Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

GiảI pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP công thương VIệt Nam chi nhánh Hoàng Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.1 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào quá trình toàn cầu hoá, nền kinh tế Việt Nam trong những
năm gần đây đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Hoà chung với sự
biến đổi của cả nước, ngành ngân hàng đang tự khẳng định vị thế của mình
đối với công cuộc phát triển đất nước. Sau gần hai thập kỷ đổi mới, hệ thống
ngân hàng nước ta đã tạo lập được những cơ sở vững chắc để tiếp tục thể
hiện vai trò quan trọng, cống hiến vào sự nghiệp chung của đất nước. Tuy
nhiên, so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới, trình độ ngân hàng
nước ta chỉ ở mức trung bình, hoạt động còn đơn điệu, công nghệ vẫn còn
lạc hậu, giao dịch thủ công, chưa đồng bộ, khó liên kết với các ngân hàng
khác.
Để có thể tồn tại và phát triển, các NHTM phải lựa chọn cho mình con
đường phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương hiệu, nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình. Một trong những phương pháp tốt nhất giải
quyết vấn đề của mình trong bối cảnh hiện nay là các NHTM phải nâng cao
hiệu quả huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất
nước.
Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến
chuyển mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển
cũng như thách thức khó khăn cần vượt qua. Các NHTM nói chung và
NHTMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàng Mai (viết tắt là chi
nhánh NHCT Hoàng Mai) nói riêng luôn ý thức được nhiệm vụ của mình.
Công tác huy động vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động vốn luôn được đặt
lên hàng đầu.
Sau một thời gian được thực tập và nghiên cứu tại NHCT Hoàng Mai,
nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển của
1
ngân hàng và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện
nay, em đã chọn đề tài nghiên cứu "Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàng Mai ".
Đề tài có kết cấu gồm 3 phần:


Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Công
Thương Việt Nam chi nhánh Hoàng Mai
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP
Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàng Mai
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỂ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng - một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Việc
tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được
quan tâm hàng đầu không chỉ với lợi ích riêng của bản thân các ngân hàng
mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế.
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo
lập, huy động được để cho vay đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
Nguồn vốn NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu, nguồn tiền gửi, nguồn đi vay
và các nguồn khác.
1.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
lên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng cũng như yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Để phân biệt với các khoản tiền của các chủ thể khác mà ngân hàng đang
nắm giữ, chủ ngân hàng gọi vốn mình ứng ra trong kinh doanh là vốn tự có.
Với chức năng trung gian tài chính, chủ ngân hàng không ngừng mở
rộng huy động tiền của các chủ thể khác để đầu tư, do vậy, dần dần vốn của
chủ ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn. Tuy chiếm tỷ

trọng nhỏ, song vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng, góp phần xác định
quy mô và cơ cấu của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư,
đặc biệt là trung và dài hạn cũng như tạo ra trang thiết bị và công nghệ ngân
3
hàng hiện đại. Sau đây là các bộ phận cấu thành vốn chủ sở hữu của ngân
hàng:
1.1.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu: Là vốn chủ sở hữu hình thành khi
ngân hàng bắt đầu hoạt động.
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn
ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì ngân sách
Nhà nước cấp. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua
mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp.
Ngân hàng tư nhân do cá nhân ứng ra.
Vốn chủ sở hữu ban đầu phải tuân thủ các quy định của nhà chức
trách tiền tệ. Trong các quy định đó thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn
pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có khi bắt đầu hoạt động. Vốn pháp
định có thể được quy định cho từng loại ngân hàng trong từng điều kiện cụ
thể.
Vốn chủ sở hữu không hoàn toàn phải trả. Chủ ngân hàng có thể tăng,
giảm hoặc thay đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu, quyết định chính sách phân phối
lợi nhuận.
1.1.1.2. Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Nó thường bao gồm:
Lợi nhuận tích luỹ, cổ phần phát hành thêm trong quá trình hoạt động, các
quỹ, thặng dư vốn…
Nguồn từ lợi nhuận: Đối với các ngân hàng cổ phần, lợi nhuận sau
thuế sau khi bù trừ các khoản chi phí đặc biệt, thường được chia làm hai
phần: Một phần chia cho các cổ đông theo giá trị các cổ phần và phần bổ
sung vào vốn chủ sở hữu dưới tên gọi là “lợi nhuận tích luỹ lại”. Phần này

