Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh NH ĐT&PT Cầu Giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.35 KB, 63 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong nền kinh tế thị trường hiện nay
ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. DNNVV là loại hình doanh nghiệp có những ưu thế đặc trưng
về tính năng động, khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường.
Một trong những vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp này đối với
không chỉ riêng mỗi quốc gia nào mà với toàn bộ nền kinh tế khác nhau trên thế
giới, đó là các DNNVV giải quyết một lượng công ăn việc làm lớn.
Hiện nay trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam thì số
lượng các DNNVV chiếm tỷ trọng lớn. Đây là loại hình doanh nghiệp nòng cốt,
tuy nhiên các DNNVV luôn gặp phải vấn đề khó khăn về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn.
Trong điều kiện thực tế nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước nên vấn đề đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp là vấn đề cấp
thiết hơn bao giờ hết.Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng là ngành chủ
yếu làm cho cung cầu tiền tệ gặp nhau. Hệ thống ngân hàng với các ngân hàng
thương mại ngày một lớn mạnh, là lực lượng chủ yếu trong việc thu hút và cung
cấp nguồn vốn. Tuy nhiên các DNNVV nước ta lại ít được tiếp cận với nguồn
vốn vay từ ngân hàng, điều đó dẫn đến một thực tế là không ít các DNNVV đã
bị đảo thải ra khỏi nền kinh tế do thiếu vốn, nhất là trong điều kiện nền kinh tế
khủng hoảng như hiện nay. Trước thực tế cấp thiết đó cũng như qua thời gian
thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Cầu giấy, em đã chọn đề
tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu giấy’’ làm đề tài tốt
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
nghiệp cho mình. Nhằm đóng góp những ý kiến trong phạm vi kiến thức của em
về vấn đề nghiên cứu trên.


2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng ngân
hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng Thương Mại trong nền
kinh tế thị trường
- Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu giấy dựa trên các
chỉ tiêu cơ bản.
- Trên cơ sở đánh giá thực tế hoạt động cho vay DNNVV để đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm năng cao chất lượng tín dụng đối với
DNNVV tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Cầu giấy
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình tín dụng đối với DNNVV tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu giấy
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan
đến chất lượng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Cầu giấy từ năm 2007-2009, từ đó đề
xuất một số định hướng, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói
chung của chi nhánh Cầu giấy.
4.Kết cấu chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày ở 3 chương:
Chưong 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Ngân hàng Thương mại.
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Cầu giấy.
Chương 3 : Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Chi nhánh NHĐT& PT Cầu giấy
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
CHƯƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1-Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường .
1.1-Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
Tại Việt Nam theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày 23/11/2001
qui định: “ DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người ” bao gồm các doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh tế cá
thể. Căn cứ vào tình hình kinh tế -xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong
quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng
đồng thời cả hai chỉ tiêu về vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Là một doanh nghiệp nhưng với quy mô nhỏ và vừa nên bên cạnh những đặc
điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường, DNNVV còn có một số đặc
điểm riêng biệt sau:
- DNNVV tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế bao gồm các loại
hình doanh nghiêp như: Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty
TNHH, Doanh nghiệp tư nhân.
- Các DNNVV chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi
vốn nhanh:Vì thế mà đã hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh
tế đầu tư vào khu vực này.
- DNNVV có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh. So
với doanh nghiệp lớn, DNNVV năng động hơn, trước những thay đổi liên tục
của thị trường.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
- Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghiệp, thích
ứng với cuộc cách mạng Khoa học- Cộng nghệ hiện đại: DNNVV với yêu cầu

vốn bổ xung không nhiều và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố
định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên các
DNNVVdễ dàng và nhanh chóng trong việc thiết bị, công nghệ khi cần thiết.
- DNNVV có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh
nghiệp lớn, cho nên có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt,
công tác điều hành mang tính trực tiếp. Bộ máy tổ chức của các DNNVV
thường đơn giản gọn nhẹ. Các quyết định được thực hiện nhanh, công tác giám
sát được tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian. Chính vì vậy
đã tiết kiệm được chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNNVV
khá chặt chẽ. Vì thế người lao động dễ dàng trao đổi với nhau cũng như với lãnh
đạo, đề xuất những ý tưởng mới lạ, đóng góp cho sự phát triển của doanh
nghiệp.
- Vị thế của DNNVV trên thị trường thấp, tiềm lực tài chính nhỏ nên khả
năng cạnh tranh thấp: Nguồn vốn tài chính của DNNVV còn hạn chế, trong khi
các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận thức được các nguồn tài chính
khác nhau. Các DNNVV thường gặp khó khăn trong giai đoạn mới hình thành,
phần lớn là khó khăn về vốn. Các NHTM cũng như các tổ chức tài chính khác
thường e ngại, không muốn cho DNNVV vay vốn bởi vì họ chưa có quá trình
kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Điều này ngăn cản sự
mở rộng doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khác như:
thiếu sức cạnh tranh trên thị trường, không kịp thời cải tiến công nghệ sản xuất,
khó có điều kiện nâng cao chất lượng lực lượng lao động.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNVV bị hạn chế rất
nhiều. Do quy mô nhỏ và không có mạng lưới, các mối quan hệ rộng nên
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
DNNVV không có hệ thống thông tin chuyên môn, không nắm được tình hình

