thê loại là dạng thức của tác phấm văn

học được hình thành và tồn tại tương đối on định trong quá trình phát triến lịch sử
của văn học, thế hiện sự giống nhau về cách thức tô chức tác phắm, về đặc điêm
của các loại hiện tượng đời sổng được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ nhà
văn với các hiện tượng đời song ấy”
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 18
Từ “Genres” (Thể loại) là nguyên bản tiếng Pháp, và nghĩa đơn giản là “loại
” hoặc “kiểu Khái niệm thể loại là kết quả của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa thực
tế cụ thể, sinh động của sáng tác. Nen văn học của mỗi dân tộc cũng như toàn bộ
nền văn học của thế giới xưa nay là một kho tàng bao gồm rất nhiều tác phấm văn
học cụ thê, con đẻ tinh thần của các nhà văn, nhà thơ thuộc các giai cấp, các dân tộc,
các thời đại khác nhau. Mỗi tác phẩm văn học là một công trình sáng tạo độc đáo về
nội dung và nghệ thuật. Việc nghiên cứu văn học đòi hỏi nhiều cách phân loại khác
nhau: Phân loại theo thời kì, trường phái, trào lưu, phương pháp, phong cách và
phân loại theo thể loại. Vấn đề phân loại
Từ xa xưa, Aristốt (384-322 TCN) đã chia văn chương thành ba loại tương
ứng với ba phương thức phản ánh đặc trưng. Neu hình tượng thiên nhiều về mặt
biếu hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả ta sẽ có tác phấm trữ tình. Neu hình tượng
thiên nhiều về mặt phản ánh con người, sự việc trong cuộc sống, ta sẽ có tác phẩm
tự sự. Tác phẩm tự sự tập trung cô đọng đến mức độ bản thân nhân vật, sự việc, câu
chuyện có thể tự mình bộc lộ một cách độc lập trên trang sách hoặc trên sân khấu
không cần sự dẫn chuyện của tác giả, như thế ta có tác phấm kịch.
Từ ba loại trên ta có thể chia nhỏ như sau:
Tự sự: -Tự sự dân gian gồm: Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ
tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười
- Tự sự trung đại và hiện đại.
Trữ tình: - Trữ tình dân gian: Ca dao, câu đố
- Trữ tình trung đại và hiện đại: Thơ cố thế truyền thống và
tự do.
Kịch: - Kịch dân gian: Chèo, tuồng, múa rối

- Kịch hiện đại: Bi kịch, hài kịch
1.1.3.2. Thê loại tự sự
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 19
Khái niệm
Tự sự là “phương thức tải hiện đời sống trong toàn bộ khách quan của nỏ.
Tác phắm tự sự phản ảnh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sổng trong
không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cổ xảy ra trong cuộc đời con người ”
Theo “7m* điến tiếng Việt 2005”: “Tự sự là loại văn học phản ảnh hiện thực
bằng cách kê lại sự việc, miêu tả tính cách qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh
Như vậy, tư tưởng, tình cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và
hành động của con người, nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình,
khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là
một thế giới tạo hình xác định đang tự tồn tại, phát triển, không phụ thuộc vào tình
cảm, ý muốn của người viết. Cũng có thể nói tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện
trực tiếp hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với tác giả
thành một câu chuyện có sự diễn biến của sự việc, của hoàn cảnh, có sự phát triến
tâm trạng, tính cách, hành động của con người.
Đặc điêm
Thứ nhất: cốt truyện
Cốt truyện là "hệ thong sự kiện làm nòng cốt cho sự diên biến các moi quan
hệ và sự phát triên tỉnh cách nhân vật trong tác phấm văn học” (Từ điển thuật ngữ
văn học). Nói đến tự sự là nói đến cốt truyện. Đây được coi là đặc trưng cơ bản của
các tác phâm thuộc loại này.
Có thế nói, nhờ cốt truyện, nhà văn thế hiện sự hình thành, đặc điếm của mỗi
tính cách cũng như sự tác động qua lại giữa các tính cách. Cũng nhờ cốt truyện, nhà
văn tái hiện các xung đột xã hội, chứng tỏ năng lực, cách thức chiếm lĩnh thực tại
khách quan của mình. Dù đa dạng, mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận
động có hình thành, phát triển và kết thúc. Và mỗi thời đại lại có quan niệm khác
nhau về cốt truyện.