về bản chất là thuộc sở hữu của các cổ đông, song được vốn hoá nhằm mở
4
rộng quy mô của vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của
chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Thông thường những ngân hàng
hoạt động lâu năm, lợi nhuận tích luỹ có thể rất lớn. Đối với NHTM thuộc
sở hữu Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ đi thua lỗ (năm trước) và
các chi phí đặc biệt, được trích bổ sung vốn chủ sở hữu theo quy định của
Nhà nước. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng trong điều lệ hoạt động của mình
đều quy định mức vốn điều lệ (tối thiểu bằng vốn pháp định), và thường
xuyên bổ sung vốn điều lệ bằng trích từ lợi nhuận.
Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp
ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do NHNN quy định… Đặc điểm của hình
thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng lượng
vốn chủ sở hữu lớn hơn khi cần. Ngoài ra, trong những trường hợp cần duy
trì thị giá cổ phiếu, hoặc duy trì quyền lãnh đạo của những cổ đông quan
trọng, ngân hàng có thể mua lại một số cổ phiếu đã phát hành hoặc tăng tỷ lệ
lợi nhuận chia cho cổ phiếu.
1.1.1.3. Các quỹ
Mỗi ngân hàng thường có nhiều quỹ, trong đó mỗi quỹ có mục đích hoạt
động riêng.
Trước tiên phải kể đến là quỹ dự phòng tổn thất. Kinh doanh của ngân
hàng luôn gắn liền với rủi ro. Nhiều tài sản của ngân hàng đã sinh lời một
thời gian, sau đó có thể bị tổn thất. Do vậy, các ngân hàng đều trích lập các
khoản dự trữ nhằm bù đắp tổn thất (nếu có) hình thành lên quỹ dự phòng tổn
thất. Quỹ này được trích lập hàng năm. Nếu tổn thất thực của ngân hàng nhỏ
hơn số trích lập, vốn chủ sở hữu sẽ gia tăng và ngược lại.
Tiếp đến là quỹ bảo toàn vốn: Trong môi trường lạm phát, vốn chủ sở
hữu bì giảm giá. Để bảo toàn giá trị, các ngân hàng có thể trích lập quỹ bảo
5

toàn vốn tính theo tỷ lệ lạm phát. Quỹ này làm gia tăng quy mô vốn chủ sở
hữu.
Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn
hơn mệnh giá. Khi ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu mới, phần chênh lệch
giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu được ghi lại dưới tên gọi là thặng dư vốn.
Do giá trị các tài sản và nợ của ngân hàng thường xuyên thay đổi theo
giá trị thị trường, đặc biệt là các chứng khoán và bất động sản. Mặc dù chưa
bán nhưng ngân hàng thường xuyên đánh giá lại chúng theo giá trị thị
trường. Những chênh lệch do đánh giá lại được đưa vào quỹ đánh giá lại.
Quỹ này thường xuyên biến động gắn liền với thay đổi thị giá, cho phép các
nhà quản lý có thể đánh giá giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu.
Ngoài ra, ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế
như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ nghiên cứu phát triển
sản phẩm mới… Phần lớn các quỹ này được sử dụng trong kỳ.
Tóm lại các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng và
nguồn hình thành các quỹ này từ chính thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên
khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục
đích sử dụng quỹ.
1.1.1.4. Cổ phần ưu đãi có thời hạn và giấy nợ có khả năng chuyển đổi
thành cổ phiếu
Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn và các khoản vay
dài hạn bằng giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ phiếu cũng thuộc vốn chủ
sở hữu mặc dù chúng mang tính chất của một khoản nợ. Việc gia tăng loại
vốn này có nhiều ưu điểm đối với quản lý ngân hàng như không làm thay
đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức…
1.1.2. Nguồn tiền gửi
6
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động thì nghiệp vụ đầu tiên là mở
các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng. Đối tượng

khách hàng chính là các doanh nghiệp các tổ chức và các hộ dân cư.
Do tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn tiền của ngân hàng, nên các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều
hình thức huy động khác nhau, để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao.
1.1.2.1. Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch)
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được thực hiện. Đồng thời, các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào
tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp, thay vào đó, chủ tài
khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng với thủ
tục rất đơn giản, đó là ngân hàng chỉ yêu cầu khách hàng phải có tiền và
ngân hàng sẽ thanh toán trong phạm vi số dư tiền gửi của khách hàng. Ngoài
ra, một số ngân hàng có thể kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài
khoản cho vay (thấu chi - chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh
toán).
1.1.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song
lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng
đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Khách hàng sẽ không được sử dụng
các hình thức thanh toán như đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu,
7
khách hàng phải đến ngân hàng rút tiền. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng
bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi
suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
1.1.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Hầu như các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa

sử dụng, trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể
gửi tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm
đó. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm hơn từ dân cư, các ngân
hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp
dẫn. Theo đó, ngân hàng có thể mở cho mỗi khách hàng nhiều chương, mục
tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không
dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu
được ngân hàng cho phép.
1.1.2.4. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, các
NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác, tuy nhiên quy mô nguồn tiền này
thường không lớn.
Như vậy có thể thấy đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được
thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa
đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh
khoản của ngân hàng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng
năm của các ngân hàng.
8
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo
hiểm cho tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến
động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác.
1.1.3. Nguồn đi vay
Mặc dù tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM song khi cần,
các ngân hàng có thể vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân hàng Trung
ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn vốn huy động và vốn của chủ. Do
vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để

đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
NHTM có thế vay theo các phương thức sau:
1.1.3.1. Vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Ngoài ra, trong trường hợp thiếu hụt dự trữ NHTM cũng thường
vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc
tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết
khấu) trở thành tài sản của ngân hàng. Khi cần tiền, ngân hàng mang những
thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương
phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN) tăng
lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ và NHTM phải thực
hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường NHNN
chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và phù hợp với
mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương
phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín
dụng nhất định
1.1.3.2. Vay các TCTD khác
9
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD
khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu
cầu sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.
Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức
thời để đảm bảo thanh khoản. Do vậy, có thể thấy nguồn vay mượn từ các
ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, mặt khác
trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực
tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản vay có
thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng chứng khoán của kho bạc.
Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay
tăng lên.

1.1.3.3. Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn
bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu
nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho
vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung
cho các khoản tiền gửi sẽ góp phần đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư
trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những
ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn.
Ngược lại các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này
cho nên họ thường có xu hướng vay thông qua các ngân hàng đại lý được
bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên, khả năng vay mượn còn phụ
thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển
đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ mượn tương đối
phức tạp, ngân hàng cần nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để quyết định quy
mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp.
10
Ngân hàng có thể đi bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng các nguồn
này có đặc điểm chung là: Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn
thường thấp hơn nguồn tiền gửi, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán
buôn.
Các khoản đi vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do
vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng.
Khác với nhận tiền gửi ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường
xuyên mà ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết và ngân hàng hoàn toàn chủ động
quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền
gửi.
Do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho
tiền gửi cùng kỳ hạn.
1.1.3.4. Các nguồn khác

Loại này bao gồm: Nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các
nguồn khác
Nguồn uỷ thác: NHTM thường thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ
thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng và làm tăng vốn của
ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền quỹ
để mở L/C…). Ngoài ra, những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng
tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực
hiện cho vay cũng tạo nên một nguồn trong thanh toán của ngân hàng.
Các nguồn khác: Các khoản nợ khác của ngân hàng như thuế chưa
nộp, lương chưa trả.
11
Đặc điểm của các nguồn khác: Phần lớn các nguồn này ngân hàng
không phải trả lãi. Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là đáng kể. Và
nhìn chungm các nguồn khác trong ngân hàng thường thường không lớn.
Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân
hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại
hình dịch vụ khác.
1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Hoạt động huy động vốn của NHTM là hoạt động tạo vốn từ việc
nhận tiền gửi của các tổ chức, các cá nhân, từ hoạt động thanh toán, uỷ thác
hoặc từ việc phát hành các giấy tờ có giá để phục vụ cho hoạt động sử dụng
vốn của ngân hàng.
1.2.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn của ngân hàng
Xuất phát từ vai trò vốn của ngân hàng đối với nền kinh tế và đối với
bản thân ngân hàng ta có thể nhận thấy được sự cần thiết của hoạt động huy
động vốn của ngân hàng.
1.2.1.1. Đối với nền kinh tế

Vốn, đặc biệt là vốn đầu tư là tiền đề của sự tăng trưởng kinh tế - xã
hội bởi tất cả các cá nhân, các TCKT muốn thực hiện các hoạt động kinh tế
cũng như triển khai các dự án nhằm phát triển sản xuất kinh doanh đều cần
phải có vốn đầu tư. Mặc dù, hiện nay, trên thị trường có nhiều kênh huy
động tạo vốn cho nền kinh tế nhưng huy động vốn qua NHTM vẫn đóng vai
trò chủ đạo vì vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển còn có phần
hạn chế. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, các
doanh nghiệp muốn làm ăn có hiệu quả phải không ngừng đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng tốt, giá thành rẻ
để có thể đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
12
Không phải doanh nghiệp nào cũng có nguồn vốn đủ lớn để thực hiện được
điều này vì vậy vay vốn ngân hàng là một trong những cách làm đơn giản,
tiết kiệm chi phí và lượng vốn huy động được lớn. Nhờ vậy, doanh nghiệp
có đủ lượng vốn cần thiết để đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc… từ
đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Mặt khác, khi vay vốn của ngân hàng, các doanh nghiệp chịu áp lực trả nợ
và chịu sự giám sát của ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay nên các doanh
nghiệp phải thực hiện dự án đầu tư có lãi và thực hiện tốt chế độ hạch toán
kinh tế.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng góp phần tiết kiệm chi phí xã
hội. Thực tế, người cho vay không phải lúc nào cũng tìm kiếm được người
có nhu cầu vay vốn một cách dễ dàng, hơn nữa họ có thể không nắm rõ được
tình hình tài chính và khả năng trả nợ của bên vay nên đưa ra quyết định cho
vay là rất khó khăn. Ngược lại, những người cần vốn đôi khi khó khăn trong
việc tìm kiếm nguồn vốn, đặc biệt những nguồn vốn đầu tư cho dự án với
quy mô lớn trong thời gian nhất định. Việc huy động vốn của ngân hàng đã
giải quyết được vấn đề này. Ngân hàng đã tiến hành huy động toàn bộ các
khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, từ đó tích tụ và tập trung vốn biến tiết
kiệm thành đầu tư, tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho xã hội. Mặt khác, do

có quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong xã hội nên ngân
hàng nắm bắt được thông tin về tình hình tài chính, huy động kinh doanh của
các đối tượng này nên có thể hạn chế được những rủi ro trong cho vay.
Nguồn vốn ngân hàng góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thông qua khuyến khích, mở rộng cho vay
phát triển hay hạn chế đầu tư vào một số ngành nghề nào đó, từ đó làm thay
đổi cơ cấu ngành kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, huy động vốn của ngân
hàng cũng là một trong những biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ quốc
13
gia. Khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát cao, các ngân hàng thực hiện nâng
cao lãi suất huy động thu hút tiền gửi, từ đó làm giảm lượng tiền mặt trong
lưu thông góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Đồng thời, nguồn vốn
ngân hàng cũng là nguồn bù đắp cho sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà
nước. Khi ngân sách nhà nước tạm thời bị thiếu hụt thì các giải pháp có thể
thực hiện đó là vay nợ hoặc phát hành thêm tiền nhưng như thế sẽ tạo ra áp
lực trả nợ hay áp lực lạm phát gây ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế.
Do vậy, biện pháp tốt nhất để tránh tình trạng này là Chính phủ sẽ vay nợ
ngân hàng thông qua bán các công cụ nợ như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
kho bạc cho ngân hàng…
1.2.1.2. Đối với NHTM: Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo tiền đề và
quyết định đến sự tồn tại, phát triển của ngân hàng
Vốn huy động quyết định cơ cấu vốn sử dụng của ngân hàng. Trong
cơ cấu vốn của ngân hàng, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất, quyết định
quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Một ngân
hàng có nguồn vốn dồi dào, quy mô lớn có thể mở rộng quy mô hoạt động
cho vay, đầu tư. Ngược lại, khi quy mô nguồn vốn của ngân hàng nhỏ sẽ dẫn
tới quy mô hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng sẽ hạn chế. Nếu ngân hàng
huy động được nguồn vốn trung và dài hạn lớn thì có thể mở rộng tín dụng
và đầu tư dài hạn trong khi đó, nếu ngân hàng chủ yếu huy động được nguồn
vốn ngắn hạn thì hoạt động tín dụng và đầu tư dài hạn chỉ chiếm một phần

nhỏ trong cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Hoạt động kinh
doanh của ngân hàng có được mở rộng và đa dạng hoá hay không phụ thuộc
vào khả năng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Các ngân hàng có nguồn
vốn lớn sẽ thực hiện triển khai được nhiều hình thức dịch vụ cả truyền thống
lẫn hiện đại, do đó ngân hàng không chỉ đơn thuần tiến hành các huy động
14
cho vay mà còn thực hiện liên doanh, liên kết, cho thuê tài chính, bảo lãnh
Hiện nay, các ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng sự đa dạng và chất lượng
của các loại hình dịch vụ ngân hàng cung cấp. Ngoài ra, với nguồn vốn huy
động đa dạng, ngân hàng còn có thể điều chỉnh mức chi phí bình quân đầu
vào để có thể giảm lãi suất cho vay đầu ra, chủ động về thời gian cho vay và
thực hiện áp dụng lãi suất một cách linh hoạt đối với từng đối tượng khách
hàng, tạo ra lợi thế cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác.
Như vậy, vốn huy động đảm bảo khả năng thanh toán chi trả của ngân
hàng đồng thời cho phép ngân hàng đáp ứng được mọi nhu cầu của khách
hàng như thanh toán, vay mượn… ngân hàng sẽ tạo được niềm tin đối với
khách hàng, uy tín ngân hàng ngày càng được khẳng định và củng cố. Có thể
nói, hoạt động huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng
trong hoạt động kinh doanh, đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
cũng như của xã hội. Do đó, các ngân hàng luôn chú trọng phát triển và đa
dạng hoá các hình thức huy động vốn nhằm tạo ra nguồn vốn phong phú, dồi
dào, cơ cấu hợp lý đối với từng ngân hàng.
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM
1.2.2.1. Theo đối tượng huy động
* Vốn huy động từ dân cư: Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu
nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng nhằm
mụch đích tiết kiệm, kiếm lời và để thanh toán. Đây là nguồn vốn có tiềm
năng lớn và khá ổn định đối với ngân hàng. Nguồn vốn này rất đa dạng, vì
nó có thể được huy động dưới nhiều hình thức nhằm phục vụ mục tiêu phát

