Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

GiảI pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank -Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.71 KB, 65 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
LỜI MỞ ĐẦU
Cho vay tiêu dùng là sản phẩm tín dụng xuất hiện từ lâu đời trên thế giới và
hiện nay đang phát triển rất mạnh nhất là ở các nước đang có tiềm lực về kinh tế và
cạnh tranh ngân hàng sôi động. Tuy nhiên tại Việt Nam dịch vụ này mới phát triển
một vài năm gần đây khi các ngân hàng nắm bắt được một thực tế là không phải lúc
nào người tiêu dùng cũng có thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cho mình do
đó các ngân hàng đã đẩy mạnh phát triển cho vay tiêu dùng nhằm tạo điều kiện cho
khách hàng của mình thỏa mãn các nhu cầu mua sắm trước khi có khả năng thanh
toán.
Với kinh tế ngày một phát triển, thị trường hàng hóa sôi động, dân số đông trên
dưới 85 triệu người, phần lớn là dân số trẻ, năng động có nhu cầu tiêu dùng cao,
Việt Nam là một thị trường tiềm năng không chỉ đối với các ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, ngân hàng trong nước mà cả với nhiều định chế tài chính
cung ứng dịch vụ tiêu dùng hàng đầu thế giới. Đứng trước thị trường có tiềm năng
sinh lợi nhưng cũng đầy cạnh tranh đó, ngân hàng VPBanh- Chi nhánh Đông Đô đã
nhanh chóng tham gia và phát triển một số sản phẩm cho vay tiêu dùng với lãi suất
cho vay hấp dẫn, kỳ hạn cho vay dài, như: cho vay mua nhà, cho vay mua xe ô tô,
cho vay cán bộ công nhân viên chức không có tài sản đảm bảo… Trải qua một quá
trình triển khai và rút kinh nghiệm, ngân hàng TMCP doanh nghiệp ngoài quốc
doanh VPBank- Đông Đô đã thu được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, để nâng
cao chất lượng của cho vay tiêu dùng một cách an toàn và hiệu quả nhằm hướng tới
mục tiêu trở thành một trong những chi nhánh ngân hàng có uy tín trong việc cung
ứng sản phẩm cho vay tiêu dùng không phải là điều đơn giản.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng cho vay tiêu
dùng, đồng thời mong muốn tìm hiểu về thực trạng và khả năng phát triển của cho
vay tiêu dùng trong tương lai tại ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh VPBank- Đông Đô em đã lựa chọn: “Giải pháp nâng cao chất lượng cho
vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh VPBank- Đông Đô “làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B


Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
Chuyên đề này được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại các Ngân hàng
thương mại :
Trong chương này, em xin trình bày một số vấn đề để làm rõ vai trò của ngân
hàng thương mại cũng như các khoản cho vay tiêu dùng đối tại ngân hàng thương
mại và chất lượng của các khoản tín dụng này.
Chương II: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân Hàng TMCP các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank – Đông Đô :
Trong chương này, em xin tập trung vào việc đưa ra các số liệu, dựa vào đó để
phân tích những nguyên nhân tồn tại và khó khăn trong việc nâng cao chất lượng
cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng VPBank – Đông Đô.
Chương III: Giải pháp, kiến nghị mở rộng và phát triển hoạt động cho
vay tiêu dùng tại Ngân Hàng TMCP các doanh nghiẹp ngoài quốc doanh
VPBank – Đông Đô :
Trong chương này, căn cứ vào những nguyên nhân vướng mắc, những khó
khăn ở chương II đã đề cập, em đưa ra một số giải pháp có thể áp dụng vào thực tế
hoạt động của Ngân hàng VPBannk –Đông Đô trong việc nâng cao chất lượng cho
vay tiêu dùng.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại :
1.1.1 Khái niệm :
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan
trọng nhất trong nền kinh tế thị trường. Trung gian tài chính là một tổ chức, doanh
nghiệp hoặc cá nhân thực hiện các chức năng trung gian giữa hai hay nhiều bên
trong một hoạt động tài chính nhất định. Hiện nay rất nhiều tổ chức trung gian tài

chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng
khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các
dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh
tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp về
bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào
quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Do đó, các ngân hàng được định
nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh
tế : Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế.
Dưới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, Luật các tổ chức tín dụng (được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 và
có hiệu lực từ 1/10/1998) thì “ NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên
quan”. Trong đó, tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ,
làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và
sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo tính chất
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển,
ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân
hàng khác.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại :
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn :
Để đảm bảo cho hoạt động cho vay, các ngân hàng buộc phải tìm mọi cách để
huy động nguồn vốn cho vay, đảm bảo cho “đầu vào” của ngân hàng. Không có
nghiệp vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của NHTM. Nó không chỉ có

ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với
khách hàng. Nó cung cấp cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm, một nơi an toàn
để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi.
Theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
NHTM có quy định NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác.
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước chấp nhận.
 Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
các tổ chức tín dụng nước ngoài.
 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Trong việc cạnh tranh để tăng nguồn vốn huy động, các ngân hàng cần phải
xây dựng cho mình hình ảnh “một ngân hàng vững mạnh và uy tín”, nâng cao chất
lượng dịch vụ. Điều này thúc đẩy hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng hoàn thiện
và phát triển vững mạnh hơn nữa.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng :
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hoạt động tín
dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
NHTM được cho vay các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
+ Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống.

+ Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín
và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối
với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ
lệ so với vốn tự có của NHTM.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. Chiết khấu thương
phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của
thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa
đến hạn.
Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức, hoạt
động của công ty cho thuê tài chính. Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản
để cho khách hàng theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách
hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
1.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ :
Để thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
hàng, NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện
thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, NHTM
phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đó đặt trụ sở chính
và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh
của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố nơi đặt trụ sở chính của chi nhánh. Hoạt động ngân quỹ là hoạt động
nhằm thúc đẩy khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng.