Xét về phương diện kết cấu, qui mô nội dung có thể chia cốt truyện thành hai
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 20
loại: cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến.
Trong cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện gọn gàng, đơn giản về số lượng,
tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân vật chính, có khi là
một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật chính.
Cốt truyện đa tuyến là cốt truyện trình bày một hệ thống sự kiện phức tạp
nhằm tái hiện nhiều bình diện của đời sống trong một thời kì lịch sử, tái hiện những
con đường diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật. Do đó có dung lượng lớn.
Thứ hai: Nhân vật
Nhân vật được hiểu là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học”; là chìa khóa để người đọc đi vào thế giới tư tưởng của nhà văn.
Dựa vào vị trí nhân vật trong tác phấm có thê chia thành: Nhân vật chính,
nhân vật trung tâm, nhân vật phụ.
Dựa vào cấu trúc nhân vật chia thành: Nhân vật chức năng, nhân vật loại
hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng
Thứ ba: Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một phương tiện để phản ánh cuộc sống thành hình tượng trong
truyện, mặt khác cũng là phương tiện để biểu hiện thái độ tư tưởng, tình cảm, sự
đánh giá của tác giả đối với cuộc sống.
Ngôn ngữ tự sự phân thành: Ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kế chuyện.
Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Ngôn ngữ nhân
vật có ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại.
Ngôn ngữ nhân vật được nhà văn sử dụng như một phương tiện để miêu tả
đời sống tâm lí và khắc họa tính cách nhân vật. Nhờ việc khảo sát ngôn ngữ nhân vật
có thê biết được tính cách nhân vật, nhận diện nhân vật. Qua đó nhà văn thê hiện tư
tưởng tác phấm.
Ngôn ngữ người kể chuyện đứng ngoài tác phẩm với tư cách là người trần
thuật. Ngôn ngữ người kể chuyện chẳng những có vai trò then chốt trong phương

Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 21
thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn,
giọng điệu, cá tính tác giả.
I.I.3.3. Thê loại truyện ngan
Truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là “xung kích” của đời sống văn
học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết nhà văn trên con đường
sáng tạo nghệ thuật đầy cam go
Theo quan điểm hiện nay, “Truyện ngắn” được định nghĩa là tác phẩm tự sự
cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời
sống: Đời tư, thế sự và sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi truyện
được viết ra là đế đọc liền một mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc
điểm chủ yếu để phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác (các loại
truyện kể dân gian cũng có độ dài tương đương với truyện ngắn). Truyện ngắn hiện
đại hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc
sống rất riêng, mang tính chất thể loại.
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn
và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng,
phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Neu mỗi
nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là một
mảnh nhỏ của thế giới ấy. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc
họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh.
Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý
thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người, cốt truyện thường diễn ra trong
một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều
gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành
nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 22

liên tưởng. Bút pháp trần thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Yeu tố quan
trọng bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối
hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.
Ở truyện ngắn, mỗi câu chữ, mỗi dấu chấm phảy đều phải được chọn lọc tới
mức tinh xảo, hoàn mỹ. Ngôn ngữ của truyện ngắn phải là thứ ngôn ngữ kim cương
tuân theo những "Quy luật vàng” khắc nghiệt! "Trong các thể loại văn chương,
truyện ngắn đóng vai trò hô bảo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thủ dữ này,
không được có chút mỡ thừa dính vào mọi cơ bẳp, nếu không chủng không thê săn
mồi được. Ngắn gọn là qui luật của việc cẩu tạo truyện ngan. Nhờ cỏ khả năng
phản ảnh hành động một cách ngan gọn, truyện ngan có khi còn có thê đạt tới trình
độ anh hùng ca và đó là cả một bỉ mật của nó ” (Hoan Bốtsơ - nhà văn Đức);
"Truyện ngan là một thứ giọt nước mà không có nó không thê cố đại dương . Theo
tôi hiêu toàn bộ truyện ngan là một tẩm thảm lớn lao về cả thòi đại. Với những
mảnh tưởng như rất nhỏ bẻ, nỏ góp phần tạo nên cả tẩm chân dung hoàn chỉnh.
Truyện ngan giong như tranh khẳc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ,
cô đọng, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải chỉnh
xác. Đây là một công việc vô cùng tỉnh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp,
chính đó là chô làm cho truyện ngan phân biệt với các thê loại khác” (Ts.
Aitmatốp), v.v
ỉ A 3.4. Mối quan hệ giữa thê loại và tiếp nhận văn học
Giữa thể loại của tác phẩm và vấn đề tiếp nhận văn học có một mối quan hệ
gắn bó. Cụ thế: “Nhà văn sảng tác theo thê loại nào thì người đọc cũng cảm thụ
theo thê loại và người dạy cũng dạy theo thê loại”. Nói một cách khác, phương thức
cấu tạo hình tượng mà tác giả sử dụng khi sáng tác qui định phương thức cảm thụ
hình tượng đó của người đọc và cũng từ đó qui định phương thức giảng dạy của giáo
viên.
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 23
Như vậy với mỗi thể loại ta có cách tiếp nhận khác nhau, vẫn biết “tất cả
mọi tác phấm dù được sảng tác theo thi pháp tất yếu nào cũng mở theo các kiêu