triển của ngân hàng. Tiền gửi của dân cư gồm hai loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của
ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi sẽ được ngân hàng giao cho một
sổ tiết kiệm, trong thời gian gửi tiền, sổ tiết kiệm có thể được dùng để cầm
15
cố hoặc chiết khấu để vay vốn ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm: Tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn với các kỳ hạn
khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán: Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và
được pháp luật cho phép thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Khi đó, họ sẽ
được mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng và gửi tiền vào đó để
đáp ứng các nhu cầu thanh toán và sử dụng các tiện ích khác có liên quan
của ngân hàng.
Trên thực tế, tiền gửi của dân cư luôn chiếm một tỷ trọng khá lớn
trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này, các
ngân hàng luôn luôn chú trọng đến việc đa dạng hoá các hình thức huy động
với lãi suất hợp lý.
* Vốn huy động từ các TCKT , các TCTD.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các TCKT thường có một bộ
phận vốn nhàn rỗi tạm thời như: Khấu hao đã trích nhưng chưa đến lúc sử
dụng, tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên vật liệu, trả lương, các quỹ
đầu tư phát triển, quỹ phúc lợi, khen thưởng, đã trích nhưng chưa sử dụng
đến … Để đảm bảo an toàn tài sản, đồng thời vẫn sinh lời, các TCKT có thể
gửi số vốn đó vào ngân hàng. Mặt khác, để thuận tiện cho quá trình sử dụng
vốn, đơn vị có thể thanh toán qua ngân hàng và sử dụng các dịch vụ ngân
hàng khác. Khi đó, họ cần phải gửi vốn vào ngân hàng. TCKT có thể gửi
vốn vào ngân hàng dưới nhiều hình thức: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi
có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau, đồng thời ngân hàng sẽ mở cho các đơn
vị các tài khoản tương ứng để thuận tiện trong việc sử dụng.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút tiền

ra bất cứ lúc nào và ngân hàng luôn có nghĩa vụ phải thoả mãn các nhu cầu
đó, loại tiền gửi này có mục đích chính là thanh toán. Mặc dù, việc gửi và rút
16
có thể thực hiện vào bất cứ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước nhưng
trên thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian, và số lượng giữa việc gửi và
rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi không kỳ
hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gửi này
rất thấp, thậm chí có thể bằng không. Cho nên nguồn vốn này giúp cho ngân
hàng huy động được giá rẻ từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho
vay và đầu tư.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút
tiền. Về nguyên tắc, người gửi chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã thoả thuận,
tuy nhiên trên thực tế, các ngân hàng thường cho phép rút tiền trước thời hạn
nhằm thu hút loại tiền gửi này được nhiều hơn.
Nguồn vốn này có độ ổn định cao, ngân hàng chủ động trong quá
trình sử dụng. Vì vậy, để có thể thu hút nhiều hơn loại tiền gửi này, các ngân
hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn
nhàn rỗi ở các đơn vị. Mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo
nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.
NHTM có thể huy động vốn bằng hình thức đi vay các NHTM khác
và các TCTD. Loại vốn này lãi suất có lúc cao hơn lãi suất từ các nguồn tiền
gửi hay huy động từ dân cư. Tuy nhiên, có cũng rất cần thiết để đáp ứng nhu
cầu dự trữ, chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay
thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng TW. Các ngân hàng có thể vay mượn
mà không cần phải có tài sản đảm bảo.
* Vốn huy động khác:
Đây là những nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được khi thực hiện
chức năng làm trung gian thanh toán hoặc làm đại lý, tiếp nhận vốn tài trợ
uỷ thác đầu tư.
17

