Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Địa vị pháp lý của Chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.35 KB, 8 trang )

NỘI DUNG
I/. Khái quát chung.
1. Địa vị pháp lý của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam. Điều 109, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Như
vậy, vị trí của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1992 là sự trở về với quy định của Hiến pháp 1959,
theo đó Chính phủ có hai vị tri sau:
Thứ nhất, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tính phụ thuộc của Chính phủ vào
Quốc hội xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta là
nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất” mà quyền lực lại tập trung cao nhất ở Quốc hội, do
vậy Chính phủ trước hết là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với tư
cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực
hiện pháp luật và nghị quyết của Quốc hội. Đối với các đạo luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành,
Chính phủ có nhiệm vụ phải chấp hành chứ không có quyền phủ quyết như Chính phủ một số nước
trên thế giới.
Thứ hai, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. So với Hiến pháp năm 1980
thì Hiến pháp năm 1992 đã xác lập vị thế mới cho Chính phủ (là chủ thể tối cao của quyền hành
pháp). Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nên Chính phủ có toàn quyền để quản
lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động hành chính của quốc gia.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ.
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
Chính phủ Việt Nam có chức năng chủ yếu là: “Thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của
bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và
pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo
đảm sự phát triển ổn định và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân” (khoản 2 Điều 109 Hiến
pháp năm 1992). Những chức năng này là cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
một cách hợp lý trong chương II Luật Tổ chức Chính phủ.
Vì hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ có phạm vi rất rộng, bao trùm lên tất cả mọi hoạt
động của đời sống xã hội nên nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trải rộng trên tất cả các ngành


quản lý: khoa học, công nghệ và môi trường; văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và du lịch; y tế
và xã hội, dân tộc và tôn giáo;… Cụ thể, Chính phủ có quyền trình dự án luật, pháp lệnh và các dự
án khác ra trước Quốc hội và UBTVQH; quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính
dưới cấp tỉnh và quan trọng nhất là quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ,…
Nhìn chung, Hiến pháp năm 1992 đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
một cách cụ thể và khá chi tiết. Tuy nhiên, chính việc quy định thẩm quyền theo kiểu liệt kê trong
từng lĩnh vực của Chính phủ sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ
nhất là trong những lĩnh vực mới phát sinh.
3. Hình thức hoạt động của Chính phủ
1
Hiện nay Chính phủ hoạt động dựa trên ba hình thức chủ yếu sau: Phiên họp Chính phủ; hoạt
động lãnh đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động của các thành viên Chính phủ. Căn
cứ vào các hình thức hoạt động có thể thấy phương thức hoạt động của Chính phủ đã được triển
khai tích cực dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ chế độ làm việc tập thể của Chính phủ với việc tăng
cường vaii trò chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và nâng cao trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực được giao phụ trách.
II/. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
1. Tổ chức của Chính phủ.
1.1. Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ.
Theo quy định tại Điều 2, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ
gồm có các Bộ và các cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý đối với ngành công tác trong
phạm vi cả nước
1
. Trước Hiến pháp năm 1992, các Bộ được thành lập theo hướng quản lý đơn
ngành nên hệ thống cơ quan hành chính nhà nước rất cồng kềnh (HĐBT theo quy định của Hiến
pháp năm 1980 có 28 Bộ và 26 cơ quan thuộc HĐBT) thì nay cơ cấu Chính phủ đã được kiện toàn
theo hướng thành lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực vì thế số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ đã được giảm đi đáng kể. (Nhiệm kì 2007 - 2011, chỉ còn 22 Bộ, cơ quan
ngang Bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ). Sự xắp xếp lại tổ chức của Chính phủ đã làm cho bộ máy

