Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn phương pháp liên môn ngữ văn trong dạy học lịch sử trường thcs phong điền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.3 KB, 15 trang )

PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU:
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong hệ thống giáo dục ở trường trung học cơ sở, môn lòch sử có vai
trò quan trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ về kiến thức văn hoá, tư
tưởng chính trò, phẩm chất đạo đức và năng lực hành động.
Nếu văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để
càng yêu quý hơn con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua môn học lòch
sử các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của một đất nước, một
dân tộc mà rộng hơn là cả một xã hội loài người, bên cạnh đó nó góp phần
quan trọng trong việc hình thành bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan
khoa học.
Mặt dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục
thế hệ trẻ nhưng hiện nay việc dạy học lòch sử chưa hoàn thành tốt vai trò
của mình và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn lòch
sử, xem nhẹ môn lòch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt,
thiếu chính xác, thiếu hệ thống.
Vì vậy làm thế nào để tạo cho học sinh hứng thú học lòch sử, phát
huy tích cực xây dựng bài, kích thích sự tìm hiểu khám phá về kiến thức…
Thiết nghó có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến xoay quanh
vấn đề trên, vậy trong khuôn khổ bài viết nhỏ này tôi xin trình bày một
vài suy nghó trong việc xây dựng hứng thú học tập lòch sử cho học sinh
bằng cách vận dụng, lồng ghép kiến thức văn học vào bài giảng.
II. Phạm vi triển khai thực hiện:
Nghiên cứu vận dụng lồng ghép kiến thức văn học vào trong giảng
dạy bộ môn lòch sử tạo nên hứng thú trong học tập của học sinh đối với
môn lòch sử lớp 6, 7, 8, 9, và từ đó đưa ra phương pháp hỗ trợ nhằm kích
thích sự hứng thú trong học tập ở các em.
PHẦN B. NỘI DUNG:
I. Cơ sở lí luận:
Trong thực tế, giảng dạy lòch sử là môn học có kiến thức liên môn,
song có lẽ có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau


nhiều nhất là mối quan hệ giữa lòch sử và văn học. Trước hết lòch sử đề
cập đến nhiều lónh vực khác nhau của cuộc sống cho nên việc lồng ghép
kiến thức văn học vào trong giờ dạy lòch sử là điều không thể thiếu được.
Nếu như văn học thường mô tả những sự kiện bằng hình tượng thì lòch sử
tái tạo lại quá khứ bằng những con số , sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động
rất lớn đến nhận thức của học sinh. Đã có không ít tác phẩm văn học từ
bản thân nó là một tư liệu lòch sử như “HỊCH TƯỚNG SĨ”; “CÁO BÌNH
NGÔ”; HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”… là những minh chứng hùng
hồn cho mối quan hệ tương đồng giữa lòch sử và văn học.
II.Thực trạng, ngun nhân
1.Thực trạng
Qua đặc điểm tình hình như vậy chúng tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu
về phía học sinh.Cụ thể tôi đã phát câu hỏi đến tận học sinh để cho các
em phát biểu cảm nghó của mình thế nào.
Nội dung câu hỏi:
? Em có cảm nhận như thế nào khi học môn lòch sử?
p dụng cho tất cả các lớp, khối:
Với số lượng 167 học sinh.
Khi tổng hợp thì có kết quả như sau :
+ 60% học sinh cho rằng Lòch sử là môn học bổ ích nhưng khô khan,
thiếu sinh động, quá nhiều mốc thời gian - khó nhớ.
+ 40% học sinh thích học môn lòch sử.
Qua thực tế chúng tôi nhận thấy rằng sự mâu thuẩn giữa nhận thức là
môn học bổ ích cho kiến thức người học nhưng các em lại không thích
học.
2. Nguyên nhân:
Trong thực tế không ít giáo viên đang còn quá rập khuôn trong bài
giảng nên dẫn đến sự khô khan và thiếu sinh động. Mặc khác, việc tích
cực chủ động và tìm tòi tài liệu Lòch sử ở học sinh còn hạn chế, các em
chưa biết vận dụng mốc thời điểm lòch sử với xu hướng chung, tình hình