Vốn trong thanh toán được tạo lập từ các khoản mở thư tín dụng, tài
khoản bảo lãnh… mà chưa đến hạn thanh toán, thực hiện nghiệp vụ đại lý,
tiếp nhận vốn tài trợ uỷ thác đầu tư, khi đó, NHTM cũng tạo lập được một
lượng nguồn vốn nhất định.
1.2.2.2. Theo phương thức huy động
* Vốn huy động qua tiền gửi.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM. Đó là nguồn vốn quan trọng để ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Ngân
hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi khác nhau và mỗi công cụ huy
động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng. Để gia
tăng lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh, các ngân hàng đã đưa ra
nhiều hình thức huy động khác nhau:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút
ra bất cứ lúc nào để đáp ứng nhu cầu sử dụng, ngân hàng phải có trách
nhiệm thoả mãn nhu cầu đó ngay cả khi ngân hàng đang gặp khó khăn về
vốn… Tuy nhiên, với nghiệp vụ này cả khách hàng và ngân hàng cùng có
lợi. Về phía khách hàng, nhờ gửi tiền vào ngân hàng không những cất trữ
được khoản tiền nhàn rỗi của mình được an toàn mà còn thu được lãi tiền
gửi, khi cần có thể rút bất kỳ lúc nào và được thực hiện các dịch vụ tiện lợi
của ngân hàng như thanh toán bằng chuyển khoản. Còn đối với ngân hàng,
tiền gửi thanh toán như một khoản nợ mà ngân hàng sẽ phải trả cho khách
hàng gửi tiền vào bất cứ lúc nào họ yêu cầu. Ngân hàng có thể sử dụng loại
tiền gửi thanh toán này để cho vay, tuy nhiên việc cho vay phải có mức độ,
phải có dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời, đầy đủ các yêu cầu của khách hàng và
chấp hành quy định của NHNN.
18
- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân
hàng có sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng về lãi suất tiền gửi và
thời hạn rút tiền. Thông thường, ngân hàng quy định khách hàng không

được rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, do áp lực cạnh tranh hiện nay, các ngân
hàng vẫn phải chấp nhận cho khách hàng rút ra trước hạn khi đó người gửi
sẽ hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất đã thoả thuận ban đầu hoặc chịu một mức
phạt nhất định tuỳ thuộc vào chính sách huy động vốn của ngân hàng và loại
tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định và ngân hàng có
thể sử dụng loại tiền gửi này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh.
Do đó, để khuyến khích khách hàng gửi tiền, các ngân hàng đưa ra nhiều
loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Với
mỗi kỳ hạn, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc:
kỳ hạn càng dài thì mức lãi suất càng cao và với nhiều điều khoản hấp dẫn
khách hàng để tạo ra sự khác biệt.
- Tiền gửi tiết kiệm: Là hình thức huy động truyền thống của ngân
hàng. Khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền được nhận sổ tiết kiệm, đó
là chứng từ đảm bảo tiền gửi, là giấy chứng nhận khách hàng đã gửi tiền vào
ngân hàng và họ có thể dùng sổ tiết kiệm đó để cầm cố vay vốn ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư cũng có hai loại đó là: Tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền tiết kiệm mà khách
hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho
ngân hàng với mục tiêu nhờ ngân hàng giữ hộ là chủ yếu. Với tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn, ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền lãi suất bằng lãi
suất tiền gửi thanh toán . Nguồn vốn này mang lại cho ngân hàng nguồn lợi
19
cao hơn vì lãi suất thấp, tuy vậy, nguồn vốn này không ổn định mà thường
xuyên biến động.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là nguồn vốn mang tính ổn định
cao nên ngân hàng rất chú trọng huy động theo hình thức này.
* Vốn huy động qua phát hành giấy tờ có giá.
- Trái phiếu ngân hàng: Là một trong những công cụ vay nợ dài hạn

trên thị trường vốn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử
dụng, do đó nó cho phép ngân hàng có được lượng vốn dài hạn để thực hiện
các dự án đầu tư dài hạn. Tuy vậy, lãi suất lại phụ thuộc vào thời gian huy
động trái phiếu, thời gian huy động càng dài, lãi suất huy động càng cao và
ngược lại.
- Kỳ phiếu ngân hàng: Là hình thức huy động vốn có ưu thế hơn so
với trái phiếu vì có kỳ hạn ngắn hơn và có thường có lãi suất cao hơn lãi suất
tiết kiệm. Nó được sử dụng tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của vốn ngân
hàng. Đây là công cụ có tính lỏng cao, dễ chuyển nhượng thành tiền mặt khi
cần cho nên nó được các nhà đầu tư rất ưa thích.
- Chứng chỉ tiền gửi: Là một giấy biên nhận có hưởng lãI, xác nhận về
khoản vốn gửi tại ngân hàng. Khi NHTM phát hành chứng chỉ tiền gửi nhằm
vay tiền mặt trên thị trường, chứng chỉ là giấy xác nhận khoản vay này. Như
thế, nó chính là phiếu ghi nợ hay phiếu vay tiền do các NHTM phát hành.
Trước đây, lãi suất của chứng chỉ tiền gửi là cố định, hiện nay các chứng
khoán này mang lãi suất thoả thuận, tức là nó có thể thay đổi theo điều kiện
của thị trường. Đây cũng được coi như một loại tiền gửi của khách hàng
nhưng khác ở chỗ nó chỉ có thể đổi thành tiền khi đến hạn, nên nó tạo ra cho
ngân hàng một nguồn vốn khá ổn định, giúp ngân hàng chủ động hơn trong
kinh doanh. Chứng chỉ này trở thành một loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất
đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình, vì nó được chấp nhận sử dụng
20
như séc hay tiền mặt mà có lãi suất, trong khi séc và tiền mặt không được
hưởng lãi suất.
1.2.2.3. Theo thời gian huy động
Việc phân loại vốn theo thời gian huy động có thể giúp cho ngân hàng
chủ động được hoạt động tín dụng của mình. Tuỳ theo kỳ hạn tương ứng mà
ngân hàng có thể đề ra các giải pháp cụ thể để diều chỉnh nguồn vốn của
mình.
- Vốn huy động ngắn hạn: Là những khoản tiền huy động có thời hạn