đọc, moi kiếu đọc mang đến cho đời sống tác phấm một đời sống mới từ một trỉến
vọng nào đó theo thị hiếu cá nhân của người đọc” (Umberto Eco) thì việc đọc-hiểu
không thể tách rời những tri thức về thể loại.
SGK Ngữ văn hiện nay sắp xếp các văn bản Ngữ văn theo đặc trưng thể loại.
Đây được coi là giải pháp đê rút ngắn những “khoảng cách tiếp nhận”.
1.1.4. Vấn đề đọc-hỉếu
“Đọc” là một hoạt động sáng tạo của con người. Đọc không chỉ là một hoạt
động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan mang
tính cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con người. Đọc còn là
một hoạt động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ
năng lực văn hóa của con người.
1.1.4.1. Quan niệm về đọc - hiêu
Theo “Từ điên tiếng Việt” thì “đọc là phát minh thành lời những điều đã
được viết ra, theo đủng trình tự, là cách tiếp nhận nội dung của một tập hợp kí hiệu
bằng cách nhìn vào các kỉ hiệu Như vậy theo nghĩa đó ta có thê hiểu đọc văn là cách
tiếp cận nội dung của tác phẩm văn học bằng cách nhìn vào hình tượng nghệ thuật,
ngôn ngữ miêu tả, kết cấu thời gian, không gian nghệ thuật của tác phẩm đó.
Xưa nay người ta cho rằng “đọc” là một vấn đề quen thuộc, là một hoạt động
rất quen thuộc đối với chúng ta. Như ở Anh, việc hướng dẫn cách đọc được đặc biệt
chú trọng ngay từ bài dạy học tác phâm thơ ở bậc tiêu học, nhằm tạo ra “những viễn
cảnh cho thế hệ mới”. “Đọc ” ở đây được coi như điểm khởi đầu cho những năng
lực khác. Hoạt động “đọc” trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Đọc văn từ
rất lâu đã gắn liền với nhu cầu khám phá thế giới nghệ thuật của nhà văn, và “đọc”
còn gắn liền với khát vọng đổi thay xã hội. Muốn đọc được, trước hết, phải có năng
lực cảm thụ ngôn ngữ- suy rộng ra đó là năng lực cảm thụ văn hóa. Với người nghèo
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 24
vốn sống thì việc hiểu ngôn ngữ sẽ bị hạn chế; người không có khả năng giải mã tín
hiệu ngôn ngữ thì một kiệt tác có ở trước mặt cũng trở thành vô nghĩa. Bởi suy cho
cùng, mục đích của “đọc” là để “hiểu” trực tiếp. “Đọc” chính là hoạt động trả lời