văn hoá xã hội.
Như vậy, về chủ quan mà nói trong thực tiễn giảng dạy , sự đầu tư tìm
tòi mọi nguồn tài liệu để phục vụ cho bài giảng của người giáo viên còn
hạn chế và thường cho rằng trách nhiệm môn nào thì đào sâu môn đó với
tính chất nguyên tắc chủ quan. Bởi thế khi dạy chỉ nghó làm sao nói và
truyền tải hết nội dung, sự kiện là coi như bài giảng đã hoàn chỉnh.
III. GIẢI PHÁP:
Trong giảng dạy bộ môn lòch sử, người giáo viên đóng vai trò quan
trọng trong việc làm sống lại các sự kiện lòch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa
vào những kiến thức trong SGK thì khó có thể tạo dựng lại không khí lòch
sử cần thiết. Để thu hút các em đi sâu tìm hiểu khám phá quá khứ của dân
tộc tạo nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng
kiến thức văn học vào giảng dạy lòch sử là điều cần thiết góp phần làm
cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn , nâng cao hứng thú học tập
của các em.
Chẳn hạn khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân pháp xâm lược kết thúc” (Lòch sử 9 phần II) sau khi khái quát về
kết quả của chiến dòch Điện Biên Phủ tôi đã trích dẫn thơ của Tố Hữu:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt máu trộn bùn
non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Hoặc đoạn thơ.
“….Chiều 7/5 một chiều hè lịch sử Tướng Đờcát xin hàng
Bố kể chuyện Điện Biên Bốt đồn đều san phẳng
Bộ đội mình chiến thắng Cờ quyết chiến quyết thắng
Lũ tây bị bắt sống Tung bay trên nóc hầm…”
Ta giải đi từng đàn
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dòch mà còn khắc sâu sự kiện
ngày chiến thắng Điện biên phủ, hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên
nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, tôi nhận thấy

rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều
này có ý nghóa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công
lao của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê
hương đất nước trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghóa chiến thắng của Điện Biên Phủ tôi trích hai câu
thơ:
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Cũng bằng phương pháp trên tôi áp dụng trong bài “Chiến thắng
Chi Lăng – Xương Giang” lòch sử 7. Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng –
Xương Giang tôi trích dẫn trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn
Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…
Bò ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ
mật…”
Không khí rất sôi nổi, thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú
với các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên dẫn
chứng tiêu biểu.
Dạy bài “Tổng khởi nghóa tháng Tám năm 1945” (sử 9) tôi nhấn
mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghóa đang lan rộng ra
khắp các đòa phương trong toàn quốc bằng một đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghóa chính quyền về tay…”
Khi trình bày về dự đốn thời cơ của Bác Hồ giáo viên nên sử dụng tác phẩm

“Lịch sử nước ta” của Bác Hồ viết năm 1941 bằng thơ lục bát và trích đọc
đoạn
“…nay ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo dân mình đấu tranh
45, sự nghiệp hồn thành…”
Học sinh rất chú ý lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã
khái quát được không khí trong cuộc khởi nghóa khi liên tưởng đến những
sự kiện mình đang học bằng hình ảnh đồng thời còn giúp các em đánh giá
đúng về vai trò của quần chúng nhân dân những người làm nên lòch sử –
Là động lực chính đưa cách mạng đến thành công.
Đồng thời qua đoạn thơ này để giáo dục cho học sinh thấy tầm nhìn
chiến lược của Bác trong việc dự đóan thời cơ cách mạng, qua đó giúp cho
học sinh thấy được vai trò của Bác trong của cách mạng tháng Tám 1945.
Hay khi giảng về sự kiện ngày 2/9/1945 Bác Hồ đọc tun ngơn độc lập
ngồi việc kết hợp cho học sinh xem tranh, video, giáo viên nên trích đọc một
đoạn thơ
“Hơm nay sáng 2/9 Người đứng trên đài lặng phút giây
Thủ đơ hoa vàng nắng Ba Đình Trơng đàn em bé vẫy hai tay
Mn triệu tim, chờ chim cũng đến Cao cao vàng trán ngời đơi mắt
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình Độc lập bây giờ mới thấy đây”.
Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh!
Khi đọc trích đoạn này ngồi việc tái hiện lại sự kiện ngày 2/9, về
khơng gian, thời gian, địa điểm, khơng khí hân hoang của nhân dân thủ đơ,
còn hướng cho các em tìm hiểu về ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng tháng
Tám 1945.
Khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến từ 1858 – 1873” (sử 8) mô tả về
hoàn cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của
nhà Nguyễn và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kỳ.
Chúng tôi trích dẫn thơ của Nguyễn Đình Chiểu bài “ Chạy tây” và bài
“Văn Tế Nghóa Sỹ Cần Giuộc”:

“ Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
trong tay cầm một ngọn tầm vông chư nài, sắm dao tu nón gõ
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay chém rớt đầu quan hai nọ…”
Học sinh có ngay những hình dung về phong trào đấu tranh của nhân
dân ta lúc bấy giờ.
Chẳng hạn khi dạy bài “Phong trào kháng Pháp trong những năm
cuối thế kỷ XIX” (sử 8) ta có thể đặt câu hỏi: Trong văn học các em thấy
có tác phẩm nào đề cập đến bối cảnh đất nước giai đoạn này? Bằng các ý
trả lời của học sinh chúng ta đi vào khái quát tình hình đất nước trên cơ sở
các kiến thức lòch sử đã học.
Khi dạy về hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành lịch
sử lớp 8 bài 30: giáo viên đọc một đoạn thơ trong bài thơ “Người đi tìm hình
của nước”
Đất nước đẹp vơ cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tơi làm con sóng dưới thân tàu đưa tiễn Bác…
Hay trích đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu
“ Kể từ đó Người đi những bước đầu tiên
Lênh đênh bốn biển một con tàu
Cuộc đời sóng gió trong than bụi
Tay đốt lò, lau chảo, thái rau…”
Qua 4 câu thơ trên giúp các em hình dung rõ hơn về cách đi: đi bằng lao
động vất vả hình dung được những cơng việc mà người thanh niên Nguyễn
Tất Thành (Nguyễn Văn Ba) phải làm của một người phụ bếp trên con tàu
Latussơtêrenvin.
Hoặc khi dạy lịch sử lớp 9 bài 19 “Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
ở nước ngồi 1919-1925” giáo viên khi dạy về sự kiện Bác Hồ đọc được
luận cương lần thứ nhất “ Những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin có
thể khắc họa sự vui mừng, hạnh phúc, phấn khởi của Bác bằng các câu thơ:
“ Luận cương đến và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ lên nin…
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng kiến thức văn học
trong giảng dạy lòch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một
đoạn văn hay một trích đoạn để cụ thể hoá vấn đề, sự kiện nhằm nêu ra
một kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn. Cũng có thể giáo
viên chỉ cần liên hệ qua một câu hỏi (có thể ở đầu, giữa hoặc cuối bài) tạo
tính liên hệ qua một tác phẩm văn học với một sự kiện lòch sử để gây hứng
thú học tập.
PHẦN C: KẾT LUẬN:
1. *Kết quả đạt được:
Ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan khi đưa kiến thức văn
học lồng ghép trong bài dạy có tác động rất tốt đến sự chú ý của các em.
Trước hết việc sử dụng ngôn ngữ mượt mà, những giai điệu âm thanh giàu
tính hình tượng có biểu cảm, những hình tượng nghệ thuật gắn liền nội
dung lòch sử không những giảm đi tính khô khan của các sự kiện mà còn
tạo ra không khí nhẹ nhàng trong tiết học giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu
hơn kiến thức mà mình thu nhận được. Để nâng cao hiệu quả sử dụng kiến
thức văn học trong giảng dạy lòch sử phải vận dụng một cách khéo léo có
chọn lựa những chi tiết sao cho phù hợp với mục đích yêu cầu của bài
giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lòch sử. Kết hợp kiến thức
của môn lòch sử với môn ngữ văn để xây dựng lên một bức tranh sinh động
về những sự kiện, những nhân vật của thời đại trong một bối cảnh xã hội
cụ thể phải đảm bảo cho được hai yếu tố cơ bản: Giá trò giáo dục – giáo
dưỡng và phù hợp với trình độ, nhận thức của học sinh. Sử dụng những chi
tiết dù nhỏ trong văn học như một câu thơ, một đoạn văn ngắn đúng lúc,
đúng chổ thì nó sẽ trở thành chất xúc tác trong việc khơi dậy hứng thú, say
mê học tập của các em.
Qua áp dụng phương pháp trên kết quả các bài kiểm tra, khảo sát thực tế cho
thấy chất lượng đạt được khá cao:
Năm học 2010-2011 đạt 97.6% trung bình trở lên.

Năm học 2011-2012 đạt được 98.7% trung bình trở lên.
2. Kiến nghị, đề xuất:
a. Đối với giáo viên:
-Dạy những bài học lịch sử là vấn đề không dễ, nếu giáo viên không có
sự chuẩn bị kĩ lưỡng sẽ rất dễ rơi vào tình trạng bài giảng khô khan hoặc quá
nặng nề, không gây được ấn tượng, cảm xúc mạnh đối với học sinh. Vì vậy
cần nghiên cứu kĩ lưỡng bài giảng, sưu tầm, nghiên cứu tài liệu, sử dụng
phương pháp tích, có như vậy mới đạt hiệu quả giáo dưỡng, hiệu quả giáo
dục
-Đối với người giáo viên khi dạy những dạng như bài này vai trò của
phương pháp thuyết trình là rất quan trọng, trình bày sao cho lời giảng trôi
chảy, trau chuốt, có sức thuyết phục cao, có tính gợi hình, gây cảm xúc mạnh
là điều rất quan trọng, do đó cần có sự chuẩn bị kĩ về nội dung thuyết trình.
b. Đối các cấp quản lý:
Trong các hoạt động ngoại khoá, sinh hoạt chủ đề nhân kỷ niệm các
ngày lễ lớn: 22/12, 3/2, 8/3, 30/4, 19/5… nên lồng ghép một số trò chơi như
trên nhằm kiểm tra kiến thức học sinh, kích thích sự tìm tòi học hỏi, tạo ra
sân chơi bổ ích đối với mọi lứa tổi học sinh.
Cần chú trọng phát huy các mô hình câu lạc bộ lịch sử, ngược dòng lịch
sử, tổ chức các hội thi tìm hiểu về lịch sử…trong các nhà trường để nhằm
thúc đẩy quá trình dạy, học có hiệu quả.
Xác nhận Ngày23 tháng 5 năm 2013
Của thủ trưởng đơn vị Ngöôøi Vieát
Lê Trọng Minh


×