Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

GiảI pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Yên Phong tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.09 KB, 64 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN, đảng, nhà nước và nhân dân ta cùng đòng tâm hiệp lực phấn đấu cho
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để đưa nước ta trở thành một
nước xã hội chủ nghĩa dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để
thực hiện được mục tiêu lâu dài đó đòi hỏi phải có nguồn tài lực vững chắc, đó là
vốn để đầu tư. Nguồn vốn dể phát triển kinh tế đất nước là vô cùng quan trọng và
cần phải được động viên khai thác cả ở trong và ngoài nươc.
Với phương châm đi vay để cho vay, hệ thống NHTM đã trở thành trung
gian điều hòa và phân phối vốn có hiệu quả nhất trong nền kinh tê. Làm sao để khơi
tăng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vay của nền kinh tế, đó luôn là động lực thôi
thúc các NHTM tìm kiếm cơ hội, giải pháp để không ngừng tăng trưởng quy mô và
chất lượng nguồn vốn huy động.
Yên Phong là một huyện đồng bằng, nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Ninh,
thuộc vùng châu thổ Sông Hồng với diện tích tự nhiên 112,5 km
2
. Phía Bắc lấy
Sông Cầu làm giới hạn, Yên Phong giáp với hai huyện Hiệp Hòa và Việt Yên thuộc
tỉnh Bắc Giang. Phía nam giáp huyện Đông Anh thuộc thành phố Hà Nội huyện Từ
Sơn và Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh. Phía Tây lấy sông Cà Lồ làm giới hạn, Yên
Phong giáp huyện Đông Anh và huyện Sóc Sơn – Hà nội.
Nằm gần thủ đô Hà Nội và các trục đường giao thông chính nên huyện Yên
Phong có nhiều điều kiện để hòa nhập với cuộc sống mới, với sự phát triển kinh tế
nâng cao dân trí và phát huy tiềm năng của mình
Với nhiều ngành nghề truyền thống như giấy gió Phong Khê, tơ tằm Tam
Giang, rượu Đại Lâm, nhôm đồng Văn Môn lại có vị trí thuận lợi sớm bắt nhịp
với cơ chế thị trường nên bộ mặt của huyện trong thời gian qua đã có nhiều biến đổi
tốt. Tuy nhiên nền kinh tế của Yên Phong tăng trưởng vẫn còn ở mức thấp. Tổng
thể nền kinh tế huyện chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, các ngành nghề phát triển không


đồng đều.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
1
Chuyên đề tốt nghiệp
NHNo huyện Yên Phong có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của huyện. Trong những năm qua NHNo huyện đã huy động khối
lượng nguồn vốn tương đối để đáp ứng cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh
tế của huyện, bước đầu đã giải quyết được nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nguồn vốn
huy động từ nội bộ nền kinh tế của huyện Yên Phong còn thấp chưa tương xứng với
tiềm năng. Làm thế nào để thu hút được mọi nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế
vào Ngân hàng thực sự là vấn đề cấp thiết cần tìm ra lời giải đáp.
Xuất phát từ thực tế trên, dựa trên những vấn đề lý luận đã được nghiên cứu
trong quá trình học, cộng với những kinh nghiệm làm việc thực tế, em đã lựa chọn
đề tài " Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo Huyện Yên
Phong tỉnh Bắc Ninh" làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
Chuyên đề tập trung nghiên cứu nhằm những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của
NHTM.
- Phân tích thực trạng nguồn vốn của NHNo huyện Yên Phong
- Đưa ra các giải pháp tạo bước chuyển biến mới trong hoạt động huy động
vốn, cải thiện cơ cấu vốn đáp ứng yêu cầu của công việc xây dựng và phát triển
kinh tế Huyện Yên Phong.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung chủ yếu của nghiệp vụ huy động
vốn của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chỉ giới hạn nghiên cứu nghiệp vụ
huy động vốn tại NHNo Huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, những giải pháp
đưa ra cũng giới hạn trong phạm vi áp dụng tại NHNo Huyện Yên Phong.
4. Phương pháp nghiên cứu.

Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để
xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
2
Chuyên đề tốt nghiệp
thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,phương pháp phân tích tổng
hợp số liệu thực tế, vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân từ đó
đưa ra các giải pháp thích hợp.
5. Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của chuyên đề được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vốn trong kinh doanh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Yên Phong
tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn
tại NHNo & PTNT huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
3
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Huy động vốn với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái niệm về vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính. Ở Mỹ, các trung gian tài
chính được chia thành các tổ chức nhận tiền gửi (các NHTM, các liên hiệp tín
dụng), các tổ chức tín dụng hợp đồng (các công ty bảo hiểm sinh mạng, các công ty
bảo hiểm cháy và tai nạn, các quỹ trợ cấp) và các trung gian đầu tư (các công ty tài