Đây là tài sản không sinh lời hoặc có sinh lời thì cũng rất thấp. Bù lại khả năng
thanh toán thường xuyên của một Ngân hàng được đảm bảo bằng những tài sản có
tính thanh khoản cao như: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại các ngân hàng trung ương
và các NHTM khác, tiền đang trong quá trình thu. Tuy nhiên đây là loại tài sản có
khả năng sinh lời rất thấp nên việc để lại nhiều tài sản sẽ làm giảm lợi nhuận của
Ngân hàng.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động
sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.1.2.4. Hoạt động khác :
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, NHTM còn có thể thực hiện một số hoạt động khác,
bao gồm:
o Kinh doanh ngoại hối: Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này
lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Hiện nay, kinh doanh ngoại hối thường
chỉ do ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro
cao, đông thời yêu cầu có trình độ chuyên môn cao. Các loại giao dịch kinh doanh

ngoại tệ mà các ngân hàng thường thực hiện bao gồm: giao dịch giao ngay ngoại tệ,
giao dịch kì hạn ngoại tệ, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, giao dịch giao sau ngoại tệ,
giao dịch quyền chọn mua, giao dịch kinh doanh chênh lệch giá…
o Góp vốn mua cổ phần: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và
liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
o Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo
quy định.
o Kinh doanh chứng khoán: Trên thị trường tài chính hiện nay, các NHTM
không ngừng phấn đấu để trở thành một “siêu thị tài chính” thực sự. Thị trường
chứng khoán ra đời và phát triển là lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch
vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, quản lý các danh mục đầu tư, bảo
lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán.
o Ngân hàng điện tử: Dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng có thể
truy cập từ xa vào một ngân hàng nhằm: thu thập thông tin, thực hiện giao dịch
thanh toán, đăng kí và sử dụng các dịch vụ mới. Khả năng đáp ứng của dịch vụ ngân
hàng điện tử dựa trên khả năng của từng ngân hàng trong việc ứng dụng công nghệ
tin học vào các sản phẩm dịch vụ của mình. Nói cách khác, dịch vụ ngân hàng điện
tử là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ
ngân hàng thông qua việc kết nối mạng máy vi tính của mình với ngân hàng.
Ngoài các hoạt động trên, NHTM có thể thực hiện một số hoạt động khác: Ủy
thác và nhận ủy thác, Cung ứng dịch vụ bảo hiểm, Tư vấn tài chính, Bảo quản vật
quý giá…
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
1.2 Tổng quan về cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại :
1.2.1. Khái niệm :
Có nhiều quan điểm khác nhau về cho vay tiêu dùng. Có người cho rằng: “cho
vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng đối với người tiêu dùng nhằm tài trợ cho

chính sự tiêu dùng”, người khác lại nói: “cho vay tiêu dùng là quan hệ kinh tế giữa
một bên là ngân hàng và một bên là cá nhân người tiêu dùng trong đó ngân hàng
chuyển giao tiền cho khách hàng với nguyên tắc người đi vay (khách hàng) sẽ hoàn
trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai”. Nhưng nhìn chung, ta
có thể hiểu “cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thỏa
thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục
đích tiêu dùng, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định”.
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu
cầu chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm các cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn
tài chính quan trọng giúp họ trang trải cho nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình, xe
cộ Bên cạnh đó cho vay tiêu dùng còn đáp ứng những chi tiêu cho nhu cầu giáo
dục, y tế, du lịch Các khoản vay này giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng
hóa, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có được một cuộc sống có
chất lượng cao hơn.
1.2.2 Đặc điểm cho vay tiêu dùng :
1.2.2.1 Quy mô mỗi khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn :
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có
nhu cầu vốn không cao vì nhu cầu của người tiêu dùng đối với các loại hàng hóa xa
xỉ là không cao hoặc đã có tích lũy từ trước đối với những tài sản có giá trị lớn. Mặt
khác, do cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao hơn nên ngân hàng cũng thường thận
trọng hơn trong việc quyết định số tiền cho vay căn cứ vào khả năng trả nợ và tài
sản đảm bảo của khách hàng. Song nếu xét về quy mô thì nhu cầu vay tiêu dùng là
khá lớn do đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội, từ
những người có thu nhập cao đến những người có thu nhập trung bình và thấp với
nhiều nhu cầu phong phú và đa dạng. Khi chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí
được nâng cao, người dân càng có nhu cầu vay ngân hàng để cải thiện và nâng cao
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
mức sống. Do đó, nền kinh tế càng phát triển, số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ

càng nhiều.
1.2.2.2. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao :
Vì đối tượng của cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên hoạt động
này không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan của người tiêu dùng mà còn
chịu tác động từ các yếu tố khách quan từ bên ngoài. Ta có thể thấy một số nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này là:
- Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường khó đầy đủ và rõ
ràng như thông tin về doanh nghiệp (công khai thông qua báo cáo tài chính), dẫn
đến rủi ro đạo đức và rủi ro thông tin không cân xứng. Các cá nhân có thể tìm cách
trốn tránh không trả các khoản vay cho dù có khả năng thanh toán.
- Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại của
người vay. Do vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc làm hay gặp
các biến cố bất ngờ ảnh hưởng đến thu nhập hàng tháng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong thu hồi nợ. Đây là rủi ro khó lường trước, khác với món vay kinh doanh ta có
thể hạn chế được thông qua nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
- Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi nền kinh tế
mở rộng, người dân lạc quan về tương lai thì họ sẽ vay ngân hàng nhiều hơn, và khi
nền kinh tế suy thoái, tình trạng thất nghiệp tăng thì họ sẽ hạn chế vay mượn ngân
hàng.
1.2.2.3 Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn :
Do số lượng món vay tiêu dùng nhiều, khách hàng đông và đa dạng nhưng số
lượng mỗi khoản vay lại nhỏ, ngân hàng phải huy động nhiều nhân lực cho hoạt
động cho vay, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, quyết định cho vay,
giải ngân cũng như kiểm soát và thu nợ đối với khách hàng sau khi cho vay. Mặt
khác, ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn để quản lý các khoản cho vay tiêu
dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn do đối với khách hàng cá nhân, thông tin về
tình hình tài chính thường không công khai minh bạch như ở các công ty lớn. Tất cả
những điều này kiến chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay tiêu dùng cao hơn
so với các loại hình cho vay khác.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
1.2.2.4 Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục cho vay có khả
năng sinh lời cao mà ngân hàng thực hiện :
Do các khoản vay tiêu dùng thường được định giá cao, theo ước tính chỉ khi
nào lãi suất vay vốn trên thị trường và tỉ lệ tổn thất tín dụng tăng lên đáng kể thì hầu
hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định giá cao
là do cho vay tiêu dùng có chi phí lớn và rủi ro cao, hơn nữa là do tâm lý người vay
không quan tâm tới lãi suất phải trả, họ thường quan tâm tới khoản tiền phải trả
hàng tháng hơn là lãi suất. Mặt khác, nếu như trong kinh doanh, người ta phải hạch
toán lãi lỗ thì trong tiêu dùng người ta đặt yếu tố thỏa mãn lên hàng đầu dù có phải
trả chi phí lớn hơn.
1.2.3 Phân loại cho vay tiêu dùng:
Có nhiều cách phân loại cho vay tiêu dùng, tuỳ theo tiêu thức chúng ta lựa
chọn mà cho vay tiêu dùng được phân chia thành:
1.2.3.1 Căn cứ vào mục đích vay :
 Cho vay tiêu dùng bất động sản: Là khoản tín dụng được cấp nhằm tài
trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà cửa của cá nhân hay hộ gia đình.
Những món vay thường có quy mô lớn và thời gian dài. Việc đánh giá giá trị tài sản
tài trợ có vai trò vô cùng quan trọng đối với ngân hàng. Nếu như trong cho vay tiêu
dùng thông thường thì thu nhập tương lai của người vay là yếu tố quan trọng để
ngân hàng quyết định có cho vay hay không thì trong cho vay tiêu dùng bất động
sản, giá trị và tình hình biến động giá của tài sản được tài trợ là yếu tố mà ngân hàng
rất quan tâm. Bởi vì khoản tín dụng tài trợ cho loại tài sản này có giá trị lớn, nên sự
biến động theo hướng không có lợi của nó sẽ dẫn tới những thiệt hại rất lớn cho
ngân hàng.
 Cho vay tiêu dùng thông thường: Đây là những khoản cho vay phục vụ
nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt, du
lịch, học hành, y tế hoặc giải trí Những khoản tín dụng thường có quy mô nhỏ,
thời gian tài trợ ngắn, do đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những
khoản cho vay tiêu dùng bất động sản. Đối với loại cho vay này, yếu tố quyết định

cho vay hay không là khả năng trả nợ của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị
tài sản đảm bảo. Có thể thấy một số loại hình cho vay tiêu dùng thông thường như:
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
- Cho vay du học: Là khoản cho vay đối với thân nhân của những người đi
du học nhằm mục đích hỗ trợ tài chính cho người đi du học (tại chỗ hoặc nước
ngoài).
- Cho vay mua xe hơi: Là khoản cho vay đối với cá nhân có nhu cầu mua ô
tô phục vụ cho nhu cầu cá nhân.
- Cho vay hỗ trợ tiêu dùng khác: Là các khoản vay để phục vụ cho các mục
đích đa dạng khác như chữa bệnh, cưới hỏi, đi du lịch…
1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả :
 Cho vay hoàn trả nhiều lần (cho vay tiêu dùng trả góp) : Theo hình thức
tài trợ này, thì người đi vay trả nợ cho ngân hàng (gồm cả gốc và lãi) theo những kỳ
hạn nhất định do ngân hàng quy định (tháng, quý ). Hình thức này áp dụng cho các
khoản vay có giá trị lớn, thời hạn vay dài hoặc với những khách hàng mà thu nhập
định kỳ của họ không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay.
 Cho vay hoàn trả 1 lần: Là khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia
đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời hoặc mua hàng hoá có giá trị không lớn
và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn.
 Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo
một hạn mức tín dụng nhất định bằng cách sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc
được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.
1.2.3.3. Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ :
Xuất phát từ việc NHTM có thể thực hiện những khoản cho vay tiêu dùng trực
tiếp với khách hàng xin vay tại ngân hàng hoặc dưới hình thức gián tiếp bằng cách
mua các phiếu tiêu dùng từ những người bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ tiêu
dùng. Ta có:
Cho vay tiêu dùng gián tiếp : Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua

các khoản nợ phát sinh (phiếu bán hàng) do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng
hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng. Như vậy, cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình
thức NHTM tài trợ cho các hãng bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để họ
bán hàng trả góp cho người tiêu dùng
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có những ưu điểm như giúp ngân hàng tiếp cận
được với đối tượng có nhu cầu vay cao, tiết kiệm được chi phí liên quan đến việc
thẩm định và đánh giá khách hàng (do có sự trợ giúp của phía nhà bán lẻ), gia tăng
uy tín và mở rộng địa bàn hoạt động. Tuy nhiên, cho vay gián tiếp cũng sẽ làm tăng
rủi ro đối với ngân hàng do ngân hàng không thể tiếp xúc trực tiếp với người tiêu
dùng, mặt khác nhân viên bán lẻ không được đào tạo về chuyên môn xét duyệt thẩm
định các khoản vay lớn. Sự kết hợp đồng thời giữa 3 bên: ngân hàng, người bán lẻ
và khách hàng cũng đòi hỏi một sự phối hợp nhịp nhàng và một hợp đồng chặt chẽ
về trách nhiệm các bên.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp sẽ được thực hiện bằng một trong 2 cách sau:
Cách 1: Ngân hàng, người bán hàng và người mua hàng phải thỏa thuận được
với nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần, sau đó ngân hàng cho người mua
hàng vay phần tiền chưa trả đủ cho người bán hàng để giao cho người bán hàng và
giữ lại giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ.
Có thể mô tả quy trình như sau:
Sơ đồ 1: Quy trình cho vay tiêu dùng gián tiếp ( cách 1)
Trong đó:
1. Người mua trả trước 20-30% giá trị của tài sản
2. Người bán giao tài sản cho người mua đồng thời giữ lại quyền sở hữu
tài sản
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Người mua Công ty bán lẻ
NHTM
(5) (4)(3)