tổ chức của Chính phủ tinh gọn hơn và tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô giúp Chính phủ hoạt
động hiệu quả hơn. Tuy nhiên so với thực tiễn hoạt động của mình thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ
vẫn chưa thực sự phù hợp, gọn nhẹ.
Để đảm bảo cho tổ chức của Chính phủ được gọn nhẹ, việc điều hành của Chính phủ được tập
trung, thống nhất cần tiếp tục giảm số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Cụ thể:
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo hướng đa ngành, đa lĩnh
vực, hợp nhất các Bộ có chức năng giống nhau và gần giống nhau, tăng cường các Bộ chức năng,
giảm bớt các Bộ quản lý ngành và lập các Bộ quản lý đa ngành.
- Giảm đầu mối quản lý của Chính phủ theo hướng ngoài các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, nên
để rất ít các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và sự nghiệp trực thuộc Chính phủ.
1.2 Về thành phần của Chính phủ
Điều 3, Luật Tổ chức Chính phủ quy định thành phần của Chính phủ gồm có Thủ tướng Chính
phủ, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
Thứ nhất, xét vị trí, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 là người đứng đầu Chính phủ, lãnh đạo, điều
hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Chính phủ. Việc đổi tên cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước ta là Chính phủ và người đứng đầu là Thủ tướng khẳng định sự tăng cường
mạnh mẽ vị trí, vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Nếu như ở Hiến pháp năm 1980, Chính phủ
được gọi là Hội đồng Bộ trưởng, còn người đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thể hiện cách
tổ chức và hoạt động của Chính phủ kiểu hội đồng (tập thể), thì nay với cơ chế Chính phủ - Thủ
tướng Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ có nhiều quyền hạn hơn.
HĐBT theo Hiến pháp năm 1980 là cơ quan được Quốc hội bầu ra từ chủ tịch HĐBT đến tất cả
các thành viên khác còn Chính phủ theo Hiến pháp năm 1992 lại được bầu ra theo trình tự mới:
“Quốc hội bầu, miễn nhiệm, cách chức thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các thành viên
1
Quốc hội quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và cơ qun ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ
2
khác của Chính phủ” (khoản 7, điều 84; khoản3, điều 103; khoản 2, điều 114). Như vậy, theo Hiến
pháp năm 1992, vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được đề cao hơn đồng thời trách nhiệm của các

thành viên đối với Thủ tướng Chính phủ cũng được tăng cường.
Thứ hai, xét vấn đề số lượng Phó Thủ tướng trong thành phần của Chính phủ
Hiến pháp năm 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất và là chủ thể cơ bản thực hiện quyền hành pháp. Để tăng cường vai trò của
Thủ tướng, một mặt trao đầy đủ về cơ bản quyền hạn cho Thủ tướng. Mặt khác, Hiến pháp quy định
“phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng
vắng mặt thì một phó Thủ tướng được Thủ tướng uỷ quyền thay mặt lãnh đạo công tác của Chính
phủ ”(đoạn 3, Điều 110). Một điểm lưu ý là hiện nay trong thành phần của Chính phủ Việt Nam, số
lượng Phó thủ tướng là tương đối nhiều, mặc dù đã giảm hơn so với giai đoạn trước Hiến pháp năm
1992. Cụ thể, Chính phủ trong nhiệm kỳ 2002-2007 có 3 Phó Thủ tướng, đến nhiệm kỳ 2007-2011
thì tiếp tục tăng lên với con số 5 Phó Thủ tướng. Việc có quá nhiều Phó Thủ tướng trong cơ cấu
thành phần của Chính phủ, một mặt làm tăng đầu mối quản lý trong Chính phủ, mặt khác làm giảm
vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng và ngay cả vai trò, trách nhiệm của Bộ trưởng trong lĩnh vực
ngành được giao cũng không được phát huy đầy đủ. Vì vậy, giảm số lượng Phó thủ tướng để đề cao
vị trí của Thủ tướng và đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được tập trung, thống nhất là
phương hướng cơ bản được đặt ra hiện nay, có thể chỉ cần 2 hoặc 3 Phó thủ tướng là đủ.
Thứ ba, xét vấn đề kiêm nhiệm Bộ trưởng.
Theo Hiến pháp năm 1992, các thành viên của Chính phủ có sự thay đổi so với trước ( Hiến pháp
1980), Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính phủ không
nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội” (Điều 110). Chế định này hợp lý ở chỗ: Một là chức năng lập
pháp và giám sát sẽ tách dần khỏi chức năng hành pháp, tạo cơ sở cho sự phân công rành mạch hơn
giữa cơ quan lập pháp và hành pháp; hai là giúp cho việc tăng cường hoạt động chuyên trách của đại
biểu Quốc hội. Tuy nhiên trên thực tế, số lượng các thành viên Chính phủ và người đứng đầu các cơ
quan của Chính phủ là đại biểu Quốc hội vẫn còn tương đối nhiều. Vì vậy, để tạo cho các vị Bộ
trưởng có thời gian và tâm sức tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ của mình đồng thời để giảm
bớt sự lẫn lộn trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp thì thiết nghĩ Hiến pháp nên quy định
các thành viên khác của Chính phủ không được kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
Có ý kiến cho rằng, nếu các vị Bộ trưởng không là đại biểu Quốc hội thì việc kiểm tra, giám sát
Bộ trưởng đó hạn chế hơn.Thực ra việc Quốc hội giám sát thành viên của Chính phủ như thế nào
phụ thuộc nhiều vào việc pháp luật định ra cho Quốc hội những phương tiện, công cụ giám sát như