chính, các quỹ tương trợ, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ).
Dù các trung gian tài chính có được phân chia theo cách nào, thì NHTM nếu
xét về khối lượng tài sản và tầm quan trọng đối với nền kinh tế - vẫn giữ một vai trò
chủ đạo. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau, chẳng hạn
Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng quốc doanh và các Ngân hàng liên
doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt
được điều đó, công cụ duy nhất mà các ngân hàng phải có là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của
chúng gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác,
họ chuyển nhượng quyền hạn sử dụng vốn tiền tệ cho Ngân hàng, để rồi Ngân hàng
phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. Và như vây, Ngân hàng đã thực hiện vai trò
tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân
chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời,
chính các hoạt động đó lại quyết định chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định
đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
4
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2 Các loại vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương
mại
1.1.2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của
Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một Ngân hàng. Do
tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, Ngân hàng có thể chủ động sử dụng
vào các mục đích khác nhau như mua sắm TSCĐ, đầu tư đổi mới công nghệ, mở
rộng mạng lưới chi nhánh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như

tài sản đảm bảo gây lòng tự tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán
trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết
định đến và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có bao gồm những thành phần sau:
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
trong từng loại hình Ngân hàng & theo từng thời kỳ khác nhau mà các chủ sở hữu
cần phải có trước khi ký giấy phép thành lập.
Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ là vốn được ghi vào điều lệ hoạt động
của ngân hàng và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, theo quy định hiện tại tối
thiểu phải bằng vốn pháp định. Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các loại
hình Ngân hàng, vốn chủ sở hữu cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác
nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng hình thức sở hữu. Đối với các NHTM cổ phần,
đây là vốn sở hữu riêng của các cổ đông đóng góp hoặc được phát hành thêm khi
được phép của cấp có thẩm quyền. Đối với các NHTM NN, do Nhà Nước cấp, còn
đối với Ngân hàng liên doanh là sự góp vốn từ các bên tham gia góp vốn trong và
ngoài nước.
Vốn tự có bổ sung
- Vốn tự có của NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian
nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường số vốn tự có ban
đầu.
+ Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
5
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Ngoài các quỹ trên, vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa
phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt khác như: quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu
hao tài sản cố định
1.1.2.2 Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các

TCKT và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh
doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả
đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu
rút vốn (tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động vai trò rất quan trọng đối với mọi
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết
số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán. Vốn huy động bao gồm:
 Tiền gửi
Thực hiện chức năng thủ quỹ cho xã hội của các NHTM, các NHTM thường
xuyên nhận tiền gửi của các Doanh nghiệp, TCKT & cá nhân trong nền kinh tế dưới
nhiều hình thức:
• Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và
Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi
suất thấp hoặc không được lãi và bao gồm hai loại sau:
- Tiền gửi thanh toán là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các
khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an
toàn và thuận tiện qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) của các
NHTM. Các NHTM có dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tốt sẽ có lợi thế
trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi này để chuyển một phần để cho vay. Tiền gửi
thanh toán thường được bảo quản tại Ngân hàng trên hai loại tài khoản: tài khoản
tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
6
Chuyên đề tốt nghiệp
rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển

khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích "đảm bảo khả năng" và sử
dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư
nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được Ngân hàng đáp
ứng nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ
Ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà Ngân hàng luôn phải chủ
động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi Ngân hàng do có
sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của
doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn
xuất, tạo nên tồn khoản mà Ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh
doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy là khoản tiền được ký gửi với mục đích an
toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể
đến Ngân hàng rút ra để chi tiêu. Cũng giống như trường hợp trên, Ngân hàng phải
thỏa mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử
dụng tồn khoản chi khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
• Tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng về
thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích lũy và xét về
bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Các NHTM nhận hai loại tiền
gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (tức khi muốn rút ra phải
báo trước)về cơ bản, các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành
thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường,
tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi
tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa tiền
gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của mọi khách hàng.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
7

Chuyên đề tốt nghiệp
 Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu thập của cá nhân người lao động chưa
sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách
an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt
để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế, trong nền kinh tế
thị trường tiền gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau:
• Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào
song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và
rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
 Các nguồn huy động khác.
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các NHTM còn phát hành chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu & trái phiếu NHTM. Thực chất các nghiệp vụ này là Ngân hàng
huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền
gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá qui định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và
dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt, tùy theo mục
đích với sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội đồng chứng khoán Quốc gia.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu
Ngân hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động.
Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn
huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy động vốn dưới các hình
thức này, các Ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy
động , mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động. Vốn này chỉ được huy động
trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến các
Ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
Tóm lại: Vốn huy động là tiền đề, đồng thời là điều kiện tiên quyết đối với
mở rộng hoạt động kinh doanh của các NHTM. Quy mô, cơ cấu, giá cả bình quân