(2)
(1)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
3. Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng làm thế chấp và
phiếu bán hàng
4. Ngân hàng trả phần tiền còn thiếu cho người bán (70-80%)
5. Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kì hạn được xác định
Cách 2: Được thực hiện với thời hạn và mức trả dần tương tự như trên nhưng
khác ở một số điểm: Người bán giao tài sản và giao sở hữu, người bán và người mua
thực hiện hành vi mua bán chịu tài sản nên xuất hiện kì phiếu, ngân hàng chiết khấu
kì phiếu của người bán…Trình tự như sau:
Sơ đồ 2: Quy trình cho vay tiêu dùng gián tiếp (cách 2)
1. Người mua mua chịu hàng hóa và có kì phiếu cho người bán
2. Người mua kí quỹ 20-30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản
3. Ngân hàng chiết khấu kì phiếu từ người bán hàng
4. Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua
5. Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn xác
định
Tùy theo mức độ liên quan của công ty bán lẻ đối với những rủi ro mà ngân
hàng sẽ phải gánh chịu, ta cũng có 3 phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp:
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Người mua Công ty bán lẻ
NHTM
(2) (3)(5)
(4)
(1)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
Ở mức cao nhất, công ty bán lẻ sẽ cam kết thanh toán cho ngân hàng toàn bộ
các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
Đây là phương thức an toàn nhất đối với ngân hàng. Theo phương thức thứ hai,

trách nhiệm thanh toán của công ty bán lẻ đối với ngân hàng chỉ có giới hạn, phụ
thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận. Phương thức thứ ba thì ngân hàng sẽ
phải chịu toàn bộ rủi ro: sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty bán lẻ
không còn trách nhiệm trong việc chúng có được hoàn trả hay không. Chỉ những
công ty bán lẻ rất được ngân hàng tin cậy mới áp dụng hình thức này. Ngoài ba
phương thức trên, nếu người tiêu dùng không trả được nợ thì ngân hàng có thể thanh
lý tài sản bằng cách bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh
toán.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Đây là hình thức trong đó ngân hàng trực tiếp
tiếp xúc với khách hàng của mình, thẩm định và đánh giá nhu cầu vay vốn của
khách hàng và việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính ngân hàng. Có
thể hình dung quy trình cho vay tiêu dùng trực tiếp qua sơ đồ các bước sau:
Sơ đồ 3: Quy trình cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng với nhau.
(2) Người tiêu dùng trả trước nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hoá của
mình.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Ngân hàng Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(5) (4)(2)
(3)
(1)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp.
(4) Nhà cung cấp giao hàng hoá cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng.
Ưu điểm của hình thức tài trợ này là: rất linh hoạt vì có sự đàm phán trực tiếp
giữa ngân hàng và khách hàng, quyết định cho vay hay không hoàn toàn phụ thuộc
vào ngân hàng, ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ kiến thức kinh
nghiệm của cán bộ tín dụng. Hơn nữa, khi khách hàng quan hệ trực tiếp với ngân

hàng, có nhiều khả năng họ sẽ sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như mở tài
khoản tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ chuyển tiền và như vậy quyền lợi của cả hai phía
ngân hàng và khách hàng đều được thỏa mãn trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp của cả
hai bên.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp bao gồm các phương thức sau:
• Cho vay trả theo định kì: Là phương thức trong đó khách hàng vay và trả trực
tiếp cho ngân hàng với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được quy định khi cho vay.
Khi được cấp tiền vay, toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có
tài khoản tiền gửi cá nhân hoặc giao tiền mặt cho khách hàng
• Thấu chi: Là nghiệp vụ cho phép một khách hàng rút tiền từ tài khoản vãng
lai của họ vượt quá số dư có, tới một hạn mức đã được thỏa thuận. Để có thể cho
vay thông thường giữa ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận về: hạn mức, lãi
suất, yêu cầu đảm bảo phí các loại, bảo đảm tín dụng nếu cần, thời điểm tái xét thời
hạn có hiệu lực của hạn mức. Trong nghiệp vụ này khách hàng phải trả lãi số tiền
mà họ sử dụng theo mức lãi suất đã thỏa thuận, tức trên số dư nợ thực tế của tài
khoản vãng lai. Nó không quy định cho các đối tượng là các mặt hàng cụ thể nào và
không đòi hỏi phải thanh toán nhiều lần bằng các phần bằng nhau.
• Thẻ tín dụng: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho
những người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn
tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng. Phương thức thẻ tín dụng bao
gồm sự thỏa thuận 3 bên: người giữ thẻ, ngân hàng và người bán hàng. Ở đây thẻ đã
bảo đảm cho người bán hàng một điều là người giữ thẻ đã được ngân hàng bảo lãnh
một số tiền nhất định
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
1.2.4 Đối tượng cho vay tiêu dùng :
Nếu khách hàng sử dụng dịch vụ cho vay bán buôn đa số là doanh nghiệp, thì
đối tượng dùng dịch vụ cho vay tiêu dùng (cho vay bán lẻ) chủ yếu là cá nhân, hộ
gia đình có nhu cầu vay vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Các sản phẩm dùng cho
dịch vụ cho vay tiêu dùng đòi hỏi sự chuẩn hoá cao (chuẩn hoá về đặc tính sản