thế nào và Quốc hội có thực sự muốn kiểm tra, giám sát hay không?.
Thứ ba, xét năng lực của đội ngũ công chức nhà nước làm việc trong Chính phủ.
Trong thành phần của Chính phủ hiện nay vẫn còn tồn tại một số công chức kém năng lực, có
biểu hiện về sự vô trách nhiệm, quan liêu, cửa quyền, lối làm việc thủ công, không khoa học, không
đủ tư cách đạo đức, không qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nhưng vẫn được hoạt động trong
Chính phủ (số lượng này là rất ít).
Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do việc thiếu quan tâm đến đào tạo đội ngũ công
chức, hoặc đào tạo đối phó dẫn đến một đội ngũ công chức kém năng lực và hoạt động của Chính
phủ cũng không thật sự hiệu quả. Vì vậy, làm sạch đội ngũ công chức, chính quy hoá đội ngũ công
chức đang là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết của Chính phủ. Đội ngũ công chức hoạt động trong
Chính phủ phải có đủ phẩm chất chính trị, có đủ năng lực và kỹ năng thực sự, được đào tạo và sắp
3
xếp thành một hệ thống đồng bộ, vừa đảm bảo về mặt chính trị, vừa đảm bảo về mặt chuyên môn,
nghiệp vụ. Muốn làm được điều này, cần quy định: các chức vụ quản lý nhà nước chỉ được bổ nhệm
nếu đã qua đào tạo, có văn bằng, chứng chỉ nhất định; có phẩm chất chính trị, đạo đức; hiểu biết
pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng, bổ nhiệm nhất thiết phải qua
thi tuyển, lấy trình độ và năng lực làm tiêu chí chủ yếu.
2. Hoạt động của Chính phủ.
Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Hiệu quả hoạt động của Chính phủ được đảm bảo
bằng hiệu quả hoạt động của tập thể Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên
Chính phủ”. Theo đó, Chính phủ hoạt động dựa trên ba hình thức chủ yếu sau: Phiên họp Chính phủ
do Thủ tướng chủ toạ; hoạt động lãnh đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động của
các thành viên Chính phủ.
2.1. Hoạt động của Chính phủ thông qua phiên họp Chính phủ.
Phiên họp Chính phủ một trong những hình thức hoạt động của Chính phủ. Chính phủ họp
thường kỳ mỗi tháng một lần. Ngoài ra có thể họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng hoặc
theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên Chính phủ. Thành viên có trách nhiệm tham dự đầy
đủ các phiên họp, nếu vắng mặt trong phiên họp hoặc trong một thời gian của phiên họp thì phải
được Thủ tướng đồng ý. Thủ tướng có thể cho phép thành viên vắng mặt được cử người phó của
mình dự phiên họp Chính phủ. Ngoài các thành viên của Chính phủ, Chính phủ mời Chủ tịch nước

và có thể mời Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao, Chủ tịch Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam, Chủ
tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức đoàn thể khác tham dự các
phiên họp của Chính phủ khi bàn về vấn đề có liên quan. Các đại biểu được mời không phải là thành
viên của Chính phủ có thể phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết. Thủ tướng Chính phủ
chủ tọa các phiên họp của Chính phủ.
Tại phiên họp, Chính phủ thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn như: Chương trình hoạt động hằng năm của Chính phủ, các dự án luật, pháp lệnh và các
dự án khác trình Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
kinh tế xã hội ngắn hạn và dài hạn, các công trình quan trọng, dự toán ngân sách nhà nước; chính
sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, các đề án trình
Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh,
quyết định cơ cấu các cơ quan thuộc Chính phủ, các báo cáo trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước. Các quyết định của Chính phủ tại phiên họp được thể hiện dưới các
hình thức nghị quyết và nghị định. “Nghị quyết của phiên họp Chính phủ phải được quá nửa tổng số
thành viên Chính phủ tán thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến
mà Thủ tướng đã quyết định” (Điều 135, Luật tổ chức Chính phủ).
Thông qua cách thức và nội dung hoạt động của Chính phủ trong phiên họp, ta thấy được một số
điểm hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, Chính phủ chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của từng thành viên và trách
nhiệm của tập thể Chính phủ trong hoạt động của mình
Hiến pháp năm 1992 quy định "Những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính Phủ phải
được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số" (Điều 115, khoản2). Cụ thể đó là các hoạt động:
Quyết định chương trình hoạt động hàng năm của chính phủ, các chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội, dự toán kế hoạch dài hạn, dự toán quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm,... Nhưng Điều 110
4
lại quy định: " Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, Chủ tịch nước". Hai quy định tại Điều 115 và Điều 110 mâu
thuẫn với nhau bởi lẽ: Nếu các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ được giải quyết thông qua
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số thì chính tập thể Chính phủ chứ không phải mình cá nhân

Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Còn nếu quy định Thủ tướng chịu trách nhiệm
trước Quốc hội thì việc giải quyết các vấn đề quan trọng của Chính phủ, Thủ tướng phải là người
quyết định cuối cùng.
Ngoài ra, quy định "những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ phải được thảo
luận và quyết định theo đa số" là chưa thực sự hợp lý vì nó có khả năng làm lu mờ vai trò chỉ đạo,
điều hành trong các hoạt động của Thủ tướng Chính phủ. Để khắc phục điều này, cần quán triệt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, nên coi các cuộc bàn bạc
của Chính phủ chỉ là phương tiện để đạt được sự thống nhất về tư tưởng, còn Thủ tướng Chính phủ
phải là người quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về quyết định này.
Tóm lại, để đảm bảo cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân của từng thành viên Chính phủ và trách
nhiệm tập thể của Chính phủ thì Chính phủ cần tăng cường số lượng và chất lượng các phiên họp
của Chính phủ, bên cạnh đó cần có sự phân công rõ ràng trách nhiệm giữa các thành viên Chính phủ.
Thứ hai, Chính phủ chưa khẳng định được vị trí của mình trong quá trình xây dựng luật.
Chúng ta đều biết phương thức quản lý của bộ máy nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng
chủ yếu là theo luật, bằng luật. Đây là lĩnh vực thể hiện một cách trực tiếp nhất, cơ bản nhất bản
chất của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên trong nhiều năm qua, các văn bản luật của chúng ta còn
lạc hậu, tính hệ thống kém.
Chính phủ về cơ bản dùng quyền lập quy thay cho luật để quản lý, điều hành nền kinh tế-xã hội
đất nước. Nhờ hoạt động lập quy này mà làm cho Chính phủ khác với các cơ quan hành chính nhà
nước cấp dưới và cơ quan tư pháp. Tuy nhiên số lượng văn bản quy phạm pháp luật mà Chính phủ
ban hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Số liệu thống kê cho thấy, “chỉ tính đến
tháng 7 năm 2004, vẫn còn thiếu khoảng trên 100 văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
hướng dẫn thi hành nhằm cụ thể hóa tất cả các luật, pháp lệnh được ban hành từ Quốc hội khóa X
đến nay”
2
. Tình trạng chậm ban hành các văn bản cụ thể để đảm bảo thi hành luật và pháp lệnh vẫn
còn tồn tại. Tình trạng nội dung văn bản hoặc chưa sát yêu cầu thực tế cuộc sống hoặc còn có sự
chồng chéo, mâu thuẫn với nhau và với văn bản chính còn phổ biến… Nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng này là do sự hạn chế trong năng lực lập quy của Chính phủ, công tác điều hành của Chính
phủ còn nhiều hạn chế và ngoài ra còn do hoạt động tập thể của Chính phủ (hoạt động trong phiên

họp) chưa thực sự hiệu quả. Vấn đề khắc phục cần được coi trọng bởi đây là hoạt động rất quan
trọng của Chính phủ và ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành, quản lý đất nước.
Mặc dù Hiến pháp mới quy định trong phiên họp, Chính phủ có quyền trình các dự án luật và các
dự án khác trước Quốc hội và UBTVQH (Điều 87; khoản 3, Điều 112) nhưng thực tế hiện nay cho
thấy: Chính phủ nước ta vẫn chưa tìm được một vị trí thoả đáng trong quá trình xây dựng các dự
luật. Các dự luật, pháp lệnh đã được chuẩn bị kĩ hơn trước song dường như Chính phủ vẫn chưa
giành đủ thời gian cho công tác chuẩn bị và thông qua các dự luật, pháp lệnh, chưa tạo được sự
thống nhất cao trong kỳ họp nên khi trình ra các Uỷ ban của Quốc hội vẫn còn tình trạng thành viên
Chính phủ có ý kiến khác nhau.
2
Trần Ngọc Đường và Ngô Đức Mạnh (2008), Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5

×