Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói ngân hàng đã được hình thành và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử bởi
từ khi các quốc gia bắt đầu xuất hiện những hình thức kinh doanh thương mại đầu
tiên thì cũng là lúc con người nhận ra sự cần thiết của các tổ chức tài chính. Các ngân
hàng được tạo ra với mục đích cung cấp nguồn vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế,
thời đại hiện nay thì nguồn vốn là yếu tố hàng đầu quyết định đến sự tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia.
Việt Nam trải qua gần 20 năm đổi mới từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu
đã từng bước vươn lên khẳng định mình đối với thế giới nói chung và trong khu vực
Đông Nam Á nói riêng, chiếm lĩnh một số thị trường lớn và góp phần nâng cao vị thế
của mình trên trường quốc tế. Việt Nam đang ngày càng mở rộng cánh cửa để đón
nhận những doanh nghiệp nước ngoài vào đầu từ. Vì vậy mà hệ thống pháp luật của
chúng ta được hoàn thiện hơn và các thành phần kinh tế được pháp luật bảo vệ và
hoạt động một cách bình đẳng hơn.Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh
tế hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật. Điều này thúc đẩy việc ra đời của
các doanh nghiệp ngày một nhiều và đa dạng hơn. Và như vậy nếu doanh nghiệp nào
chịu khó tìm tòi sáng tạo , có chiến lược trong việc đổi mới công nghệ và học hỏi quy
trình công nghệ từ các nước phát triển thì sẽ có lợi thế lớn trong việc cạnh tranh giành
thị phần trong lĩnh vực của mình.
Như một quy luật tất yếu muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải đổi
mới công nghệ và đôi khi thay đổi cả phương thức sản xuất để là người đi đầu trong
ngành nghề của mình hay đơn giản chỉ là để có thể theo kịp đối thủ cạnh tranh. Để có
thể thực hiện được việc này thì doanh nghiệp phải cần đến một lượng vốn rất lớn để
có thể nhập những loại máy móc tiên tiến, đào tạo những cán bộ kỹ thuật cao cấp để
xử lý những máy móc đó. Mà trong khi vốn tự có của các DNVVN lại rất hạn chế, vì
lý do đó họ sẽ phải tìm đến các ngân hàng để giải quyết vấn đề về vốn.
Từ thực tế của nền kinh tế Việt Nam với hơn 95% các doanh nghiệp là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết,
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
1
Chuyên đề tốt nghiệp
đồng thời xuất phát từ thực tế tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Tân Kỳ thời gian học tập, nghiên cứu. Em thấy răng vấn đề tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh còn nhiều vấn đề đáng chú ý,
như doanh số cho vay còn hạn chế, quy trình cho vay- quy trình thẩm định dự án
trước và sau khi cho vay còn nhiều bất cập. …Và trong thời kỳ này kinh tế của địa
phương đang bắt đầu có làn sóng phát triển vượt bậc, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ được thành lập nhiều kèm theo vô số dự án kinh doanh.
Vì lý do đó em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng cho
khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và
phát triển nông thôn huyện Tân Kỳ” làm mục tiêu nghiên cứu.
Mục đích của chuyên đề
Em muốn đánh giá một cách khách quan thực trạng chất lượng tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ của để từ đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị
nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
chi nhánhNgân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tân Kỳ.
Phạm vi của chuyên đề
Chuyên đề tập trung nghiên cứu thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
huyện Tân Kỳ từ các số liệu thống kê trong 3 năm gần đây ( 2008-2010)
Bài viết được chia làm 3 phần:
Chương I : Lý thuyết chung về chất lượng tín dụng đối với DN vừa và nhỏ tại
Ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tân Kỳ
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng cho khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tân Kỳ.
Để hoàn thành chuyên đề này, trước hết em xin gửi lời cám ơn chân thành đến
Thạc sỹ : Trần Minh Tuấn giảng viên hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
2
Chuyên đề tốt nghiệp
em trong quá trình thực hiện đề tài. Em cũng xin gửi lời cám ơn đến ban lãnh đạo,
các cán bộ làm công tác tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tân Kỳ
đã cung cấp số liệu và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Chương I : Lý thuyết chung về chất lượng tín dụng
khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
1.1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế
có tư cách pháp nhân được tổ chức ra để hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực
nhất định với mục đích công ích hoặc thu lợi nhuận. Thông thường cần có 3 điều kiện
sau để được công nhận là một doanh nghiệp :
- Có tư cách pháp nhân đầy đủ (Doanh nghiệp được Nhà nước thành lập, công nhận
hay cho phép hoạt động ).