phẩm, quy trình bán hàng, kênh phân phối, sản phẩm bán kèm và phương thức quản
trị rủi ro) nhằm đáp ứng được nhu cầu của từng phân đoạn khách hàng. Do đó. sản
phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng không chỉ được xây dựng trên cơ sở tham
khảo quy chuẩn của các ngân hàng nước ngoài mà còn phải phù hợp với điều kiện,
văn hoá và tập quán của người Việt Nam. Việc phân loại các đối tượng vay tiêu
dùng sẽ giúp các NHTM trong việc đưa ra những sản phẩm cho vay tiêu dùng phù
hợp và đem lại hiệu quả cao nhất. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại đối tượng của
cho vay tiêu dùng, dưới đây là các tiêu thức phổ biến thường gặp.
1.2.4.1. Phân theo mức thu nhập :
• Những người có thu nhập thấp: họ là những người có hoàn cảnh khó
khăn, rất muốn cải thiện đời sống của mình nhưng bị hạn chế do thu nhập không đủ
để thoả mãn nhu cầu đa dạng của họ. Tuy nhiên, họ cũng có mong muốn cuộc sống
tốt hơn như bất kỳ những người có thu nhập cao hơn nào. Do đó, ngân hàng cũng
cần có các biện pháp phù hợp để thu hút những người này đến ngân hàng hiện tại và
trong tương lai. Xét trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam thời gian này thì đây là
những khách hàng tiềm năng đối với các NHTM.
• Những người có thu nhập trung bình: khi thu nhập tăng thì nhu cầu cải
thiện điều kiện sống của người tiêu dùng cũng tăng. Đối với những người thuộc
nhóm này thì nhu cầu tín dụng tiêu dùng có hướng tăng trưởng ngày càng mạnh bởi
khoản tích lũy của nhóm này tuy ít song thu nhập trong tương lai của họ có phần ổn
định để có thể chi trả cho những nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
• Những người có thu nhập cao: những người thuộc nhóm này thường cần
tới những khoản vay tiêu dùng với mục đích coi đó như là một khoản linh hoạt để
chi tiêu và trợ giúp thêm cho khả năng thanh toán, khi mà tiền vốn của họ đã đem
đầu tư trung và dài hạn. Mặc dù khoản vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ
chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là những
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
món tiền lớn so với các nhóm khách hàng khác nên ngân hàng tỏ ra quan tâm đặc
biệt đến nhóm khách hàng này.

1.2.4.2. Phân theo tình trạng công tác hoặc lao động:. Xét Nhu cầu vay tiêu
dùng của cá nhân phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề nghiệp hoặc nơi công tác
theo đặc điểm phân loại trên, chúng ta có các nhóm khách hàng sau:
- Những khách hàng làm công ăn lương
- Những người có công việc kinh doanh riêng
- Những người hành nghề chuyên nghiệp (ca sĩ, luật sư, bác sĩ …̣)
- Những người lao động tự do
Theo cách phân loại trên thì trên thực tế những người thuộc 3 nhóm đầu có thu
nhập ổn định và cao hơn so với nhóm cuối và nhu cầu vay tiêu dùng phân theo tình
trạng công tác hay lao động cũng chủ yếu xuất phát từ những nhóm đó
1.2.5 Vai trò cho vay tiêu dùng :
1.2.5.1. Đối với người tiêu dùng :
Cho vay tiêu dùng có tác dụng đặc biệt với những người có thu nhập thấp và
trung bình, họ sẽ được hưởng các dịch vụ, tiện ích trước khi có đủ khả năng về tài
chính như mua sắm các hàng hoá thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay
trong trường hợp chi tiêu cấp bách như nhu cầu về y tế.
Có thể nói rằng bất cứ một người nào đều mong muốn được thoả mãn những
nhu cầu của riêng mình, bắt đầu từ những hàng hoá thiết yếu rồi đến những hàng
hoá xa xỉ hơn. Tuy nhiên thực tế là một người trẻ lại chưa có đủ khả năng chi trả
cho những nhu cầu của mình mà họ cần thời gian tích luỹ tiền, người tiêu dùng sẽ
khéo léo phối hợp giữa thoả mãn nhu cầu cấp bách về vốn ở hiện tại với khả năng
thanh toán ở hiện tại và tương lai, nghĩa là họ sẽ thụ hưởng phần thu nhập có trong
tương lai.
Mặt khác, việc thỏa mãn trước nhu cầu sẽ thúc đẩy người tiêu dùng phấn đấu
để chi trả cho nhu cầu đó càng sớm càng tốt vì thông thường khi vay ngân hàng để
mua sắm thì chính tài sản đó hoặc giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản sẽ trở
thành vật đảm bảo đối với ngân hàng, mà tâm lý chung của nhiều người là không
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
muốn nắm giữ tài sản mà không phải của mình. Điều này gián tiếp đưa đến việc