huy động vốn sẽ quyết định đến việc sử dụng vốn, ảnh hưởng lớn đến năng lực
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập với khu vực & Quốc
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
8
Chuyên đề tốt nghiệp
tế. Mặt khác, nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn
của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Đồng thời các NHTM phải tôn trọng các giới hạn về mức huy động vốn theo qui
định ở mỗi nước.
1.1.2.3 Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM với các Tổ chức tín dụng khác và
giữa các NHTM với NHTW. Quan hệ vay mượn này chỉ diễn ra ở cấp hội sở chính
của các NHTM (trừ trờng hợp vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ) Các
NHTM sẽ đi vay vốn lẫn nhau trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng để bổ sung vào
vốn hoạt động của mình khi Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không
đủ vốn hoạt động, hay nói cách khác là tạm thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp
vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được cho đủ nhu cầu sử dụng của NHTM thì
NHTM sẽ đi vay của Ngân hàng Trung ương thông qua hình thức tái chiết khấu &
tái cấp vốn.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay Ngân hàng Trung
ương được chia thành các loại: Vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay
tái cấp vốn.
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung
vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn
hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
- Vốn vay để thanh toán các NHTM vay Ngân hàng Trung ương nhằm thực
hiện công tác thanh toán giữa các Ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong
thanh toán (Thời hạn vay loại này thường ngắn).
- Tái cấp vốn Ngân hàng Trung ương cho NHTM vay trên cơ sở các chứng từ
có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thỏa mãn

những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình
thức:
+ Cho vay tái chiết khấu: Ngân hàng Trung ương nhận các chứng từ có giá
mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các
NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã được
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
9
Chuyên đề tốt nghiệp
giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền
tệ của Nhà Nước.
+Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến
Ngân hàng Trung ương để làm đảm bảo, Ngân hàng Trung ương sẽ cho vay theo tỷ
lệ nhất định tùy theo sự quản lý của Nhà Nước.
Vốn vay Ngân hàng Trung ương là quan hệ trực tiếp giữa các NHTM với
Ngân hàng Trung ương nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Khi Ngân
hàng Trung ương sử dụng công cụ thị trường mở, mua bán các trái phiếu, kỳ phiếu
ngắn hạn, hệ thông NHTM phải chịu sự kiểm soát gắt gao của Ngân hàng Trung
ương.
1.1.2.4 Vốn khác
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản tiền thư tín dụng, tài khoản tiền
gửi séc bảo chi, và các khoản tiền phong tỏa do Ngân hàng chấp nhận các hối phiếu
thương mại v.v. Các khoản tiền tạm được coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng
kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác,
nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được
thực hiện theo tiến độ công việc, nên Ngân hàng có thế sử dụng tạm thời tồn khoản
đó vào kinh doanh.
1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng
1.1.3.1.Vốn là cơ sở để tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng

Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải
có vốn. Riêng đối với Ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh của mình. Nói cách khác, Ngân hàng không có vốn thì không thực hiện
được các nghiệp vụ kinh doanh bởi vì, với đặc trưng của hoạt động Ngân hàng, vốn
không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng chủ yếu của
NHTM.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền
tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn).
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Những Ngân hàng trường vốn là Ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh.
Chính vì thế, có thể nói: vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của Ngân
hàng. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định, thì
Ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình
hoạt động của mình.
1.1.3.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác
của Ngân hàng
Vốn của Ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, nếu so với các Ngân hàng lớn thì các Ngân hàng nhỏ có khoản
mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các
Ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi, các Ngân hàng lớn cho vay được tại thị
trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì các Ngân hàng nhỏ lại bị
giới hạn trong phạm vi hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản ứng nhậy bén được
với sự biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các
tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Giả sử trên địa bàn Ngân hàng đó, nhu
cầu vốn rất lớn, mà nếu Ngân hàng không huy động được, thì không thể đáp ứng
được nhu cầu cho vay. Ngược lại nếu khả năng vốn của Ngân hàng đủ đáp ứng các
nhu cầu vay, Ngân hàng có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ
Ngân hàng. Chính vì vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt

động kinh doanh Ngân hàng.
1.1.3.3 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân
hàng trên thương trường
Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy
mô hoạt động đòi hỏi các Ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng
yếu. Uy tín đó phải thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho
khách hàng của Ngân hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng càng cao thì vốn
khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh
toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung và với vốn khả
dụng của Ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt động
kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có
hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thương trường.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.3.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật
hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng
vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín
dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về
thời gian, thời hạn cho vay. thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách
hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân
hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh
doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có Ngân hàng, tăng cường
cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Đồng thời, vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng
tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua
(leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính
các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động

kinh doanh và tạo thêm vốn cho Ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của
Ngân hàng trên thương trường.
1.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) và cho
vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của một
trung gian tài chính, đóng vai trò trung gian giữa người có vốn và người cần vốn.
Quá trình huy động vốn của các NHTM được thực hiện dưới các hình thức sau:
1.2.1 Huy động vốn tiền gửi
1.2.1.1 Huy động tiền gửi không kì hạn
Đây là loại tiển gửi mà chủ nhân của nó có thế rút tiền hoặc trả cho bên thứ
ba bằng phát hành séc. Chính vì vậy, mà nó còn có tên là tiền gửi có thể phát hành
séc. Ở một số nước có công nghệ Ngân hàng phát triển cao, việc rút tiền từ tài
khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc cũng có thể rút tiền một
cách dễ dàng qua các máy rút tiền tự động - ATM.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với khách hàng, khi sử dụng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn việc thanh
toán dễ dàng được xem như là yếu tố quan trọng, còn việc hưởng lãi đối với số vốn
được dùng với mục đích giao dịch chỉ là điều thứ yếu. Do vậy, loại tiền gửi này
được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lãi suất cụ thể. Về phía các
NHTM, có chăng lợi thế là chỉ cần bỏ ra những chi phí về quản lý tài khoản hoặc
trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ). Lợi thế này của Ngân hàng tuy nhiên còn phụ thuộc
vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của Ngân hàng trong việc dự đoán về biến
động trên số dư tiền gửi không kỳ hạn này.
Ở Việt Nam, tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức như:
tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các Tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá
nhân. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng ở Việt Nam còn
quá thấp, để khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua Ngân hàng, các NHTM ở
Việt Nam đã tiến hành trả lãi cho tiền gửi này (có những thời điểm được trả ngang