- Có vốn pháp định dể kinh doanh.
- Có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng, chịu trách nhiệm độc lập về mọi
hoạt động kinh doanh của mình.
Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú, có
thể phân loại các doanh nghiệp theo các tiêu chí sau :
Thứ nhất: dựa vào quan hệ sở hữa về vốn và tài sản, các doanh nghiệp được chia
thành doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp.
- Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước thành lập,đầu tư vốn và
quản lý nó với tư cách là chủ sở hữu.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
3
Chuyên đề tốt nghiệp
- Doanh nghiệp tư nhân là những doanh nghiệp do cá nhân đầu tư vốn và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp là các doanh nghiệp có sự đan xen của các hình
thức sở hữu khác nhau trong cùng một doanh nghiệp.
Cách phân loại này chỉ rõ quan hệ sở hữu về vốn và tài sản trong các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đồng thời là một trong các căn cứ để Nhà
nước có chính sách kinh tế và định hướng phát triển phù hợp đối với từng loại doanh
nghiệp.
Thứ hai: dựa vào mục đích kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích.
- Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập
hoặc thừa nhận, hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường.Mục tiêu số một là thu
lợi nhuận tối đa.
- Doanh ghiệp hoạt động công ích (thường là doanh nghiệp Nhà nước ) là tổ chức
kinh tế thực hiện các hoạt động về sản xuất, lưu thông hay cung cấp các dịch vụ công
cộng, trực tiếp thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước hoặc thực hiện nhiệm
vụ an ninh quốc phòng. Mục tiêu chính của các doanh nghiệp này là hiệu quả kinh tế
và xã hội.
Phân loại theo hình thức này là cơ sở để chọn tiêu thức đánh giá lợi ích xã hội của
doanh nghiệp cho hợp lý và là một trong những căn cứ quan trọng để xác định chính
sách tài trợ của Nhà nước.
Thứ ba: dựa vào lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có thể chia làm hai loại là
doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi tài chính.
- Doanh nghiệp tài chính là các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm...Những doanh nghiệp này có khả
năng cung ứng cho nền kinh tế các loại dịch vụ về tài chính, tiền tệ, tín dụng, bảo
hiểm...
- Doanh nghiệp phi tài chính là các doanh nghiệp lấy sản xuất kinh doanh sản phẩm
làm hoạt động chính.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Phân loại theo tiêu thức này chỉ ra chức năng của từng loại doanh nghiệp. Chức năng
chủ yếu của các doanh nghiệp tài chính là làm môi giới thu hút và chuyển giao vốn từ
nới thừa vốn đến nơi thiếu để đầu tư phát triển kinh tế. Đối với các doanh nghiệp phi
tài chính, chức năng chủ yếu là cung cấp các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ phi tài
chính đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Qua tiêu thức phân loại này Nhà
nước có thêm căn cứ để hoạch định các chính sách quản lý phù hợp với mỗi loại hình
doanh nghiệp trong từng ngành nghề,
Thứ tư: dựa vào quy mô kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành các loại doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ là tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế xã hội cụ thể của từng nước và nó cũng thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai
đoạn phát triển kinh tế. Tại nước ta, tiêu chí phân loại DNVVN đã được quy định tạm
thời tại công văn số 681/CP – KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Theo
quy định tại công văn này, tiêu chí xác định DNVVN là vốn và số lao động. Cụ thể là
DNVVN là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người.
Để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các DNVVN, ngày 23/11/2001
Chính phủ đã ra nghị định 90/2001/NĐ - CP. Trong đó quy định DNVVN là cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp dụng linh hoạt đồng
thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu trên.