dưới 1 năm. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng có thể chia
nhỏ từng kỳ hạn thành các nguồn 3, 6, 9, 12 tháng với các mức lãi suất phù
hợp. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn
huy động của ngân hàng.
- Vốn huy động trung hạn: Để phục vụ cho các khoản vay trung hạn,
các NHTM đã tạo ra các sản phẩm với các kỳ hạn từ 1 đến 5 năm. Do thời
gian huy động khá dài cho nên nguồn này không được nhiều sự ưa chuộng
của khách hàng. Vì nguồn vốn này đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của mình, cho nên ngân hàng cần phải thực hiện tốt các
giải pháp để thu hút được nhiều nguồn này.
- Vốn huy động dài hạn: Là những khoản tiền mà ngân hàng huy động
có thời hạn từ 5 năm trở lên, được dùng cho các dự án đầu tư dài hạn mang
tính khả thi. Đây là nguồn vốn ổn định mà ngân hàng huy động nhưng các
ngân hàng cũng phải trả mức lãi suất cao hơn cho những khoản vốn này.
1.2.2.4. Theo loại tiền huy động
21
Vốn huy động bằng VNĐ: Ngân hàng huy động vốn bằng VNĐ thông
qua tất cả các hình thức huy động khác nhau. Trong tổng nguồn vốn ngân
hàng huy động được thì nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm tỷ trọng cao,
đáp ứng các nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng.
Vốn huy động bằng ngoại tệ: Ngoài huy động bằng VNĐ, ngân hàng
cũng tiến hành huy động vốn bằng ngoại tệ, nếu quy quy ra VNĐ cũng
chiếm tỷ trọng khá lớn trong hoạt động của ngân hàng. Mục đích huy động
vốn bằng ngoại tệ của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế
cùng như các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của khách hàng hay của ngân
hàng.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NHTM
1.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.1.1. Môi trường kinh tế xã hội

Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của
NHTM nói riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường
kinh tế xã hội.
Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, lạm phát được duy trì ở mức cho
phép, thu nhập của các tổ chức, cá nhân cao, các cá nhân và tổ chức có nhu
cầu gửi tiền thực hiện hoạt động thanh toán, vay mượn để thực hiện hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do vậy, thị trường huy động của ngân hàng được
mở rộng kéo theo đó các huy động cho vay, đầu tư của ngân hàng cũng được
mở rộng.
Ngược lại, khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao,sức mua của đồng nội
tệ giảm xuống, việc huy động vốn của các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang
các ngân hàng khác, nhiều ngân hàng phải nâng lãi suất huy động, thậm chí
22
có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, làm cho kinh
doanh của ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho
cả hệ thống NHTM. Do lãi suất huy động tăng cao, kéo theo lãi suất cho vay
cũng tăng cao, điều này dẫn đến ngày càng ít các doanh nghiệp vay vốn, làm
cản trở đến việc kinh doanh của ngân hàng. Lạm phát cao, không ít doanh
nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hoá, thanh toán trực tiếp cho
nhau bằng tiền mặt, làm cho khối lượng tiền trong lưu thông ngoài ngân
hàng ngày càng tăng, các ngân hàng phải thu hẹp huy động vốn. Bên cạnh
đó, do sức mua của đồng nội tệ giảm, việc huy động vốn trung và dài hạn sẽ
trở lên khó khăn, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của khách hàng
rất lớn, vì vậy sẽ xảy ra tình trạng các ngân hàng dùng vốn ngắn hạn để cho
vay trung và dài hạn, điều này ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân
hàng nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi. Như
vậy, lạm phát tăng cao đã làm suy yếu thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM mà trước tiên đó là hoạt động huy
động vốn.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường tài chính ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Thị trường liên
ngân hàng phát triển cho phép các ngân hàng dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn từ
các TCTD khác, các ngân hàng có thể cho vay khi thừa vốn và huy động
được một cách kịp thời khi thiếu vốn, nhằm đảm vốn cho hoạt động kinh
doanh, nâng cao hiệu quả huy động vốn. Thị trường vốn phát triển cũng là
kênh huy động quan trọng, thị trường này tạo ra nguồn vốn dài hạn, ổn định
góp phần khắc phục tình trạng khan hiếm vốn trung và dài hạn phục vụ cho
nhu cầu cho vay đầu tư trung và dài hạn của ngân hàng. Như vậy, thị trường
tài chính giúp ngân hàng có được cơ cấu vốn huy động phù hợp, đáp ứng
23
được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng hay nói cách khác giúp ngân hàng
nâng cao hiệu quả huy động vốn.
1.3.1.2. Các yếu tố cạnh tranh
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng có sự tham gia của
nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Cạnh
tranh diễn ra ngày một mạnh mẽ và khốc liệt. Cạnh tranh về huy động tiền
gửi diễn ra dưới nhiều hình thức, các ngân hàng có thể áp dụng những điều
kiện khác nhau cho từng nhóm hoặc từng đối tượng khách hàng. Nhờ vậy,
các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi phát triển và được phổ biến
nhanh chóng. Cạnh tranh làm thay đổi biện pháp và kế hoạch thực hiện hoạt
động huy động vốn của các ngân hàng đồng thời làm thay đổi thị phần huy
động vốn trên thị trường.
1.3.1.3. Chính sách pháp luật của Nhà nước
Mọi đối tượng kinh doanh trong xã hội đều chịu sự quản lý của nhà
nước và hoạt động tuân theo pháp luật. Do vai trò và sự ảnh hưởng to lớn
của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế quốc gia mà NHTM là đối
tượng chịu sự kiểm soát đặc biệt trong hoạt động của mình. Trong từng giai
đoạn cụ thể, ngân hàng phải tuân theo những quy định về lãi suất, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng được cấp, số vốn tối đa được huy động, các

quy định về chỉ số an toàn… Pháp luật luôn thay đổi và hoạt động của ngân
hàng cũng thường xuyên phải đổi mới để thích ứng. Bên cạnh đó, hoạt động
của ngân hàng liên quan đến rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nên cũng
phải tuân thủ quy định khi đầu tư và liên kết với các ngành này. Nhìn chung,
môi trường pháp lý mạnh, thông thoáng là nhân tố thúc đẩy và tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả cho các hoạt động của NHTM
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Quy mô của ngân hàng
24
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng dóng vai trò như đệm đỡ chống lại rủi
ro phá sản và những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ của ngân hàng. Nó
chính là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
Như vậy, nếu một ngân hàng có nguồn vốn tự có lớn, khách hàng sẽ tin
tưởng khi giao phó các khoản tiền của họ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn
chủ sở hữu cũng quyết định quy mô nguồn vốn của ngân hàng, theo quy
định của ngân hàng Trung Ương, các NHTM chỉ được phép huy động ở một
tỷ lệ nhất định so với vốn chủ sở hữu. Nghĩa là, một ngân hàng có vốn chủ
sở hữu nhỏ thì quy mô nguồn vốn huy động của nó sẽ thấp và ngược lại,
điều này gây bất lợi cho các ngân hàng có vốn chủ sở hữu nhỏ đã huy động
tới giới hạn tối đa, khi có thêm cơ hội đầu tư và cho vay họ không được
phép huy động thêm vốn nữa.
Mạng lưới chi nhánh ngân hàng cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
tới hiệu quả huy động vốn. Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng, hệ
thống các phòng giao dịch với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, thuận tiện
cho việc giao dịch. Đặc biệt nếu được phát triển ở những khu đô thị lớn,
đông đúc dân cư sẽ tăng thêm khả năng tiếp xúc của ngân hàng với khách
hàng, khi đó ngân hàng dễ triển khai các hoạt động huy động và sử dụng vốn
đến khách hàng làm tăng khả năng huy động vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên,
việc mở rộng chi nhánh và các quầy giao dịch cũng làm tăng chi phí cho
hoạt động huy động vốn. Vì vậy, ngân hàng nên cân nhắc, tính toán kỹ khi

tiến hành mở thêm chi nhánh hay phòng giao dịch mới.
1.3.2.2. Uy tín của ngân hàng
Uy tín của ngân hàng đối với khách hàng chính là lòng tin của khách
hàng vào ngân hàng. Nó được đánh giá dựa trên khả năng hoàn trả vốn vay
cho khách hàng một cách đúng hạn, đảm bảo sự an toàn về nguồn vốn cho
25

×