bằng với lãi suất tiền gửi không kì hạn). Ở các nước phát triển, loại tiền này chiếm
một vị trí tương đối quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM. Chẳng hạn, ở
Mỹ, các tài khoản thuộc loại này chiếm khoảng 30% tiền gửi Ngân hàng. Vì lẽ đó,
để tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán, việc thu hút và giữ khách hàng
được các Ngân hàng rất coi trọng. Có thế kể ra đây một số kinh nghiệm ở Đức như:
quảng cáo, nâng cao uy tín hoạt động, hiện đại hóa và mở rộng cung ứng dịch vụ,
mở rộng phạm vi hoạt động trong và ngoài nước, tạo tiện lợi cho các dịch vụ khách
hàng về thời gian và tốc độ, giảm chi phí bằng cách lấy lợi nhuận từ việc sử dụng số
vốn " tạm thời nhàn rỗi này" để bù đắp cho các khoản lệ phí thanh toán phải thu của
khách hàng
1.2.1.2 Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Ở Mỹ tiền gửi có kỳ hạn chiếm 39% tiền gửi Ngân hàng. Các khoản này chủ
yếu được thể hiện bằng chứng chỉ tiền gửi (CDs – Certificate of Deposits) và được
ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán. Việc rút tiền trước hạn sẽ bị phạt và mức phạt
có thể vượt quá tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền. Nhưng ở Đức, để khắc
phục việc rút vốn trước hạn gây bất lợi cho người gửi tiền, Ngân hàng thường cấp
cho khách hàng cần rút vốn trước hạn một khoản tín dụng mà coi khoản tiền gửi
theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Mức lãi suất đối với các chứng chỉ
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
13
Chuyên đề tốt nghiệp
tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt tùy theo sự lựa chọn của khách hàng và đối
với các chứng chỉ tiền gửi có lãi suất linh hoạt; khách hàng có thể gửi thêm tiền
trước hạn định. Các chứng chỉ tiền gửi đã được đa dạng hóa nhằm đáp ứng sự cạnh
tranh trong huy động vốn của các Ngân hàng. Ví dụ, các chứng chỉ tiền gửi với
mệnh giá cao do Ngân hàng lớn phát hành có thể chuyển nhượng được và chính những
người mua chứng khoán đã tạo ra một thị trường phụ cho các chứng chỉ tiền gửi này. Như
vậy, Ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này đã có
thể dùng vốn đầu vào các trái phiếu Kho bạc hay vào thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ tiền
gửi có khả năng chuyện nhượng tốt này thường được các công ty, các quỹ hưu trí và các tổ

chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn và được giao dịch trên thị trường chứng khoán
thứ cấp, trước hạn định thanh toán.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà
chúng ta vẫn thường gọi là kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích) đã xuất hiện với
các thời hạn 3 tháng, 6 tháng Tuy mới được sử dụng trong vài năm trở lại
đây, song tình hình huy động này đã ngày càng phát huy vai trò trong việc tạo
vốn của các Ngân hàng. Trên thực tế, tỷ trọng huy động vốn bằng hình thức
phát hành kỳ phiếu Ngân hàng cao hơn so với các loại hình huy động khác.
1.2.2 Huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Từ lâu tiền gửi tiết kiệm đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống
của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng
đáng kể trong tiền gửi Ngân hàng (ở Mỹ, tài khoản tiền gửi chiếm khoảng 25%).
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau: Loại không kỳ hạn, loại có kỳ hạn ngắn và
loại có kỳ hạn dài.
1.2.2.1. Tiết kiệm không kỳ hạn
Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản tiền
này, chủ tài khoản có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước. Tuy số
dư tài khoản này thường không lớn, nhưng có ưu điểm hơn so với các tài khoản tiền
gửi giao dịch ở chỗ khác: số dư này ít biến động. Chính vì vậy, đối với loại tiền
này, các NHTM thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Đó là
điều kiện để các NHTM có thể dễ dàng huy động số vốn này.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
14
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2.2 Tiết kiệm có kỳ hạn ngắn
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam. Các NHTM ở Việt Nam
thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ ba tháng đến một năm. Về nguyên tắc, một
khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc và
lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số
NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, nhằm tránh việc