biến động bên ngoài doanh nghiệp mình như: nguyên liệu, mặt hàng, trình độ
công nghệ, đối thủ cạnh tranh… Nguồn vốn tài chính có hạn, không đủ kinh phí
để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng, kịp thời nói
riêng và chi phí cho hoạt động tiếp cận, thu nhập, xử ly thông tin nói chung.
- Thị trường DNNVV thường nhỏ bé và không ổn định, lại chia sẻ với
nhiều doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc
vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của
doanh nghiệp lớn. Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNNVV Việt
Nam hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Như vậy, với đăc điểm ưu thế của mình, định hướng chiến lược ngắn hạn,
trước mắt của các DNNVV là tập trung vào các thị trường nhỏ và lẻ, địa phương
và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng hóa có giá trị thấp. Nếu có định
hướng chiến lược dài hạn thì cần phải chú ý tới thị trường của các địa phương
khác và thị trường quốc tế. Những hạn chế về vốn, trình độ công nghệ, phương
thức quản lý dẫn đến khả năng cạnh tranh, tiếp cận thị trương của doanh nghiệp
thấp. Đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho vay
để quan hệ tín dụng được thiết lập. Do vậy, doanh nghiệp cần khắc phục những
hạn chế đó và Ngân hàng cần thẩm định kĩ khách hàng trước khi cho vay.
1.3 Vài trò của DNNVV trong nền kinh tế.
Sự phát triển của các DNNVV trong nền kinh tế thị trường góp phần quan
trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội ở một số mặt:
- DNNVV tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động, góp phần ổn
định xã hội. DNNVV với ưu thế là dễ dàng thành lập với số vốn ban đầu lớn, dễ
thích nghi với sự thay đổi của thị trường do có sự phân bố rộng khắp tại các
vùng miền trong cả nước nên tuy sử dụng ít công nhân hơn so với các DN lớn
nhưng số lượng các DNNVV là rất lớn, vì vậy theo quy luật các DNNVV tạo ra
một khối lượng công việc làm lớn trong xã hội.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng

- DNNVV chiếm tỷ lệ cao về số lượng doanh nghiệp, thu hút nhiều lao động
và đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế. Theo
tính toán của các nước thì DNNVV đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập
quốc dân của các nước, bình quân chiếm khoảng dưới 50%GDP ở mỗi nước. Cụ
thể ở Việt Nam hiện nay khu vực DNNVV của cả nước chiếm khoảng 24-
25%GDP.
- DNNVV tham gia cung cấp một khối lượng hàng hóa đáng kể trong xã hội,
đóng vài trò quan trọng trong lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ và có vai
trò quan bổ sung cho các doanh nghiệp lớn: Từ lợi thế về quy mô, DNNVV hoạt
động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, kể cả các loại hàng hóa mang
tính chất vùng, địa phương. Với nguồn lực sẵn có của địa phương cùng với đội
ngũ nhân công lành nghề của doanh nghiệp, rất nhiều sản phẩm được ra đời đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
- DNNVV có khả năng khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ
của các địa phương, các nguồn tài chính trong dân. Do tính chất nhỏ bé, quy mô
vốn ban đầu không nhiều nên DNNVV có thể được thành lập ở tất cả địa
phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, tránh
gây lãng phí nguồn lực sẵn có. Khu vực DNNVV thu hút được nhiều vốn trong
dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng tiềm năng còn tiềm ẩn
của nền kinh tế.
- DNNVV đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú,
đa dạng của xã hội mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
- Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động: Cùng với
việc phát triển các DNNVV và sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà kinh
doanh sáng lập. Đây sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà kinh doanh làm quen
với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua
điều hành, quản lý quy mô nhỏ và vừa, một số doanh nghiệp trưởng thành lên
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng

thành những doanh nghiệp lớn. Đây là lực lượng rất cần thiết góp phần thúc đẩy
sản xuất kinh doanh ở những nước đang phát triển như Việt Nam.
- Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển có
hiệu quả cao hơn: Sự tham gia của rất nhiều các nhà DNNVV vào sản xuất
kinh doanh, làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất
nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo sức ép buộc các
nhà doanh nghiệp thường xuyên đổi mới mặt hàng, giảm chi phí, tăng chất
lượng để thích ứng với môi trường mới để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại và phát
triển. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh tế năng động và hiệu
quả hơn.
- Các DNNVV có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy quá trinh phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn đã thúc
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển
mạnh đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển.
- Các DNNVV góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hóa phi tập trung:
hệ thống DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút những lao động thiếu hoặc chưa có
việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê nhà, không
phải đi xa. Đồng thời hình thành các khu cơ sở sản xuất ngay tại nông thôn, hình
thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực hiện quá trình đô thị hóa
phi tập trung.
2- Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với DNNVV
2.1-Tín dụng Ngân hàng:
2.1.1. Khái niệm:
“ Tín dụng là một giao dịch về tài sản( tiền và hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
7