tăng thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng.
Chính vì những lý do trên mà ngày càng nhiều các cá nhân, hộ gia đình tìm đến
ngân hàng với mong muốn ngân hàng sẽ giúp đỡ họ trong việc mua sắm hàng hóa
thiết yếu, những hàng hóa có giá trị cao nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và nâng
cao cuộc mức sống của các cá nhân và hộ gia đình.
1.2.5.2. Đối với người sản xuất :
Mục tiêu của tất cả các nhà sản xuất là tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ sản xuất cùng loại hàng hóa và
đứng vững trên thị trường. Để đạt được mục tiêu đó thì dù bằng cách này hay cách
khác, các nhà sản xuất đều mong muốn tiêu thụ được càng nhiều hàng hóa càng tốt,
họ sẵn sàng bán hàng hóa trả góp, thậm chí bán chịu trong một thời gian. Do đó, đối
với nhà sản xuất, cho vay tiêu dùng kéo nhu cầu tương lai về hiện tại, người tiêu
dùng có thể mua hàng hoá nhiều hơn và nhanh hơn, quy mô sản xuất tăng nhanh,
bán được sản phẩm, quay vòng vốn nhanh hơn, mở rộng sản xuất, do đó lợi nhuận
cũng tăng lên. Đây cũng là nguyên do khiến càng ngày càng nhiều nhà sản xuất
mong muốn hợp tác với ngân hàng để mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.2.5.3. Đối với ngân hàng thương mại :
Trước hết, cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Như ta đã biết, cho vay tiêu dùng có chi phí và rủi ro cao nhưng đồng thời cũng tạo
ra lợi nhuận lớn hơn nhiều trên một đồng vốn bỏ ra so với các hình thức cho vay
khác. Cho vay tiêu dùng cũng giúp ngân hàng thu hút thêm khách hàng sử dụng các
hình thức dịch vụ khác, bởi vì thông thường khi cho vay tiêu dùng, ngân hàng
thường có ràng buộc khách hàng phải chuyển tiền hoặc sử dụng trả lương qua tài
khoản tại ngân hàng… Tuy nhiên, khách hàng cũng có xu hướng sử dụng kèm các
dịch vụ ngân hàng cá nhân tại ngân hàng mình đã có quan hệ tín dụng. Đây cũng là
điều kiện tiên quyết giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, tăng khả năng
huy động các loại tiền gửi từ dân cư, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập với
xu thế quốc tế.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng tạo điều kiện cho ngân hàng đa dạng hóa hoạt
động kinh doanh, từ đó tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro ngân hàng

SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
1.2.5.4. Đối với nền kinh tế :
Có thể nói rằng hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế, dù là trực tiếp hay gián
tiếp cũng đều được hưởng những lợi ích do hoạt động của ngân hàng mang lại. Việc
ngân hàng thực hiện cho vay tiêu dùng không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu,
nâng cao chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng mà việc cho vay này còn thúc
đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các hãng sản xuất
kinh doanh, tạo ra sự năng động cho nền kinh tế.
Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho người tiêu dùng, các NHTM đã góp
phần kích cầu trong nền kinh tế, tạo yếu tố kích thích sản xuất phát triển, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, từ đó hỗ
trợ nhà nước trong việc đạt được các mục tiêu xã hội như xóa đói, giảm nghèo, đảm
bảo an sinh xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, giảm tệ nạn xã hội,
nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế1.3. Chất
lượng cho vay tiêu dùng
1.3.1 khái niệm:
Chất lượng cho vay tiêu dùng là một khái niệm còn khá mới mẻ trong kinh
doanh Ngân hàng, nó phản ánh kết quả của cho vay tiêu dùng. Chất lượng cho vay
tiêu dùng được xác định bằng một tổng thể các tiêu chí cả trừu tượng lẫn cụ thể.
Như ta đã biết, mỗi khoản cho vay tiêu dùng của NHTM khi được tài trợ ra nền kinh
tế đều thu hút sự quan tâm của các bên, cụ thể là khách hàng- người đi vay, Ngân
hàng- người cho vay, và bên thứ ba là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó
chất lượng cho vay tiêu dùng sẽ được xem xét từ nhiều phía theo các tiêu chí của
mỗi bên.
Thứ nhất, xét từ giác độ khách hàng:
Thuật ngữ “chất lượng” đã được sử dụng từ lâu để mô tả các thuộc tính như
đẹp, tốt của sản phẩm. Chất lượng có đặc điểm là:
• Mang tính chủ quan
• Không có chuẩn mực cụ thể

• Thay đổi theo thời gian, không gian và điều kiện sử dụng
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
• Không đồng nghĩa với “sự hoàn hảo”
Chất lượng gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, vì vậy nên sản
phẩm dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém
chất lượng cho dù ngân hàng có đầu tư vào sản phẩm ấy nhiều thế nào đi nữa. Trong
bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào, ngân hàng muốn đứng vững trên thị trường thì
việc quan tâm đến chất lượng là điều tất yếu, vì khi chất lượng được bảo đảm mới
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cuả khách hàng, đồng thời giúp cho Ngân hàng nâng
cao thị phần. Có thể nói, chất lượng cho vay tại NHTM là chất lượng của các khoản
cho vay của NHTM. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng
sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tìên lớn hơn, thông qua đó ngân hàng
thu hồi được gốc và lãi. Chất lượng cho vay tiêu dùng đồng thời cũng là sự thoả
mãn yêu cầu hợp lý của cá nhân vay với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo
thu hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng, phù hợp
với tốc độ phát triển của nền kinh tế xã hội, góp phần lành mạnh tài chính ngân
hàng, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại và phát triển cuả
Ngân hàng.
Thứ hai, xét từ giác độ nền kinh tế xã hội.
Ở nhiều nước trên thế giới chỉ số tiêu dùng được coi là dấu hiệu chủ chốt của
tăng trưởng kinh tế trong trung hạn. Trong những năm gần đây, tại Việt Nam cho
vay tiêu dùng cũng phản ánh rõ nét sự tác động đối với nền kinh tế khi mà nhu cầu
cho vay tiêu dùng ngày một tăng cao.
Cho vay tiêu dùng phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình, tạo
động lực, là cầu chi trả về hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngay cả các
nhu cầu tiêu dùng về ôtô, nhà ở, đồ gia dụng, thậm chí mỹ phẩm cũng liên quan mật
thiết với nhau không thể tách rời thu nhập kỳ vọng và đó là động lực của sản xuất,
tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, chất
lượng tín dụng phản ánh sự hoạt động có hiệu qủa của nền kinh tế.