khuyến khích khách hàng rút tiền trước hạn, một phần trong tiền lãi mã khách hàng
được hưởng đã bị khấu trừ (có thể là Ngân hàng chỉ được hưởng một mức lãi suất
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho khoảng thời gian khách hàng gửi tiền).
Tiết kiệm dài hạn: Loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công
nghiệp, nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình tiết
kiệm khác, đối với tài khoản này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thê gửi tiền
vào tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây
là loại hình tiết kiệm mà Ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo các nguồn vốn có tính
ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình.
1.2.3 Huy động vốn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá
1.2.3.1.Huy động vốn qua phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn
Việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa quan trọng
cả trong việc quản lý tài sản Nợ và trong việc tăng nguồn vốn ổn định cho Ngân
hàng khi cần thiết.
Mức lãi được trả cho các chứng chỉ tiền gửi loại này được quy định bằng
cách thỏa thuận trực tiếp giữa Ngân hàng và người gửi tiền hoặc được quy định ở
mức mà người gửi tiền có thể chấp nhận được.
Xuất phát từ thực tế khách quan, những người mua chứng chỉ tiền gửi này rất
nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất. Để huy động được vốn nhằm đáp ứng các
nhu cầu thanh toán hay nhu cầu tín dụng, các NHTM có thể đưa ra mức lãi suất
cao hơn so với chứng chỉ tiền gửi khác (hoặc cũng có thể cao hơn mức lãi suất
của trái phiếu Kho bạc trong điều kiện ở Việt Nam).
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
15
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.2. Huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Ngân
hàng Thương mại
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới
hình thức giấy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong
đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua (hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất

định. Về phía người mua, trái phiếu Ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn
và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua trái phiếu Ngân
hàng.
Thực chất, hình thức tạo vốn nay đã giúp cho các Ngân hàng thương mại
chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn và qua
hình tạo vốn này còn giúp các NHTM tạo vốn một cạnh tranh nhanh chóng.
Theo kinh nghiệm tại Đức, trái phiếu Ngân hàng được phát hành với mức lãi
suất cố định và mức lãi suất này được xác định theo mức lãi suất trên thị trường vốn
tại thời điểm phát hành. Hầu hết các trái phiếu Ngân hàng đều được đưa vào giao
dịch chính thức hay giao dịch tự do ở một hay nhiều sở giao dịch chứng khoán
Đức. Do đó, những người đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng đều có thể thu hồi vốn
vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, điều đó không chỉ tạo điều kiện cho Ngân hàng
trong việc thu hút vốn mà còn thuận lợi kể cả cho khách hàng.
Ngoài ra, kinh nghiệm cho thấy: việc huy động vốn từ trái phiếu khá phổ
biến ở các nước, nó được xuất hiện và phát triển từ các nước Châu Âu trong những
năm 60 của thể kỷ 20 và ngày nay các giao dịch này đã phát triển tới quy mô quốc
tế bao gồm nhiều Ngân hàng và công ty tài chính tham gia. Nghiệp vụ huy động
vốn qua trái phiếu đã đem đến cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao bởi khả
năng " tiêu thụ" các khoản vốn huy động này đã được nhanh chóng chuyển đến các
nước đang "khát vốn" để phát triển nhất là ở Châu Á, Nam Mỹ.
Huy động vốn qua đi vay các Tổ chức Tín dụng và Ngân hàng Trung ương
1.2.3.3 Vay các Tổ chức tín dụng khác trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng
Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các
NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một
biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các Ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn
khác nhau: Vay từ các Tổ chức tín dụng khác.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị

trường liên Ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, các NHTM thường sử
dụng tới hai giải pháp trên trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất : Các Ngân hàng thường chỉ vay Ngân hàng Trung ương khi
không còn giải pháp nào khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn mức tái chiết
khấu, mà qua đó có thể gây sự chú ý của Ngân hàng Trung ương.
- Thứ hai : Khi một khách hàng tốt trả một khoản nợ cũ và yêu cầu vay tiếp
một khoản khác mà bị từ chối vì Ngân hàng đang có khó khăn về vốn, thì có thể
Ngân hàng sẽ mất vĩnh viễn khách hàng đó vào tay đối thủ cạnh tranh.
1.2.3.4 Vay Ngân hàng Trung ương.
Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho vay
cuối cùng, Ngân hàng Trung ương luôn cho các NHTM vay được Ngân hàng Trung
ương sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tùy vào yêu cầu điều tiết của nền
kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hoặc hạ thấp. Các NHTM có thể vay
Ngân hàng Trung ương khi có nhu cầu, nhưng ở hầu hết các nước Ngân hàng
Trung ương đều không cho phép các NHTM lạm dụng khả năng đó bằng các công
cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất tái chiết khấu. Song dù sao, đây cũng là
sâu sau đối với hoạt động huy động vốn nhằm làm tăng gia tăng vốn khẳ dụng trong
kinh doanh của các Ngân hàng thương mai.
1.2.4 Các hình thức huy động vốn khác
Ở đây, NHTM có thể sử dụng để thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các hoạt
động ủy thác về các dịch vụ xã hội: câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè và các kế hoạch
khác được mệnh danh là: “ câu lạc bộ tiết kiệm". Các kế hoạch này được tạo ra để
khuyến khích những người tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại
Ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để
người giữ tiền có thể trang trải được các chi phí cho các dịch vụ trên. Tuy nhiên, để
mở rộng khả năng thu hút vốn này các NHTM còn phải ngừng nâng cao uy tín của
mình trên thương trường, trong đó đặc biệt quan tâm tới phát triển các dịch vụ
Ngân hàng.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
17