Bảng 1.1 Tiêu chí xác định DNVVNM ở một số quốc gia
Tên nước Số lao động
Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản
Nhật dưới 50 trong bán lẻ
dưới 100 trong bán buôn
dưới 10 triệu yên
dưới 30 triệu yên
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
5
Chuyên đề tốt nghiệp
dưới 300 ngành khác dưới 100 triệu yên
Mỹ dưới 500
Thái Lan dưới 100 dưới 20 triệu bạt
Xin ga po dưới 100 dưới 499 triệu SD
Phi líp pin dưới 200 dưới 100 triệu pê-sô
In đo nê xia dưới 100 dưới 0,6 tỉ ru-pi
1.1.2 Vai trò, đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công
nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay thì sự
khởi đầu của họ cũng là những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong
quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt
giữa những xí nghiệp trong nướcvà ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn
như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNVVN vẫn giữ
một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định. Bởi vì nhiều lĩnh vực kinh tế chỉ
có thể sản xuất kinh doanh có hiệu quả bởi các DNVVN. Sau thời kỳ suy thoái kinh
tế những năm đầu thập niên 30, người ta luận ra rằng khu vực DNVVN là nhân tố
cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, bảo đảm và ổn định kinh tế,
phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNVVN là xương sống trong
nền kinh tế của nhiều quốc gia hiện tại và cả tương lai. Đặc biệt khi cuộc Cách mạng
khoa học và công nghệ ngày càng phát triểnđã tạo điều kiện cho các DNVVN nhiều
cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm không thua kém các
doanh nghiệp lớn. Mặt khác xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính chất cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về
chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy
mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã không
cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có
hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNVVN là vệ tinh cảu
doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp. Như vậy, một nền kinh tế hiện đại thì DNVVN
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
6
Chuyên đề tốt nghiệp
ngày càng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác để
mở rộng lại ngày càng tăng.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển đang tiến tới một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thì DNVVN càng có ý nghĩa quan trọng. Thể hiện cụ thể trên các
mặt sau :
- DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp
phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước. Theo số liệu thống kê của các nhà kinh tế,
hiện nay DNVVN của nước ta chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp, tạo công ăn
việc làm cho khoảng 95% lao động xã hội. Như vậy, phát triển DNVVN là chủ
trương đúng đắn của Đảng, nó được gắn liền với đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng theo định hướng kinh tế thị trường nhằm giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, góp phần vào ổn định tình hình kinh tế xã hội.
- Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch
vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công vệ tinh cho các
doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh
nghiệp lớn. Hiện DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm,
78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách
và hàng hoá.
- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiên dùng ngày càng phong phú
và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, chế biến hàng hoá xuất
khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng không thể thay thế được
các của hàng bán lẻ, những nhà máy quy mô lớn hiện đại không sản xuất được những
sản phẩm đơn chiếc.Bằng sự đa dạng ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường các
DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng mọi sản
phẩm và nhu cầu tiêu dùng cầu xã hội. Với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông
lâm thuỷ hải sản để sản hàng hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền
thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia
công chế biến, đại lý khai thác cho xuất khẩu. Do DN lớn hạn chế về khu vực địa lý,
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
7
Chuyên đề tốt nghiệp
phương pháp tổ chức sản xuất và nếu muốn kinh doanh thường phải sử dụng các
DNVVN làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói...
- Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất. Phát triển DNVVN sẽ giúp các địa
phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục
vụ phát triển kinh tế địa phương. Từng địa phương cũng bị giới hạn bởi ngân sách,
khả năng tích tụ và tập trung vốn của DN tư nhân không nhiều nên việc phát triển
doanh nghiệp lớn là hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ ta đưa ra các chính
sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở vùng núi phía Bắc, vùng cao nguyên Nam
trung bộ và phát huy các làng nghề truyền thống.
Như vậy, có thể khẳng định vị trí và vai trò của các DNVVN, đồng thời việc chú
trọng phát triển các DNVVN là một trong những hướng chiến lược quan trọng quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Bảng 1.2Đánh giá vai trò DNVVN ở Việt Nam
TT Vai trò Tỷ lệ ( % )
1
Góp phần tăng trưởng kinh tế
51,7
2
Tạo việc làm, tăng thu nhập
88,5
3
Tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế
83,2
4
Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam
63,2
(Nguồn: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam)
1.1.2.2 Một số đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế. ở nước ta,
DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 65,9%
trong các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã; 94,6% công ty trách nhiệm hữu hạn;
99,4% doanh nghiệp tư nhân; 65,9% doanh nghiệp Nhà nước và gần 100% doanh
nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông thôn là các DNVVN.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính năng động và linh hoạt cao trước nững thay đổi của
thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh
vì vốn đầu tư ít và thu hồi vốn nhanh. Các DNVVN dễ phát huy bản chất hợp tác, có
thể duy trì tự do cạnh tranh và phát huy tiềm lực ở trong nước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả. Các
quyết định quản lý được đưa ra và thực hiện nhanh chóng, không ách tắc và tránh
phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý DN.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, hiệu quả cao, ít
xảy ra rủi ro nên tạo ra nhiều khả năng đầu tư của các cá nhân và mọi thành phần
kinh tế.