Thứ ba, xét từ giác độ Ngân hàng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, phát triển nói chung và phát triển cho vay tiêu dùng
nói riêng là một chỉ tiêu rất tổng hợp, có liên quan chặt chẽ đến việc gia tăng về quy
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
mô, đối tượng cho vay, sự thay đổi theo hướng tích cực trong cơ cấu các sản phẩm
cho vay tiêu dùng đang cung cấp.
Chất lượng cho vay tiêu dùng thể hiện ở phạm vi mức độ giới hạn cho vay phải
phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải
đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn
và có lãi. Chất lượng cho vay tiêu dùng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận cao và gia
tăng, mức dư nợ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn, có liên
quan chặt chẽ đến việc gia tăng về quy mô, đối tượng cho vay, sự thay đổi theo
hướng tích cực trong cơ cấu các sản phẩm cho vay tiêu dùng đang cung cấp. Có thể
khẳng định các lợi ích mà cho vay tiêu dùng mang lại, thì việc nâng cao chất lượng
cho vay tiêu dùng là việc làm quan trọng và cần thiết của Ngân hàng.
Qua đó có thể rút ra:
- Chất lượng cho vay tiêu dùng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ
thích nghi của Ngân hàng đối với sự thay đổi của môi trường, nó phản ánh sức
mạnh của một Ngân hàng trong qúa trình cạnh tranh để tồn tại
- Chất lượng cho vay tiêu dùng được xác định qua nhiều yếu tố như khả năng
thu hút khách hàng, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi suất,
chi phí nghiệp vụ.
- Chất lượng cho vay không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình
kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì
một mục đích chung. Do đó, để đạt được chất lượng cần có sự quản lý khoa học chặt
chẽ.
1.3.2 Một số chỉ tiêu phản ánh chất lượng
1.3.2.1 Chỉ tiêu định tính :
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay trên cơ sở pháp lý việc tuân

thủ các quy chế quy trình nghiệp vụ, việc thực hiện theo đúng cam kết hợp đồng.
Trên cơ sở pháp lý: Việc cho vay có hiệu quả khi nó tuân theo đúng pháp luật
của nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, quy chế cho vay….và tuân theo các luật
khác liên quan như luật dân sự, Khoản cho vay không thể được đánh giá là có chất
lượng cao nếu nó trái với pháp luật quy định, quy chế cho vay bị vi phạm. Giả sử
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
khi ngân hàng cho vay cố tình cho vay để khách hàng kinh doanh những mặt hàng
bị cấm, thực hiện hành động đảo nợ thì khoản vay đó là trái pháp luật và không
được đánh giá là có chất lượng mặc dù nó mang lại lơi nhuận cao.
Trên cơ sở quy chế cho vay của NHTM đó: Mỗi ngân hàng sẽ có các đường
lối chiến lược kinh doanh riêng. Đó là điều kiện cần thiết cho hoạt động cho vay của
ngân hàng được thống nhất và mang lại lợi ích cao nhất cho ngân hàng. Vì vậy
khoản vay có chất lượng khi nó tuân thủ đúng các quy trình, quy chế cho vay của ngân
hàng. Ngân hàng nên tuân thủ đầy đủ và linh hoạt trong quy trình cho vay đối với từng
khoản cho vay và với từng khách hàng khác nhau. Nó sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn
được các khoản cho vay an toàn và có hiệu quả cao. Đồng thời giảm bớt được các thiệt
hại ngoài ý muốn.
Trên cơ sở hoạt động cho vay: Trước khi cho vay ngân hàng và khách hàng
phải thỏa thuận với nhau về việc sử dụng vốn của khách hàng, thời gian trả nợ gốc
và lãi, cách xử lý nếu các tình huống xấu xảy ra. Khoản cho vay đạt hiệu quả khi nó
được thực hiện đúng hợp đồng vay.
Ngoài ra uy tín của ngân hàng cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc thể
hiện chất lượng của các khoản vay. Một ngân hàng càng phục vụ tốt khách hàng
trong công tác cho vay càng định vị được hình ảnh của mình trong tâm trí khách
hàng. Chất lượng các khoản cho vay do đó cũng thể hiện thông qua chỉ tiêu này một
cách rõ nét.
Chỉ tiêu mức độ hài lòng của khách hàng cũng là 1 chỉ tiêu quan trọng, trong
các nhiệm vụ từ tiếp cận, chăm sóc khách hàng đến thẩm định và cho vay, nếu ngân
hàng làm tốt thì khách hàng mới có độ hài lòng cao, chỉ tiêu này có thể được đánh

giá thông qua các bảng hỏi phát cho khách hàng.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu định lượng đánh giá hiệu quả cho vay tiêu dùng của
NHTM.
* Doanh số cho vay tiêu dùng :
Doanh số cho vay tiêu dùng là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra
trong kỳ (tính cho ngày, tháng, quý, năm). Doanh số thu nợ trong kỳ là tổng các
khoản thu nợ của cho vay tiêu dùng phát sinh trong kỳ (tính cho ngày, tháng, quý,
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
năm). Doanh số cho vay tiêu dùng được hiểu là tổng số tiền ngân hàng cho khách
hàng vay trong kỳ nhằm mục đích tiêu dùng. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy
mô cho vay tiêu dùng của ngân hàng qua các thời kỳ.
Mặt khác doanh số cho vay tiêu dùng thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt
động tín dụng của ngân hàng, còn tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng
quy mô cho vay qua các thời kỳ. Doanh số cho vay tiêu dùng lớn và tốc độ tăng
nhanh cho thấy khả năng mở rộng tín dụng cho vay tiêu dùng của ngân hàng là rất
tốt.
= x 100%
* Doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng (CVTD) :
Là chỉ tiêu phản ánh tổng số tiền mà ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải
ngân cho khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình trong một thời kỳ qua đó ta biết
được ngân hàng làm ăn có hiệu quả hay không, các khoản vay có an toàn hay
không, các cá nhân hay hộ gia đình có sử dụng hiệu quả và đúng mục đích các
khoản vay hay không.
= x 100%
* Dư nợ cho vay tiêu dùng :
Dư nợ cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tích lũy qua các thời kỳ, đó là số tiền mà
ngân hàng hiện đang cho vay tính đến một thời điểm cụ thể. Dư nợ cho vay tiêu
dùng được hiểu là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho khách hàng vay nhằm
mục đích tiêu dùng tính đến một thời điểm cụ thể. Ngân hàng tính lãi cho vay dựa