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán”.
Từ định nghĩa tín dụng trên ta có khái niệm về tín dụng ngân hàng:
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với
các chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là
người đi vay vừa là người cho vay”.
2.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Nếu không có lòng
tin thì không thể có quan hệ tín dụng bởi vì người cho vay tin tưởng người đi
vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho người
cho vay thì lúc đó mới thiết lập quan hệ tín dụng.
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc có hoàn trả và có thời hạn,
người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời vốn vay trong một thời gian nhất định,
sau khi hết thời gian sử dụng thỏa thuận thì người đi vay hoàn trả cho người cho
vay.
- Giá trị vay được trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lãi.
- Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các
quy luật khach quan như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị
và quy luật lưu thông tiền tệ.
- Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường luôn chứa đựng
khả năng rủi ro vì nếu người vay vốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì mới
trả được cho ngân hàng. Trong khi đó, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến người
vay như: giá cả thị trường biến động, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chính trị vì
vậy sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của người vay giúp cho ngân
hàng tránh được rủi ro.
2.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
8

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
Theo điều 49 luật các tổ chức tín dụng thì: “ Các tổ chức tín dụng được cấp
tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu thương
phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của ngân hàng nhà nước”. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các
khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân
loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích
hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Người ta có thể dựa trên
những tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng:
- Căn cứ vào thời hạn cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn cả cá nhân.
+ Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm để đầu tư mua sắm
TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, cộng nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh
đầu tư cho TSCĐ, cho vay trung và dài hạn cũng là nguồn hình thành vốn lưu
động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới
thành lập.
+Cho vay dài hạn : loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có
thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. Loại
tín dụng này thường cung cấp để đáp ứng cho nhu cầu dài hạn như : xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp
mới.
- Căn cứ các mục đích cho vay:
+ Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dụng bất động sản nhà ở, đất đai, bất đông sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại dịch vụ.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9

9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn và bổ sung
vốn lưu thông cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu.
+Cho vay các định chế tài chính, bao gồm: cấp tín dụng cho ngân hàng,
Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, qũy tín dụng
và các định chế tài chính.
+Cho vay cá nhân: là loại cho vay dể đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như: mua
sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải cho các chi phí
thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
+ Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm 2 loại: cho thuê vận
hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản,
trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
+Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo
hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm:
. Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ.
. Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể
. Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn trả nợ cụ thể, mà việc
trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
+ Cho vay không có thời hạn cụ thể: đối với loại cho vay không có thời hạn
thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào
nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa thuận
trong hợp đồng.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như: thế
chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.

Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
+Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
2.1.4. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.
Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay,khi mà tất cả các loại hình doanh nghiệp
đang phát huy hiệu quả kinh doanh ở mức cao nhất thì các DNNVV lại càng
phải nỗ lực hơn để đáp ứng những yêu cầu mới về sản phẩm, về thiết bị công
nghệ, máy móc và tất yếu vốn phải cần nhiều hơn. Vì vậy, vốn vẫn là điều kiện
tiên quyết quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, nên tín dụng
ngân hàng ngày càng quan trọng hơn, cần thiết hơn, đặc biệt đối với các
DNNVV được thể hiện:
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy cho nền kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển
các DNNVV. TDNH tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân
hóa tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển của DNNVV. Tín dụng ngân hàng
luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn
chế hoặc không đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuân thấp. Qua
đó nó làm thay đổi quan hệ cung - cầu hàng hóa và thay đổi cơ cấu ngành kinh
tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần bổ sung nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh
tranh của các DNNVV. Các DNNVV huy đông vốn chủ yếu nhờ nguồn tín dung
ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính doanh nghiệp tăng lên
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9

11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
thì các DNNVV cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng,
phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh.
- Tín dụng Ngân hàng kích thích hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNVV:
Tín dụng Ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “ vay để cho vay”; “ vay có
hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất
cao, đã thúc các DNNVV nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
- Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận với vốn nước
ngoài: Thông qua nguồn vốn này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm
bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn vốn đi vay cũng như nguồn vốn tự có nhằm
sản xuất tạo giá vốn bình quân rẻ nhất, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng
hàng hóa và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì doanh nghiệp mới đạt
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị
trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV. Các DNNVVcó vốn
lưu động rất ít so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng hóa dự
trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng Ngân hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hóa có chất
lượng cao, sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới
theo hướng hiện đại .
- Tín dụng Ngân hàng góp phần bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp
được liên tục, thuận lợi, giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro.
Qua những khía cạnh trên, vai trò của Tín dụng Ngân hàng đối với DNNVV là
rất to lớn. Vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNVV là thực sự
cần thiết để hoàn thiện một nền kinh tế, đăc biệt là nền kinh tế nước ta đang
trong tiến trình hội nhập Quốc tế.
2.2- Chất lượng tín dụng:
2.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng:
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9