Bên cạnh một số đặc điểm thể hiện những ưu diểm trên, DNVVN cũng còn những
đặc điểm bộc lộ mặt hạn chế như, nguồn tài chính hạn hẹp nên quá trình tích tụ và tập
trung để đầu tư tái sản xuất diễn ra rất chậm chạp, trình độ quản lý sản xuất kinh
doanh còn nhiều hạn chế, khó khăn thâm nhập vào thị trường thế giới và khu vực.
1.2 Khái quát chung về NHTM
1.2.1 Khái niệm.
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược
lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị
trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài
chính không thể thiếu được.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM. Tại Mỹ, NHTM được cho là
“công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong
ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “NHTM là những xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ
trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 xác định
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các
dịch vụ thanh toán” và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì “NHTM là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Tóm lại, NHTM là một tổ chức tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài
chính mà chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay và các dịch vụ thanh toán.
1.1.2 Vai trò của NHTM
1.1.2.1 Chức năng tập trung vốn
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng
một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông)
nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những
chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết
nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay,
trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay. Thực hiện được điều này
NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với
số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh
doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM vừa là người đi vay vừa là
người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của
mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu,
trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển
giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công
ty…
1.1.2.2 Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán.
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ
được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh
chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương
mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí
lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc
quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm
cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc
đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được
thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng
thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua
việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng
điện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec
ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy
vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
1.1.2.3 Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không
còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung
ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các
ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo
ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh toán
trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương
mỗi nước.
1.2.3 Các hoạt động NHTM
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.1 Nghiệp vụ tạo vốn
Là nghiệp vụ hình thành nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, được gọi là nghiệp
vụ cơ bản vì các nguồn vốn này nằm bên tài sản Nợ trên bảng tổng kết tài sản của
ngân hàng thương mại. Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm có”
*Vốn tự có và quỹ ngân hàng: trong đó vốn điều lệ là số vốn ban đầu phải lớn hơn
mức tối thiểu do nhà nước quy đinh mà ngân hàng phải có để được phép hoạt động.
Tùy theo loại hình ngân hàng mà các chủ thể góp vốn khác nhau: với ngân hàng tư
nhân thì đó là vốn riêng của một doanh nghiệp đầu tư, với ngân hàng cổ phần thì vốn
điều lệ được hình thành do phát hành cổ phiếu, nếu ngân hàng quốc doanh thì toàn bộ
do ngân sách nhà nước cấp.
Quỹ ngân hàng bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển,
quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn
có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài srn
cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài
chính.
Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng nhưng nó đóng vai trò quan trọng vì đó là cơ sở để tiến hành kinh doanh,
tiến hành thu hút những nguồn vốn khác.
*Vốn tiền gửi của khách hàng: lịch sử phát triển ngành ngân hàng cho thấy để bảo
quản số tiền vàng, người ta đã thuê ngân hàng giữ hộ và đòi hỏi hoàn trả đúng số tiền
đã gửi nên ngân hàng không thể dùng chúng để cho vay. Về sau, người ta chỉ yêu cầu
phải hoàn trả đủ số lượng với thời hạn lâu hơn nên ngân hàng có thể sử dụng vốn tiền
gửi của khách hàng để cho vay kiếm lời, còn người gửi tiền không những không phải
trả tiền thua giữ tiền mà còn được hưởng lãi suất trên số tiền đó.
Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gửi là vốn chủ yếu của ngân hàng, nó
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Để bảo đảm một khoảng cách an toàn trong hoạt động của ngân hàng, trong mối
tương quan giữa vốn tự có và vốn huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
12
Chuyên đề tốt nghiệp
toàn của ngân hàng càng thấp. Vì vậy, để đảm bảo mức độ an toàn tối thiếu, cần có
quy định giới hạn giữa vốn tự có và vốn huy động.
*Nguồn vốn đi vay: có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại. thuộc loại này bao gồm:
-Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của
ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn
tiền gửi chưa đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
-Vốn vay của ngân hàng trung ương: khi ngân hàng trung ương nhận cho vay chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
-Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị
trường tiền tệ ngắn hạn. Tại đây, các ngân hàng thiếu tiền thanh toán sẽ vay của các
ngân hàng khác để thanh toán, nghiệp vụ này vừa giúp cho các ngân hàng thiếu tiền
có tiền mặt ngay vừa giúp cho những ngân hàng dư tiền cho vay để sinh lời.
-Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài.
*Nguồn vốn tiếp nhận: những nguồn vốn mà ngân hàng thương mại ủy thác từ các tổ
chức trong hoặc ngoài nước từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc
kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, để thực hiện những dự án có mục
tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh.
*Các nguồn khác như vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi
làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán…
1.2.3.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn
Là nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn hình thành của ngân hàng, chúng thuộc bên Có
trên bảng tổng kết tài sản nên còn được gọi là nghiệp vụ Có. Bao gồm:
*Thiết lập dự trữ: Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời.
Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có
được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm
sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng
phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đánh ứng nhu cầu
thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
13
Chuyên đề tốt nghiệp
-Tiền mặt tại quỹ: có khả năng thanh toán kịp thời nhất. Ngân hàng thương mại phải
để tại quỹ của mình một số tiền phòng hộ theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi của
khách hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng trong
ngày.
-Tiền gửi tại ngân hàng trung ương: theo quy định, ngân hàng thương mại phải mở tài
khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần:
+Phần tối thiểu theo quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Ngân hàng trung ương được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời
kỳ nhất định. Việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bặt buộc do chính phủ quy định.
+Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và
ngân hàng thương mại khác.Tiền gửi của ngân hàng thương mại phải mở tài khoản
tại ngân hàng trung ương biến động hàng ngày vì mỗi ngày ngân hàng thương mại
đều có nộp hay rút tiền mặt, đổi séc tại phòng giao hoán.
-Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách
hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý.
-Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất
cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
*Nghiệp vụ tín dụng: của ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt
động của ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng gồm có:
-Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác: đây là ngiệp vụ cho vay gián
tiếp mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và chủ thể khác thực
hiện việc trả nợ cho ngân hàng, là việc ngân hàng mua thương phiếu của khách hàng,
đây phải là những thương phiếu còn trong thời hạn hiệu lực, người sở hữu những
thương phiếu đó khi bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá của
thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân hàng quy định.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
14
Chuyên đề tốt nghiệp
-Nghiệp vụ tín dụng thế chấp: đây là một hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản
của khách hàng. Tài sản này có thể là nhà cửa, công trình xây dựng, tàu biển, cây lâu
năm…và phải thuộc quyền sở hữu của người vay, có thể bán nhanh chóng. Khi cho
vay, ngân hàng cho vay theo tỷ lệ trên trị giá thực thế chấp có xác nhận củ công
chứng. Khi hết hạn vay, người vay phải hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng để nhận lại
các giấy tờ trên, nếu không trả được nợ ngân hàng được quyền yêu cầu tòa án cho
lệnh phát mãi tài sản để thu nợ.
-Nghiệp vụ tín dụng ứng trước vào tài khoản: đây là một thể thức cấp tín dụng mà
trong đó ngân hàng đồng ý cho khách hàng sử dụng một mức tín dụng nhất định
trong thời hạn nhất định, đồng thời hai bên ký kết với nhau một hợp đồng tín dụng.
Mức cho vay có thể thực hiện theo hai cách: chuyển tất cả các khoản tiền vay vào tài
khoản tiền gửi, hoặc cho phép khách hàng sử dụng dần số tiền vay bằng cách phát
hành séc hoặc các công cụ thanh toán ngay trên tài khoản vãng lai.