trên dư nợ cho vay đến thời tính lãi, tức là lợi nhuận của ngân hàng có được từ hoạt
động cho vay trong kỳ phụ thuộc vào dư nợ chứ không phải là doanh số cho vay
trong kỳ đó. Vì vậy, số dư nợ càng lớn và dư nợ kỳ sau tăng hơn so với kỳ trước là
chỉ tiêu đúng nhất phản ánh mức độ mở rộng cho vay càng cao.
Dư nợ cho vay tiêu dùng = Dư nợ cho vay tiêu dùng kì trước + Doanh số cho
vay tiêu dùng trong kì – Doanh số thu nợ cho vay tiêu dùng trong kì
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
Dư nợ cho vay của khách hàng tăng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng tăng thu
nhập. Thường thì lãi thu được là tích giữa lãi suất cho vay x thời hạn vay x dư nợ
cho vay. Vì vậy nếu dư nợ cho vay cao thì lợi nhuận mà ngân hàng thu được cũng
tăng cao.
* Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng :
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô các món vay tiêu dùng trong tổng
số các món vay được ngân hàng giải ngân. Sự tăng trưởng của chỉ tiêu này cho ta
thấy chất lượng của cho vay tiêu dùng.
Công thức:
= x 100
Có 2 nguyên nhân dẫn đến tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng tăng:
- Thứ nhất, do dư nợ cho vay tiêu dùng tăng lên nhiều hơn so với mức tăng của
tổng dư nợ cho vay. Điều này thể hiện chính sách mở rộng cho vay tiêu dùng.
- Thứ hai, do dư nợ cho vay tiêu dùng không tăng thậm chí còn giảm, nhưng
mức giảm của tổng dư nợ lại nhiều hơn. Trường hợp này nghĩa là trong tình trạng
thu hẹp cho vay chung của ngân hàng thì cho vay tiêu dùng vẫn chiếm tỷ trọng cao.
* Tốc độ tăng dư nợ cho vay tiêu dùng (K) :
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng là chỉ tiêu tương đối phản ánh
mức độ nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng nhanh hay chậm. Chỉ tiêu này được
xác định theo công thức sau:
Công thức:
K = x 100

Nếu K > 0: cho thấy dư nợ cho vay tiêu dùng kỳ này lớn hơn kỳ trước, phản
ánh sự nâng cao chất lượng đối với cho vay tiêu dùng.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Häc viÖn Ng©n hµng
Nếu K <= 0: tức là dư nợ cho vay tiêu dùng kỳ này nhỏ hơn hoặc bằng kỳ
trước.
* Thu nhập từ cho vay tiêu dùng :
Đây là chỉ tiêu phán ánh khả năng sinh lời của một món vay tiêu dùng hay một
món vay bất kỳ nào đó. Thu nhập phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Lãi suất cho vay
là nhân tố quyết định đầu tiên đến lợi nhuận đạt được. Khoản cho vay với lãi suất
cao thì lãi vay của ngân hàng cũng vì thế mà tăng thêm. Tuy nhiên lãi vay cũng phải
phù hợp, vì nếu cao quá sẽ làm giảm tính cạnh tranh của ngân hàng. Trong khi đó
các ngân hàng Việt Nam vẫn còn đang cạnh tranh với nhau về lãi suất. Lãi suất cho
vay cao làm hoạt động kinh doanh của nguời vay gặp khó khăn do chi phí trả lãi quá
lớn.
Thu nhập từ cho vay = Lãi suất cho vay * Dư nợ cho vay * Thời hạn cho vay
Dư nợ cho vay của khách hàng tăng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng tăng thu
nhập. Dư nợ cho vay là hiệu số giữa khoản tiền khách hàng vay nợ và số mà khách
hàng đã trả trong kì. Vì vậy nếu dư nợ cho vay cao thì lợi nhuận mà ngân hàng thu
được cũng tăng cao. Dư nợ cho vay tăng có thể là do độ lớn của món vay tăng, số
lượng khách hàng tăng. Ngân hàng thường khống chế mức cho vay đối với một
khoản vay. Với khách hàng cá nhân món vay thường có giá trị thấp hơn rất nhiều so
với độ lớn của món vay đối với khách hàng là doanh nghiệp. Số lượng khách hàng
tăng lên cũng là nhân tố quan trọng để dư nợ cho vay của ngân hàng tăng lên. Đó
cũng là một chỉ tiêu quan trọng thể hiện tính hiệu quả của cho vay tiêu dùng.
Tuy nhiên nếu chỉ đề cập đến lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay thì
chúng ta chưa thấy rõ được hiệu quả của món vay đó. Chính vì thế trong mục này, ta
có thêm một chỉ tiêu phụ đó là : Tỉ lệ thu nhập lãi từ cho vay trên dư nợ bình quân.
Cho biết một đồng cho vay bình quân thu được bao nhiêu đồng lãi. Chỉ tiêu này
phản ánh khả năng kiểm soát chi phí trong cho vay của ngân hàng và mức độ sinh

lời từ cho vay.
SV: Ph¹m Ngäc HiÕu – Líp 33B

×