câu hỏi “làm gì ?”. Vì vậy, “ đọc” và “hiểu” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
“Hiêu ” là nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của cái gì, bằng sự vận dụng trí tuệ.
Hiểu là biết được ý nghĩa, tình cảm, quan điểm của người khác. “Đọc ” trong một số
lĩnh vực mục đích rõ ràng, nhưng ở một số lĩnh vực khác, “đọc” là hoạt động mang
tính tự phát, không phải là không có mục đích mà là mục đích ban đầu chưa rõ ràng,
sau khi “đọc” mới rõ đó là hoạt động có mục đích.
IA.4.2. Đọc - hiêu là phương pháp tiếp cận tác phắm văn học
“Đọc ” là một dạng khám phá sáng tạo. “Đọc ” cũng là chối bỏ sự trì trệ của
lối mòn và hướng tới thiết lập những quan hệ tư duy mới. Nói “đọc - hiểu” hay
“đọc để hiểu” không chỉ là phát ngôn mang tính “thói quen” mà đó là vấn đề có tính
nguyên lí. Có lúc, ngỡ mới chỉ lướt qua xem văn bản bằng mắt thôi thì trong trí não
của chủ thể đã nảy sinh những xung đột tâm lí nhất định, bằng chứng là đã ghi nhận
một thông tin nào đó (dù mờ nhạt).Có vẻ như chưa là đọc, nhưng thực ra đó cũng là
một dạng thức của “đọc”. Và trong cái hình thái dù chỉ như mới sơ khai ấy của đọc,
đã bao hàm một dấu hiệu trao đổi với văn bản. Như thế cũng có nghĩa “đọc ” trước
hết gắn với nhu cầu giao tiếp (hoặc ít nhiều mang đặc tính tác động qua lại của hoạt
động giao tiếp) giữa chủ thể, người đọc với đối tượng (văn bản - thế giới nghệ thuật
- nhà văn). Giữa “đọc” và “hiểu ” vừa có mối quan hệ nhân quả (đọc để hiểu), đồng
thời chúng có mối quan hệ biện chứng (hiêu đê đọc tốt hơn). “Đọc ” vì thế có thể
hiểu là cách thức, con đường, tức là một phương pháp; Viện sĩ Roman Ingaden (Ba
Lan) cũng quan niệm: “Đọc - hiểu là phương pháp toi ưu để tiếp cận tác phâm văn
chương. Đây là phương thức không thê thay thế”. Chính vì vậy, “hiểu” là mục đích
cần đạt được khi đọc một văn bản, một tài liệu. Trong dạy - học Ngữ văn, hiểu văn
bản ấy không phải là mục đích mà là đích cuối cùng, là thực hiện các nhiệm vụ của
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Ngữ văn
Nguyễn Hải Hà - K33C. SP Ngữ văn 25
môn Ngữ văn.
Nhằm tiếp cận và xử lí thông tin, hoạt động đọc - hiếu xảy ra theo cơ chế tác
động hũu cơ giữa hai thành tố chính: Chủ thể (người đọc) và đối tượng (tác phẩm).
Người đọc tác động vào văn bản bằng xúc cảm và khả năng tri giác, thông qua quá

trình chuyển hóa kí hiệu ngôn ngữ thành những đơn vị thông tin thẩm mỹ. Qúa trình
này được thực hiện bởi hình thái tiếp nhận trung gian là “ngôn ngữ nghĩ”. Như vậy,
để “tường minh” ý tưởng có được từ hoạt động tri giác văn bản, người đọc phải cảm
thụ được sự khơi gợi của âm thanh, nhạc điệu, sắc thái biếu cảm và phải có khả năng
chuyến mã từ hệ thống ký hiệu ngôn từ sang những đường nét hình dung và kinh
nghiệm mà dạng thức biểu hiện đầy đủ nhất của nó là tính sinh động của hình tượng
nghệ thuật.
“Đọc” bao giờ cũng gắn liền với việc xác định “hệ qui chiếu”, ý nghĩa của
những dấu hiệu nghệ thuật, xác định “độ dôi” có tính khác biệt trước hết về mặt hình
thức so với những qui ước thông thường của đời sống được thể hiện trong tác phấm.
Người đọc phát hiện ra những “mâu thuẫn” ấy, biến chúng thành những đối tượng có
tính chất “đầu mối” đế tiếp cận và cắt nghĩa nghệ thuật. Tiếp nhận văn học là quá
trình người đọc thê hiện chính mình, đồng thời, tìm tòi, phát hiện năng lượng của sự
có mặt của nhà văn biểu hiện vừa hữu hình, vừa tồn tại ở dạng “tiềm năng” trong
văn bản. Bởi vì nói như viện sĩ Roman ĩngaden (Ba Lan) thì “mọi tác phẩm văn học
đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bô xung mà không bao giờ ta đạt tới giới hạn cuối
cùng bằng văn bản”. Mỗi cách đọc, theo đó được xem như một phương án, phản
ánh những mức độ khác nhau của khả năng tiếp nhận. Hiệu quả của việc đọc văn
học bao giờ cũng gắn với từng phương thức thể hiện nó. Đọc thầm khác với đọc diễn
cảm, đọc ngẫu nhiên khác với đọc có chủ định, đọc cá nhân khác với đọc trong môi
trường cụ thể
“Đọc ” như trên đã trình bày, đó là quá trình xác định một kiểu quan hệ giao
tiếp. “Đọc ” là phương thức tiếp nhận nghệ thuật ngôn từ, qua đó người đọc biếu

×