-Nghiệp vụ tín dụng thuê mua và tín dụng đầu tư, trong đó:
+Tín dụng thuê mua là việc ngân hàng đứng mau tài sản của người cung cấp để cho
thuê đối với người có nhu cầu sử dụng (người đi thuê). Khi hợp đồng cho thuê hết
hạn, người đi thuê có thể trả lại tài sản đó cho ngân hàng, xin gia hạn thêm hợp đồng
hoặc mua lại tài sản đó theo giá cả thỏa thuận với ngân hàng. Tài sản cho thuê ở đây
có thể là động sản hoặc bất động sản.
+Tín dụng đầu tư: thực chất khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng để tài trợ
cho các doanh nghiệp trong các dự án đầu tư như các công trình xây dựng cơ bản, cải
tạo và quy mô sản xuất kinh doanh, khôi phục hoặc thay thế tài sản cố định, cải tiến
và hợp lý hóa sản xuất kinh doanh.
-Nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng sinh hoạt, cho vay để mua hàng tiêu
dùng. Ở các nước phát triển, mọi người có thu nhập ổn định đều được ngân hàng cho
vay dưới hình tức cấp thẻ tín dụng.
*Nghiệp vụ đầu tư: khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho
vay, nó mang lại khaỏn thu nhập lớn và đáng kể cho ngân hàng thương mại. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh nghiệp khác,
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
15
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới
các hình thức như:
-Đầu tư chứng khoán:bằng cách cho các công ty cổ phần đã hoạt đọng, các xí nghiệp
vay theo cách mua trái khoán của xí nghiệp, cho ngân hàng khác vay bằng cách mua
công trái, đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ phiếu của công ty.
-Hùn vốn, liên doanh…là các biện pháp trực tiếp góp vốn với các doanh nghiệp để
thành lập công ty, xí nghiệp mới.
Tất cả mọi hành động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu
nhập. Nhưng mặt khác nhờ hoạt động mà các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
được phân tán. Ngoài ra nếu đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất
thấp. Vì vậy các ngân hàng thương mại có xu hướng sử dụng nguồn vốn ngày càng
tăng cho việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Theo quy định của ngân hàng thương
mại chỉ được phép dùng nguồn vốn tự có để thực hiện nghiệp vụ đầu tư.
*Tài sản có khác: những khoản mục còn lại của tài sản có, trong đó chủ yếu là tài sản
lưu động-cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động ngân hàng.
-Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng.
-Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc.
-Mua sắm các phương tiện vận chuyển.
-Xây dựng hệ thống kho quỹ.
Ngoài tài sản lưu động, còn có các khoản thuộc tài sản có như các khoản phải thu,
các khoản khác…
1.2.3.3.Nghiệp vụ trung gian-nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ tợ đáng kể cho
nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập
cho ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn
phát triển hiện nay của ngân hàng.
Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách
hàng được hưởng tiền hoa hồng như:
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
16
Chuyên đề tốt nghiệp
-Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu cầu hoặc
trả cho một người nào đó.
-Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ phiếu đến
hạn, chứng khoán, hàng hóa…
-Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như quản lý
tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh lý tài sản của
xí nghiệp bị phá sản…
-Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua bán ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý cho khác hàng.
-Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng trung
ương.
-Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tiền tệ,
thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng.
1.3. Hoạt động tín dụng ngân hàng
1.3.1. Khái niệm
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại từ lâu đời trong đời sống xã hội loài người.
Theo tiếng Latin, tín dụng – phiên âm của từ “creditim”, nghĩa là sự tín nhiệm. Điều
này có nghĩa là trong quan hệ tín dụng, người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ
hoàn trả vào một ngày nào đó trong tương lai như hai bên đã thoả thuận. Như vậy,
một cách đơn giản nhất, tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả
vốn lẫn lãi giữa người đi vay và người cho vay. Người cho vay tin tưởng vào người
vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng,
một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá
nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người
cho vay.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội bằng các hình thức: nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức,
cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị,
tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, tín dụng ngân hàng đã thực hiện chức năng
phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã hội. Cơ sở khách quan để
hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng ngân hàng là do đặc điểm
tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã thường xuyên xuất hiện hiện
tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức, cá nhân này, trong khi các tổ chức, cá nhân
khác lại có nhu cầu thiếu vốn. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh
lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức,
cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng
thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân hàng là tổ chức chuyên
kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ vai trò
vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm:
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các TCTD khác trong và ngoài nước.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ trong nền
kinh tế thị trường.