Chuyên đề tốt nghiệp
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của NHTM nói
riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh tế và pháp
lý.
1.3.1.1. Môi trường Kinh tế - Xã hội
- Việc huy động và sử dụng vốn của ngân hàng bị các chỉ tiêu kinh tế như
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của thực thể, tốc độ chu chuyển vốn,
tình trạng thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát tác động trực tiếp.
- Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể
khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của NHTM.
- Môi trường văn hóa như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền của dân cư ảnh
hưởng nhiều đến quyết định kinh tế của người có thu nhập về tiêu dùng và tiết kiệm, mức
độ chấp nhận hưởng lãi suất khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định chi số
tiền nhàn rỗi của họ đầu tư vào bất động sản, động sản, chứng khoán để được mức sinh
lời cao hơn
1.3.1.2. Môi trường pháp lý
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác động
bởi nhiều cơ chế quản lý của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương. Thay đổi chính
sách Nhà Nước, của Ngân hàng Trung ương về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất
sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như khả năng thu hút nguồn vốn của
NHTM. Sự ổn định về chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác động đến quan
hệ nguồn vốn của một Ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới.
1.3.1.3. Môi trường Công nghệ thông tin
Khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt buộc
để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong những năm gần đây, nhờ tiến bộ của công
nghệ thông tin, đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến hoạt động
huy động nguồn vốn của Ngân hàng như dịch vụ Ngân hàng tại nhà (Home

banking), máy rút tiền tự động ATM, thư tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử.v.v
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Với những sản phẩm dịch vụ mới, tỷ lệ gửi tiền, thanh toán qua Ngân hàng ngày
càng tăng và đạt tỷ lệ cao.
1.3.1.4. Môi trường cạnh tranh giữa các Ngân hàng
Hoạt động kinh doanh Ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình
Ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Cạnh tranh có xu hướng gia tăng
mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa các NHTM với các tổ chức tài chính phi Ngân hàng.
Khách hàng có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư trực tiếp vào mua chứng khoán của Chính phủ
và công ty. Xu hướng cạnh tranh trong ngành Ngân hàng càng tăng do các yếu tố như
thay đổi chính sách về tài chính - tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, xu hướng chứng khoán hóa.
Trong môi trường ngành Ngân hàng, cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới
nhiều hình thức. Các Ngân hàng có thể áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất
cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do này, các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền
gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài
chính phi Ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn cung cấp các
tài khoản không kỳ hạn. Do cạnh tranh, lãi suất tiền gửi tăng lên trong khi giá dịch
vụ liên quan đến tiền gửi giảm xuống điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh
doanh của các Ngân hàng.
1.3.2 Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1 Chiến lược khách hàng của Ngân hàng về huy động vốn.
Giờ đây, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn Ngân hàng mà theo họ là
thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời lãi suất. Do
đó, các Ngân hàng nhận thấy cần có chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt
động nói chung và trong huy động vốn nói riêng.
 Nghiên cứu khách hàng mục tiêu
Trước tiên, Ngân hàng cần hiểu được động cơ, thói quen và những mong

muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền thông qua
phân tích lợi ích của khách hàng. Mục đích của tiền gửi trên loại tài khoản khác
nhau rất khác nhau như tiền gửi giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có
kỳ hạn để dành tiền tiêu dùng, đầu tư trong tương lai đồng thời hưởng lãi.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Trên cơ sở những thông tin về khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra hệ thống
các chính sách và biện pháp phù hợp để được quy mô và cơ cấu nguồn vốn mong
muốn. Hệ thống các chính sách đáp ứng và gợi mở nhu cầu liên quan đến huy động
vốn bao gồm:
 Chiến lược phát triển sản phẩm
Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của Ngân hàng.
Nhóm chính sách này nhằm vào việc đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung cấp
và chất lượng của chứng như: Chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịch vụ liên quan
đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán.
Những năm gần đây các Ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện và
đổi mới nâng cáo chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường đồng
thời mở rộng phát triển dịch vụ mới.
 Chính sách lãi suất
Các chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và chi phí dịch vụ
được coi là giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tài chính Ngân hàng sử dụng hệ
thống lãi suất tiền gửi và thay đổi qui mô công cụ quan trọng trong việc huy động
tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn Ngân
hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những ưu đãi về giá cho những
khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên.
 Phát triển cơ sở vật chất & mạng lưới chi nhánh
Chính sách về tổ chức - kỹ thuật: Đây là chính sách và biện pháp nhằm làm
thuận lợi, nhanh chóng, đơn giản trong quan hệ với khách hàng. Bao gồm việc bố
trí mạng lưới thu hút vốn, hoàn thiện công nghệ Ngân hàng, cơ chế tài chính đồng