12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng (người
vay tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm sự tồn tại, phát
triển của ngân hàng.
- Trước hết dưới góc độ xã hội :
Chất lượng tín dụng phải được đánh giá từ hiệu quả kinh tế- xã hội, có
nghĩa là phải xem xét nó có phục vụ chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ
và địa phương không? Tác động của chinh sách tín dụng trong việc tăng trưởng
và phát triển kinh tế, tăng cường cơ sở vật chất, kĩ thuật. Nhu cầu của thị trường
đối với với sản phẩm hàng hóa ra sao? Số lượng lao đông thu hút vào hoạt động
tín dụng là bao nhiêu? Nếu số lượng lao động thu hút vào càng lớn thì giải quyết
tốt về mặt xã hội. Số lượng lao đông này không chỉ giới hạn ở số lượng nhân
viên ngân hàng mà cả số lao động có việc làm khi tổ chức kinh tế này được vay
vốn. Ngoài việc xem xét về hiệu quả xã hội, người ta còn đánh giá về hiệu kinh
tế như: Lợi nhuận mang lại cho xã hội, vòng quay của vốn, một phần đặc biệt
quan trọng đó là các khoản thuế nộp cho ngân sách nhà nước, thực hiện cho vay
và sử dụng phải theo đúng quy định của pháp luật
- Xét dưới góc độ khách hàng:
Xuất phát từ nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn đó phải được sử dụng
nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh, nhập hàng hóa. Trên cơ sở tính toán để sao
cho chi phí cơ hội lớn nhất. Chất lượng tín dụng với khách hàng có thể hiểu dưới
vài khía cạnh:
+Vốn vay phải mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
+Việc cấp vốn phải kịp thời.
Mức vốn được cấp phải đảm bảo cho nhu cầu doanh nghiệp. Điều này cũng có
nghĩa nếu hạn chế mức tín dụng thấp sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp không
nhỏ.
Thời gian trả vốn và lãi của khách hàng cho ngân hàng phải hợp lý để phù
hợp với chu kì kinh doanh. Ngân hàng không nên quá cứng nhắc khi gia hạn trả

Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
vốn của khách hàng bởi vì trong kinh doanh không thể định trước rủi ro được.
Việc trả vốn và lãi cho ngân hàng đôi khi không chỉ phù thuộc vào ý muốn chủ
quan của khách hàng được mà còn phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố khác như:
Đối tác kinh doanh của khách hàng, môi trường kinh tế- xã hội, sự thay đổi của
các chính sách xã hội. Những ảnh hưởng này tác động mạnh đến khách hàng,
nhiều khi đưa họ vào tình trạnh phá sản, không thể trả được nợ cho ngân hàng.
- Xét dưới góc độ ngân hàng:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi
nhuận, do đó mọi hoạt động của ngân hàng đều hướng vào mục tiêu lợi nhuận.
Trong đó, hoạt động tín dụng chủ yếu quan tâm đến mức độ an toàn tín dụng và
khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại.
- Mức độ an toàn tín dụng:
Trước khi quyết định cho vay bất kì một khoản vay nào, vấn đề luôn được các
ngân hàng xem xét thận trọng là liệu khoản vay đó có hoàn trả được đầy đủ và
đúng hạn hay không? Mức độ an toàn của khoản cho vay nói cách khác mức độ
rủi ro tín dụng là bao nhiêu? Khi một khoản cho vay đã thực hiện bị rủi ro hoặc
chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro, người ta nói khoản cho vay đó kém chất lượng.
Rủi ro tín dụng bao gồm các khoản cho vay không thu được nợ ( rủi ro mất vốn)
và các khoản cho vay được trả nợ không đúng hạn vì người vay tạm thời gặp
khó khăn( rủi ro sai hẹn). Phần lớn tài sản có của ngân hàng là dư nợ cho vay,
nếu các khoản cho vay không được hoàn trả hoặc hoàn trả không đúng hạn thì
dần dần ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản.
Tín dụng dựa vào lòng tin về sự hoàn trả trong tương lai tại một thời điểm xác
định. Lòng tin này xuất phát từ hai chủ thể của quan hệ tín dụng là người đi vay
và người cho vay. Khả năng tài chính và uy tín của mỗi chủ thể là cơ sở tạo
dựng lòng tin giữa họ. Nhưng tất cả những dự báo, dự tính trong tương lai chỉ là
tương đối, do vậy khó có thể khăng định khoản cho vay có được hoàn trả đúng

Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
hạn hay không? Lòng tin và sự rủi ro luôn tồn tại trong quan hệ tín
dụng.
- Khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại:
Chất lượng tín dụng tốt góp phần tăng dư nợ tín dụng, từ đó tăng lãi thu được
từ hoạt đông tín dụng. Hiện tại tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận
cho ngân hàng thương mại nên chất lượng tín dụng góp vai trò quyết định trong
việc tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tốt góp phần nâng cao uy tín ngân hàng trên thị trường,
giúp ngân hàng thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tăng khả năng huy động
vốn cũng như tăng dư nợ tín dụng, tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng và các
dich vụ đi kèm như: chuyển tiền thanh toán quốc tế và ngoại hối
Như vậy chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh mức
độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài và thể hiện
sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Do đó việc
tăng cường quản lý chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động tại các
NHTM luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi
ngân hàng cũng như cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế quốc dân. Đánh
giá chất lượng hoạt tín dụng thông qua chỉ tiêu nợ: Nợ quá hạn, thu nhập từ hoạt
đông cho vay, tổng dư nợ.
2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
2.2.2.1- Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng tới thời hạn thanh toán
khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình
đối với khoản vay.
Đối với các hoạt động ngân hàng, bất kì khoản nợ quá hạn nào cũng dẫn
đến rủi ro ứ đọng vốn, làm ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi đúng thời
hạn. Nó còn gây hậu quả làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí làm mất khả

năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
Trên góc độ vĩ mô, nợ quá hạn thực sự làm giảm tính tích cực của hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Nợ quá hạn cao sẽ
dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng thương mại. Để khái quát
hơn, người ta sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng:

Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng thấp thì chứng tỏ chất lượng tín dụng càng cao nhưng trên
thực tế nó không thể chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%, mà nó chỉ chấp
nhận ở con số cân bằng là nhỏ hơn hoặc bằng 3%. Sở dĩ như vậy vì :về mặt toán
học thì tỷ lệ nợ quá hạn có quan hệ tỷ lệ thuận với nợ quá hạn và quan hệ tỷ lệ
nghịch với tổng dư nợ. Cho nên nếu tỷ lệ này cao thì có nghĩa là nợ quá hạn cao,
rủi ro cao.
Còn nếu tỷ lệ nợ quá hạn ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 3% là cân bằng:
Một phần là do thực tế bất kì một ngân hàng nào dù làm ăn hiệu quả đến đâu
cũng không thể có những khoản cho vay ra mà thu hồi được hoàn toàn. Hơn nữa
ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 3% này vẫn đảm bảo mức an toàn và tổng dư nợ cao,
tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng nên cũng có thể đưa ra nhận xét chất
lượng tín dụng đó là tốt.
2.2.2.2- Nợ xấu:
_Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 493/2005/QĐ-Ngân hàng
Nhà nước ngày 22/4/2005 của ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng (tổ chức tín dụng).
_Theo đó, các tổ chức tín dụng phải phân loại nợ (các khoản cho vay, ứng

trước, thấu chi và cho thuê tài chính, các khoản chiết khấu, tái chiết khâu, bao
thanh toán và các hình thức tín dụng khác) thành 5 nhóm với mức độ rủi ro khác
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
nhau, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 được coi là nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
_Với Quyết định 493, Ngân hàng Nhà nước hy vọng các khoản nợ xấu sẽ bộc
lộ rõ trong bảng cân đối kế toán, trên cơ sở đó từng tổ chức tín dụng và toàn
ngành sẽ có hướng xử lý rủi ro tín dụng, đảm bảo cho hoạt động của hệ thống
lành mạnh.
2.2.2.3- Thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV:
Đối với ngân hàng thương mại nói chung thì hiện nay cho vay vẫn là nghiệp
vụ chủ yếu và thu nhập từ nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng rất cao, thông thường
chiếm từ 70 đến 80% trong tổng thu nhập. Thu nhập từ hoạt động cho vay là số
tiền dôi ra mà ngân hàng thu được do hoạt động cho vay đem lại’’.
Thu nhập từ khoản mục này chịu tác động của quy mô khoản mục cho vay và
các chi phí phục vụ cho nó (lãi suất, các chi phí khác). Nếu quy mô cho vay lớn,
chi phí nhỏ thì thu nhập cao và ngược lại nếu quy mô cho vay lớn mà chi phí lại
cũng lớn thì thu nhập của hoạt động này thấp. Khi đánh giá chỉ tiêu này ta phải
kết hợp song song giữa thu nhập từ hoạt động cho vay với chi phí bỏ ra từ hoạt
động đó.
Tỷ lệ này được tính bằng:
Thu nhập từ hoạt động cho vay
___________________________

Chí phí cho hoạt động cho vay

Nếu tỷ lệ trên >1: Hoạt động kinh doanh tín dụng có lãi
Nếu tỷ lệ trên =1: Hoạt động kinh doanh tín dụng hòa vốn

Nếu tỷ lệ trên <1: Hoạt động kinh doanh tín dụng bị lỗ
Tỷ lệ Thu nhập/Chi phí phản ánh: Cứ một đồng chi phí thì thu về được bao
nhiêu đồng lợi nhuận? Nếu tỷ lệ này năm sau cao hơn năm trước thì chất lượng
tín dụng được cải thiện.
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
Vậy nên khi dựa vào chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng thì ta phải
xem xét đồng thời cả tổng thu nhập từ hoạt động cho vay và tỷ lệ Thu nhập/Chi
phí để đi đến kết luận chính xác về chất lượng tín dụng.

Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Mức sinh lời của tín dụng=
Tổng dư nợ
2.2.2.4 Các khoản vay phải sử dụng QDPRRTD để xử lý

Doanh số thu nợ bằng xử lý tài sản và
sử dụng QDPRRTD
Tỷ lệ thu nợ bằng việc xử lý TS=
và QDPRRTD Tổng doanh số thu nợ
Tỷ lệ này cao phản ánh chất lượng tín dụng kém ngược lại tỷ lệ thu nợ bằng việc
xử lý tài sản thấp phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
2.2.3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
Ngoài các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng, ta còn xem xét các nhân
tố ảnh hưởng đến nó để có biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng tín dung.
Có 3 nhóm nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là:
- Về phía ngân hàng
- Về phía khách hàng
- Nhân tố khách quan khác
2.2.3.1-Về phía ngân hàng:

+ Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển của Chính phủ
đồng thời đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và
của chính bản thân ngân hàng. Đối với NHTM, chính sách tín dụng đúng đắn
phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, trên cơ sở phân tán rủi
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước, đồng thời đảm bảo
được tính cân bằng.
+ Hiện nay các NHTM đã nhìn nhận một cách đúng đắn về việc cho vay
các DNNVV. Việc cho vay các DNNVV được coi là một chính sách quan trọng
trong việc mở rộng khách hàng cũng như tăng trưởng tín dụng.
+ Mặc dù vậy quan điểm kinh doanh của Ngân hàng đối với DNNVV còn
nhiều vấn đề cần giải quyết như tâm lý e ngại rủi ro, mức thu lãi thấp, khoản vay
quá nhỏ, chi phí nghiệp vụ cao hơn so với việc xét duyệt cho các DN qui mô lớn
lên không hấp dẫn ngân hàng.
+ chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng đối với DNNVV đôi khi
chưa chặt chẽ, rõ ràng nên hưởng tới chất lượng tín dụng. Do đó một số kẻ lừa
đảo lợi dụng sơ hở thể chế để chiếm đoạt vốn vay hoặc chây ì trong việc trả nợ
vay ngân hàng.
+ Tình hình huy động vốn:
Muốn nâng cao chất lượng tín dụng thì nguồn vốn huy động đóng vai trò rất
quan trọng. Nguồn vốn huy động của ngân hàng là một trong những nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động tín dụng. Nếu vốn của ngân hàng dồi dào đáp ứng đủ nhu
cầu vay vốn của các khách hàng thì sẽ góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân
hàng, qua đó nâng cao được chất lượng tín dụng. Nguồn huy động gồm tiền gửi
giao dịch, tiền gửi phi giao dich, tiền đi vay và vốn tự có của ngân hàng. Đối với
cho vay trung và dài hạn thì nguồn đáp ứng phải tương đối ổn định, lãi suất phải
hợp lý, một mặt để cạnh tranh với ngân hàng khác, một mặt đảm bảo bù đắp

những chi phí và những biến động của thị trường.
+Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hóa và sắp xếp một cách có khoa học, có
tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã quy định cả về huy
động vốn cũng như cho vay, quản lý tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng. Do
hoạt động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
khác nên cần phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận
trong ngân hàng, cũng như thiết lập quan hệ với cơ quan như: Tài chính, pháp
luật.Thiết lập mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện cho quản lý có hiệu quả các
khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có nguy
cơ không thu được nợ.
+ Chất lượng nhân sự:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng và đến hoạt động của ngân hàng nói chung. Nghiệp vụ hoạt động ngân
hàng càng phát triển càng đòi hỏi chất lượng nhân sự càng cao để có thể sử dụng
các phương tiên làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển không ngừng.Việc
tuyển chọn nhân sự phải đảm bảo cả về đạo đức lẫn nghề nghiệp.
Cán bộ tín dụng phải có khả năng phân tích, thẩm định dự án để đánh giá tính
khả thi của dự án, phải phân tích báo cáo tài chính một cách chính xác, phân tích
khả năng quản lý doanh nghiệp và phải biết được năng lực thực sự của khách
hàng trước khi thiết lập quan hệ tín dụng.
+ Quy trình cho vay:
Quy trình cho vay bao gồm các bước: Chuẩn cho vay, phát tiền vay, kiểm tra
quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Trong quá trình cho vay, bước
chuẩn bị rất quan trọng, làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho thu hồi cả vốn lẫn lãi
khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh.
Việc thực hiện tốt bước chuẩn bị cho vay tùy thuộc vào công tác thẩm định