1.3.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Người ta có thể dựa vào rất nhiều tiêu thức để phân loại các hình thức và sản phẩm
cho vay. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học nhằm mục đích giúp cho các ngân
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
18
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng có thể thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả của công
tác quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa và các căn cứ sau đây:
1.3.2.1 Mục đích cho vay:
Dựa vào mục đích cho vay, người ta thường phân chia cho vay thành các loại sau:
Cho vay bất động sản: Loại cho vay này liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: Đây là loại cho vay ngắn hạn của ngân hàng
cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ
nhằm để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp này.
Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay phục vụ cho mục đích trang trải các chi phí
sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài
chính khác.
Cho vay tiêu dùng: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của
đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
1.3.2.2Thời hạn cho vay:
Theo tiêu thức này, người ta chia cho vay thành 03 loại:
Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của các nhân.
Cho vay trung hạn: Là các món vay có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay
trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
19
Chuyên đề tốt nghiệp
vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn vay trên 05 năm và thời hạn tối đa có
thể lên tới 20 – 30 năm. Cho vay dài hạn được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư
mới, mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở, mua sắm, đầu tư phương
tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp, dây chuyền, nhà máy sản xuất.
1.3.2.3 Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo tiêu thức phân loại này, cho vay được chia thành hai loại:
Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc
có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có uy tín cao, có khả năng tài chính vững
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của
khách hàng mà không cần một nguồn thu thứ hai bổ sung.
Cho vay có tài sản bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp
hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không
có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm
này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn
thu nợ thứ nhất thiếu tính chắc chắn.
1.3.2.4 Phương pháp cho vay:
Dựa vào tiêu thức này, cho vay của NHTM được chia thành các loại sau đây:
Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay nhiều lần cách biệt nhau đối với
khách hàng không có nhu cầu thường xuyên và chỉ vay trong trường hợp cần thiết
vốn để ngân hàng tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Khi cần vay vốn, khách hàng làm đơn yêu cầu và trình phương án sử dụng
vốn vay gửi đến Ngân hàng. Ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá khách hàng và ký hợp
đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu câu bảo đảm nếu cần.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng và
khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
20
Chuyên đề tốt nghiệp
thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng này được xác định dựa trên kế hoạch sản xuất
kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức tín dụng có
thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Mỗi lần khách hàng vay chỉ cần trình bày phương án
sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá dịch vụ và nêu yêu
cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ vay, ngân hàng
sẽ phát tiền vay cho khách hàng.
Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng trả góp
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng tiêu dùng lâu bền. Số tiền mỗi lần trả được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá, áp dụng
đối với doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn
ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Doanh nghiệp khi mua hàng
có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng hoá và sẽ thu nợ khi doanh
nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển. Ngân hàng cùng với khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức cho
vay, hạn mức tín dụng và các nguồn cung cấp hàng hoá cũng như khả năng tiêu thụ.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và
số tiền cần vay, Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Các khoản phải thu và cả
hàng hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay tại Ngân hàng.
Cho vay thấu chi: Là việc cho vay mà Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận
cho khách hàng chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng đến
một giới hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi). Để được vay thấu chi, khách hàng
làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong thời gian thấu
chi, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả
nhưng không được vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài
khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn mức
thấu chi thì sẽ bị phạt và đình chỉ sử dụng hình thức này.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
21
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.4.1. Khái niệm
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với khả năng của ngân hàng, và số vốn vay
này được khách hàng đứa vào quá trình sản xuất, kinh doanh tạo ra số tiền lớn hơn,
đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đủ và đúng hạn, đồng thời, khách
hàng vay có thể trang trải đủ chi phí và có lợi nhuận, khối lượng sản phẩm hàng hóa
hữu ích cung cấp cho xã hội tăng.
Như vậy, khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, cần tính đến ba nhân tố: ngân hàng thương mại,
khách hàng và nền kinh tế.
Xét từ giác độ ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi,
mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực
của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện
ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn
đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung
và dài hạn trong nền kinh tế.