thời tổ chức thông suốt hệ thống thanh toán sao cho nhanh chóng, an toàn, chính
xác. Cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong các nguồn lực để Ngân hàng hoạt động có
hiệu quả. Đó là mạng lưới chi nhánh, các điểm giao dịch với đặc thù vị trí, hệ thống
thông tin và thiết bị khác.
 Phong cách giao dịch
Chính sách trong phục vụ và giao tiếp: Các chính sách này được NHTM rất
quan tâm nhằm tạo, củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với khách hàng
truyền thống và hấp dẫn khách hàng mới. Trong điều kiện khó khăn có thể duy trì
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
20
Chuyên đề tốt nghiệp
sự khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay, chất lượng dịch vụ khách hàng trở
thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút nguồn vốn. Thái độ phục
vụ thân thiện để giữ khách hàng hiện có và thu hút thêm khách hàng mới.
 Các nhân tố khác
Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Ngân hàng phải dự đoán thay đổi của
môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến lược
phát triển quy mô và điều chỉnh cơ cấu là một bộ phận quan trọng.
Quy mô vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn có thể đóng vai trò cái đệm
chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo lòng tin của khách
hàng đối với Ngân hàng cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của quy mô
nguồn vốn.
Tài sản vô hình: Tài sản vô hình quan trọng nhất của Ngân hàng là uy tín của
nó trong hệ thống, của các thành viên trong Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc.
Thuộc nhóm này phải kể đến các quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập được với các
khách hàng hiện có, khách hàng tiềm năng, các trung gian tài chính và các cơ quan
Nhà Nước.
Tính chất sở hữu của Ngân hàng: Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc
đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính, chiến lược kinh doanh từ đó ảnh
hưởng đến hoạt động huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn.

Tóm lại : Nghiên cứu các thành phần, cơ cấu NV đối với hoạt động kinh
doanh của NHTM, các phương thức huy động vốn và các nhân tố ảnh hưởng đến
quy mô cơ cấu nguồn vốn. Những nội dung này làm sáng tỏ lý luận liên quan đến
hoạt động về nguồn vốn của ngân và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, giúp
chúng ta có một cơ sở lý luận rõ ràng để đi sâu phân tích thực trạng nguồn vốn và
hoạt động huy động vốn của NHTM nói chung, của NHNo Yên Phong nói riêng, để
từ đó có thể đưa ra những giải pháp phù hợp với mục đích nghiên cứu nhằm phục
vụ phát triển kinh tế theo đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
21
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIÊP HUYỆN YÊN PHONG TỈNH BĂC NINH
2.1 Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và̀ tình hình phát triển Kinh tế
- Xã hội trên tỉnh Bắc Ninh
2.1.1 Khái quát về vai trò của NHNo Yên Phong đối với sự phát triển kinh
tế trên địa bàn
NHNo Huyện Yên Phong là một ngân hàng cấp 2 chi nhánh trực thuộc NHNo
tỉnh Bắc Ninh nằm trong hệ thống NHNo Việt Nam, được thành lập vào ngày
15/10/1988. Đặc biệt NHNo huyện Yên Phong còn được đặt tại trung tâm của huyện đó
là thị trấn Chờ, thuận lợi cho quá trình giao dịch của NH. Ngoài ra chi nhánh còn có 1
ngân hàng cấp 3 cũng đang hoạt động đó là Ngân hàng liên xã Vạn An. Sau quá trình
phát triển ổn định, đến nay Ngân hàng có tổng số cán bộ là 39 người thuộc biên chế
nhà nước.
Với nhiệm vụ chủ yếu là huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn, đặc biệt là trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đồng thời thực hiện các nghiệp vụ Ngân
* Về nguồn vốn: Tổng nguồn vốn trên địa bàn huyện là: 445.116 triệu.
* Về sử dụng vốn: Tổng dư nợ tín dụng thương mại trên địa bàn thời điểm

31/12/2009 là: 418.790 triệu đồng.
Qua số liệu trên cho thấy NHNo Huyện Yên Phong là đơn vị hoạt động có
tác động lớn đến phát triển kinh tế trên địa bàn. Biết kế thừa phát triển và trưởng
thành, trong việc khơi tăng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các Tổ chức kinh tế
để đầu tư phát triển, với phương châm "đi vay để cho vay”, NHNo Huyện Yên
Phong đã hướng mạnh hoạt động kinh doanh của mình vào phục vụ sản xuất kinh
doanh trên địa bàn, đặc biệt là phục vụ sự phát triển của nông nghiệp nông thôn và
nông dân , coi nông dân là "người bạn đồng hành của mình trên con đường cùng
phát triển. Vì vậy, trong thời gian qua Ngân hàng đã góp phần rất lớn cho sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội ở Huyện Yên Phong cụ thể, đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân được cải thiện, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chuyển biến mạnh mẽ, đi dần
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
22
Chuyên đề tốt nghiệp
vào sản xuất hàng hóa, mở rông phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn
bước đầu được phục hồi và phát triển góp phần làm chuyển dịch căn bản cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn, có lợi thế xuất khẩu, phong trào chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi, thâm canh tăng vụ chuyển biến mạnh các mô hình đầu tư trồng
trọt chăn nuôi giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghệ mới trong nông nghiệp, Quan hệ sản xuất được đổi mới theo
hướng xây dựng nền công nghiệp hóa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, kết
cấu hạ tầng Kinh tế- Xã hội nông thôn được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, môi trường sinh thái được cải thiện một bước góp phần
quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của huyện.
Nghị quyết Đảng bộ huyện khoá XX đã đề ra thời kỳ 2007 – 2010 là: “Phát
huy cao độ sức mạnh tổng hợp của Đảng bộ và nhân dân trong huyện, tiếp tục đổi
mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Phát triển kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Phát huy tối đa nội lực,
khai thác cao nhất các nguồn lực từ bên ngoài, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn

cho đầu tư phát triển ” Với chức năng của mình NHNo Yên Phong xây dựng
chương trình hành động cho từng giai đoạn cụ thể để tập trung huy động mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cũng như tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài để cho
vay phát triển kinh tế theo mục tiêu Đại Hội đã đề ra.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp
Huyện Yên Phong
NHNo huyện Yên Phong là một NHTM hoạt động độc lập trên địa bàn
Huyện với 13 xã và một thị trấn. Trước những năm 2002 nền kinh tế huyện còn gặp
nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn bất cập, giao thương các xã trong Huyện gặp
không ít khó khăn. Vì vậy mô hình tổ chức hoạt động của Ngân Hàng nông nghiệp
cũng phải vươn dài và tiếp cận tới các xã và vùng sâu vùng xa biên chế trên 40 cán
bộ viên chức với 2 Phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh Huyện.
Trong những năm gần đây huyện Yên Phong đã được nhà nước và chính phủ
quan tâm xác định là một trong những huyện trọng điểm của Tỉnh Bắc Ninh về tiềm
năng phát triển kinh tế, tương lai ổn định đời sống dân sinh. Mở rộng và nâng cấp
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
23
Chuyên đề tốt nghiệp
hạ tầng cơ sở rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn .Quán triệt những
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện, NHNo Huyện Yên Phong cũng có
những bước chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, trên cơ sở giảm bớt chi phí,
tính gọn về bộ máy tổ chức biên chế. Nâng cao chất lượng phục vụ trên cơ sở đào
tạo cán bộ chuyên sâu và hoạt động đa năng trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh
Ngân hàng . Vì vậy ngân hàng Huyện Yên Phong hiện tại chỉ một chi nhánh hoạt
động độc lập với 27 cán bộ công nhân viên chức gồm Ban Giám Đốc NH Huyện ,
ba phòng nghiệp vụ chính là phòng kế toán ngân quỹ, phòng tín dụng tổng hợp và
tổ hành chính kiểm tra kiểm toán nội bộ. Đến 31/12/2009 biên chế chính thức của
chi nhánh gồm 27 cán bộ, trình độ Cao Đẳng và Đại Học chiếm 70%. Trong đó:
Lực lượng phòng kinh doanh tổng hợp:13 cán bộ chiếm 48,85%, kế toán ngân quỹ:
9 cán bộ chiếm 33,33% Tổ hành chính và ban lãnh đạo: 5 cán bộ chiếm 18,52%.

Sơ đồ tổ chức NHNo Huyện Yên Phong
2.1.3 Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Yên
Phong
NHNo Huyện Yên Phong là một đơn vị hạch toán phụ thuộc, trực thuộc
NHNo Tỉnh Bắc Ninh, của hệ thống NHNo VN, hoạt động kinh doanh đa năng về
tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng trên địa bàn nhằm phát triển KT-XH, góp
phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Để tồn tại, phát triển và
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
24
Ban Giám đốc
Phó giám đốc 1
Phó giám đốc 2
Phó giám đốc 3
NHC3
Vạn An
Phòng tín
dụng
Phòng hành
chính
Phòng kế
toán – Ngân quỹ
Chuyên đề tốt nghiệp
không ngừng vươn lên trong cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn,
NHNo Huyện Yên Phong đã thực thi các chính sách tiền tệ - tín dụng và các dịch vụ
Ngân hàng một cách linh hoạt và có hiệu quả.
2.1.3.1 Khái quát hoạt động huy động vốn
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng tổng nguồn vốn giai đoạn 2007-2009
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 - 2009
Nhìn vào biểu đồ ta thấy tăng vốn trong các năm của Chi nhánh tăng, tăng
bình quân là 27,85%/năm. Tổng nguồn vốn tính đến ngày 31/12/2009 đạt 445.116

triệu đồng. Với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên của Chi nhánh Tổng nguồn
vốn NHNo huyện Yên Phong tăng trưởng tương đối tốt qua các năm. Thể hiện
một dấu hiệu an toàn, một quyền độc lập nhất định của Ngân Hàng.
Nguyễn Thị Thanh Hương Lớp NHG – CD24
285.873
357.076
445.116
0
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
2007 2008 2009
25
Đơn vị: Triệu đồng

×