cũng như những quy định về điều kiện, thủ tục cho vay ở từng ngân hàng. Trong
bước chuẩn bị cho vay thì khâu thẩm định chiếm vị trí rất quan trọng. Trong
việc thẩm định các dự án trước khi cho vay thì các ngân hàng mà trực tiếp là cán
bộ tín dụng phải thu thập thông tin về hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài chính, hồ sơ dự
án, phương án vay của khách hàng để từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá
chính xác trước khi quyết định cho vay. Ngân hàng xem xét, đánh giá xem
phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng có khả thi hay không? Khả năng
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
sinh lời của dự án, năng lực tài chính, trình độ quản lý, uy tín trong kinh doanh
của khách hàng.
Trước khi quyết định cho vay cần cân nhắc các mặt sau:
- Sự an toàn của vốn vay và khả năng hoàn trả vốn vay khi đến hạn.
- Khả năng sinh lời của vốn tín dụng
- Sự phù hợp giữa cấp vốn tín dụng với tình hình kinh tế hiện tại
Trong khâu quản lý và giám sát liên quan dến việc kiểm tra sổ sách và thực tế
triển khai công việc kinh doanh xem xét có đúng mục tiêu và tiến độ không?
Từ đó giải ngân một cach hợp lý.
Thu nợ, thanh toán nợ là khâu quan trọng quyết định sự tồn tại vững chắc
của ngân hàng cho nên phải nhạy bén, kịp thời phát hiện những điều kiện bất lợi
xảy ra.
+ Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý theo nghĩa rộng.Nhờ có
thông tin tín dụng,người quản lý có thể đưa ra ngững quyết định cần thiết có liên
quan đến cho vay, theo dõi và quản lý cho vay.
Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện thì khả năng xảy
ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng giảm.
+ Kiểm soát nội bộ:
Đây là sự phối hợp giữa phương pháp tổ chức hoạt động và các biện pháp

khác để ngân hàng có được thông tin về tình trạng kinh doanh, nhằm duy trì có
kết quả các hoạt động kinh doanh, phù hợp với chính sách và đáp ứng nhu cầu
mục tiêu đã định.
2.2.3.2-Về phía khách hàng:
Năng lực kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của khách hàng bị hạn chế.Các
DNNVV thường xây dựng báo cáo tài chính đối phó. Không thực hiện đúng chế
độ thống kê kế toán. Các thông tin về DN mà ngân hàng có được thường không
được cập nhật thường xuyên kịp thời, mức độ tin cậy không cao và từ luồng
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
thông tin không chính xác. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng hồ sơ
của dự án Một số doanh nghiệp khi cho vay họ lập phương án kinh doanh có
hiệu quả, nhưng không tính hết đến biến động của thị trường nên thua lỗ. Trong
số món vay trung và dài hạn nhập máy móc thiết bị, do phân tích dự án không
chính xác dẫn đến máy nhập về không phát huy được tác dụng, như vậy không
hoàn trả được vốn vay cho ngân hàng.
Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, nhiều doanh nghiệp dùng tiền vay
ngân hàng không đúng với phương án và mục đích xin vay.
Nếu ngân hàng có năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, am hiểu thị
trường sẽ góp phần đảm bảo cho khoản vay của ngân hàng được an toàn, chất
lượng của khoản vay được đảm bảo, ngân hàng sẽ thu hồi được cả gốc và lãi.
2.2.3.3-Yếu tố khác:
- Do cơ chế chính sách thay đổi trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính
sách phải điều chỉnh là không tránh khỏi, do đó sự điều chỉnh tác động làm ảnh
hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng, như nghị định 18/CP về quản lý đất
đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn kinh doanh bất động sản bị kẹt không
trả nợ ngân hàng đúng hạn được.
- Thị trường thế giới có lúc biến động mạnh, một số thị trường xuất khẩu
truyền thống của Việt Nam có biến động lớn, bên cạnh còn có những biến động