Xét từ giác độ khách hàng: thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am
hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,
chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu
hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được
khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp
với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp
phần làm lành mạnh tài chính khách hàng.
Xét từ giác độ nền kinh tế: hoạt động tín dụng trong những năm gần đây phản
ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới với nhiều khái
niệm mới, nội dung mới để đạt được sự thống nhất về nhận thức và tạo điều kiện
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
22
Chuyên đề tốt nghiệp
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo
việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng
kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ảnh mức độ thích
nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiến
sức mạnhc ủa một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín
dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản,
thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí
nghiệp vụ…
1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng
1.4.2.1. Chỉ tiêu định tính
Cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng nếu Ngân hàng có
bảo vệ, có bãi gửi xe, có nhân viên trông xe không thu lệ phí thì Ngân hàng sẽ tạo
được một ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp trong lòng khách hàng.
Nếu ngân hàng có sơ đồ làm việc của các phòng ban sẽ giúp khách hàng không bị bỡ
ngỡ và đỡ tốn thời gian. Từ đó khách hàng sẽ có ấn tượng tốt về Ngân hàng.
Cách bố trí sắp sếp trong phòng làm việc của ngân hàng, trang phục của nhân viên,
đặc biệt là thái độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Ngân hàng có được một đội ngũ cán bộ lành nghề, hăng say với công việc
cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng tín dụng ngân
hàng. Do đó, ngân hàng không thể bằng lòng với khả năng phục vụ hiện tại mà phải
thường xuyên củng cố phong cách làm việc, đào tạo cán bộ xây dựng cơ sở vật chất
phục vụ. Nếu chất lượng tín dụng cao thì chắc chắn Ngân hàng sẽ có nhiều khách
hàng mới.
Uy tín của ngân hàng cũng góp phần làm nên chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Các Ngân hàng nước ngoài, ngân hàng cổ phần trong nước vào Việt Nam không lâu
nhưng phong cách làm việc, thái độ phục vụ khách hàng của họ là rất tốt. Trong số
này có thể kể đến ngân hàng ANZ, là một ngân hàng của úc mới vào Việt Nam từ
năm 1992. Khách hàng khi đến giao dịch với ANZ bao giờ cũng rất yên tâm và thoải
mái bởi ở đây có một đội ngũ nhân viên bảo vệ rất chuyên nghiệp, một ban lễ tân
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
23
Chuyên đề tốt nghiệp
niềm nở và hướng dẫn khách hàng tận tình, chu đáo, một không khí làm việc nghiêm
túc. Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên uy tín của ngân hàng ANZ ở Việt
Nam.
Như vậy, dựa vào các chỉ tiêu định tính có thể đánh giá được phần nào chất lượng tín
dụng của các ngân hàng thương mại
1.4.2.2. Chỉ tiêu định lượng
Có nhiều chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, trong đó
có các chỉ tiêu cơ bản sau:
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu:
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 của Ngân
hàng Nhà nước, nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ
không thể đòi,…) được định nghĩa là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 quy định tại
điều 6 hoặc điều 7 của Quy định này.
Nợ xấu mang các đặc trưng sau:
Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã
hết hạn.
Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng
ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không
đủ trang trải nợ gốc và lãi.
Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Cụ thể, các khoản nợ xấu bao gồm:
- Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3)
- Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4)
- Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5)
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của ngân hàng
thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ xấu =
Dư nợ xấu
X 100%
Tổng dư nợ cho vay
Cũng theo quy định này, các ngân hàng có thể chọn phân loại nợ theo phương pháp
định lượng hay phương pháp định tính với các cách xếp loại khác nhau như sau:
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng
thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương
lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày và nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý
Theo phương pháp này, mặc dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để
phân loại nợ như trên nhưng tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định
phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ
rủi ro cao nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
-Tỷ lệ nợ quá hạn:
Bên cạnh tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cũng góp phần phản ánh chất lượng tín
dụng ngân hàng, tuy với mức độ thấp hơn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá hạn
bao gồm:
- Nợ cần chú ý
- Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ nghi ngờ
- Nợ có khả năng mất vốn
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho biết việc khách hàng không thực hiện được việc trả nợ đúng
hạn theo cam kết. Cũng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh tình hình tín
dụng của ngân hàng có chất lượng thấp. Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp nhận
được là dưới 3%.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
25