về tỷ giá làm cho một số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh
hưởng tới việc trả nợ ngân hàng.
- Chất lượng tín dụng chịu sự ảnh hưởng trực tiếp về sự ổn định của nền kinh
tế.Kinh tê ổn định sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp được hoạt động bình thường không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng
hoảng tài chính, do đó khả năng cho vay và trả nợ vay không bị biến động lớn.
- Chu kì phát triển kinh tế cũng tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng.
Trong thời kỳ đình trệ sản xuất, kinh doanh bị thu hẹp, nhu cầu vốn tín dụng
giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn, các khoản tín dụng đã được tiến hành cũng
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
khó hoàn trả. Ngược lại, trong thời kì hưng thịnh của nền kinh tế, nhu cầu về
vốn vay trở nên quá lớn (trong trường hợp do chạy đua trong kinh doanh tạo nạn
đầu cơ tích trữ, nhiều khoản tín dụng được thực hiện), những khoản tín dụng này
khó có thể trả được một khi sự phát triển kinh doanh không có kế hoạch này đi
đến suy thoái.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, nhu cầu vốn cho
phát triển và sản xuất kinh doanh là rất lớn, đòi hỏi ngân hàng phải có những nỗ
lực đổi mới để đáp ứng được nhu cầu đó. Song các ngân hàng không thể chỉ tìm
cách đáp ứng nhu cầu vay vốn mà xem nhẹ chất lượng các khoản cho vay. Ngân
hàng muốn phát triển lâu dài và ổn định thì phải hết sức quan tâm đến công tác
tín dụng, hiểu rõ chất lượng tín dụng từ góc độ của ngân hàng, góc độ khách
hàng, góc độ xã hội .Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải nắm vững, đánh giá được
các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng,từ đó có những biện pháp, chính
sách để nâng cao chất lượng tín dụng.

Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT
TRIỂN CẦU GIẤY
1- Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) Cầu
Giấy
1.1 Sự hình thành và phát triển của Chi nhánh BIDV Cầu Giấy
Chi nhánh BIDV Cầu giấy là chi nhánh cấp I của BIDV Việt nam. Sự ra đời
của CN Cầu giấy gắn liền với lịch sử ra đời của BIDV Việt nam.
BIDV Việt nam được thành lập theo nghị định số 177 ttg ngày 26/4/1957. Qua
53 năm đã có những tên gọi:
- Ngân hàng kiến thiết Việt nam 26/4/1957.
- Ngân hàng ĐT Và XD Việt nam từ 24/6/1981.
- Ngân hàng ĐT & PT Việt nam 14/11/1990
Tiền thân của Chi nhánh BIDV Cầu Giấy ngày nay là chi điếm 2 trực thuộc
Ngân hàng Kiến thiết Thành phố Hà Nội, được thành lập ngày 31/10/1963 đóng
tại thôn Trung - xã Dịch Vọng- Huyện Từ Liêm, chính là địa điểm số 263 đường
Cầu Giấy - Hà Nội, nơi chi nhánh đóng trụ sở hiện nay.
Ngày 24/6/1981, Hội đồng Chính Phủ có QĐ số 259/CP chuyển Ngân hàng
Kiến thiết Việt Nam thuộc Bộ Tài Chính thành Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng
trực thuộc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Chi điếm 2 ngân hàng Kiến Thiết
Hà Nội được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Xây dựng khu vực
2 trực thuộc Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Hà Nội.
Tháng 1/1983 theo Quyết định của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, chi
nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng khu vực 2 giải thể, thành lập Chi nhánh
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa:Ng©n hµng
Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Từ Liêm thuộc Ngân hàng Nhà Nước huyện
Từ Liêm. Trên thực tế, Chi nhánh đã sáp nhập trở thành phòng Đầu Tư Xây

Dựng của Ngân hàng Nhà Nước huyện Từ Liêm theo quyết định số 60/QĐ ban
hành ngày 26/8/1982.
Ngày 20/12/1986, Chi nhánh tách khỏi Ngân hàng Nhà Nước huyện Từ
Liêm, thành lập Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng khu vực 5 trực
thuộc Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Hà Nội.
Năm 1988, chi nhánh được đổi tên thành Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng
Từ Liêm trực thuộc Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Hà Nội. Năm 1991, chi
nhánh được đổi tên thành Chi nhánh BIDV Từ Liêm sau đổi tên thành Chi
nhánh BIDV Cầu GIấy trực thuộc chi nhánh BIDV Hà Nội
Ngày 01/10/2004 chi nhánh được nâng cấp lên chi nhánh cấp I trực thuộc
BIDV Việt Nam, lấy tên là Chi nhánh BIDV Cầu Giấy.
1.2 Chức năng nhiệm vụ chủ yếu:
Chi nhánh BIDV Cầu Giấy là chi nhánh cấp I, thành viên của BIDV Việt
Nam, là đơn vị trực thuộc, hạch toán không đầy đủ, có con dấu riêng, thực hiện
nhiệm vụ do Tổng Giám Đốc BIDV VIệt Nam giao. Hoạt động kinh doanh đa
năng, phục vụ khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Là đại diện pháp nhân được ủy nhiệm của BIDV Việt Nam, chịu trách
nhiệm hoạt động theo đúng pháp luật, chế độ chính sách của Nhà Nước, các quy
định, thể lệ của Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam và của BIDV Việt
Nam.
Chức năng nhiệm vụ chủ yếu:
- Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn bằng VND và bằng ngoại tệ.
- Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VND và bằng ngoại tệ cho mọi thành
phần kinh tê.
- Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng theo luật các tổ chức tín dụng.
1.3 Cơ cấu bộ máy tổ chức:
Ng« ThÞ Kim Thoa Líp: NHK – K9
25

×