Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

GIẢI PHÁP GÓP PHẦNHỖ TRỢ DNNVV TIẾP CẬN VỚI NGUỒN TÍN DỤNG THÔNG QUACÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.37 KB, 22 trang )

Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
Chương4: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HỖ TRỢ DNNVV TIẾP CẬN VỚI NGUỒN TÍN
DỤNG THÔNG QUACÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
4.1 Nhận xét chung về nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV, cũng
như công tác thẩm định tín dụng tại ngân hàng.
Có thể thấy rằng, nhu cầu vay vốn của các DNNVV đối với nguồn tín dụng trung và dài
hạn là rất lớn. Thực tế, hiện nay tài chính vẫn đang là vấn đề yếu nhất của DN. Tình trạng
thiếu vốn đang là chuyện phổ biến ở các DN nói chung DNNVV nói riêng. Các DNNVV gặp
rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngắn hạn, đặc biệt là trung và dài hạn từ các
ngân hàng cũng như từ các tổ chức tín dụng khác, các khoản vay có bảo lãnh cũng thường
không đến được với DNNVV. Hơn nữa, do hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với mức
lãi suất cao nên các DNNVV dù có được phép vay vẫn khó tìm được nguồn vốn trung và dài
hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DNNVVcủa ta
có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn trung và dài hạn từ các tổ chức
tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn. Do đó, để đảm bảo các DN có thể ngày
càng dễ tiếp cận với nguồn vốn tín dụng này không chỉ đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc từ các
chính bản thân các DNNVV làm sao có thể đáp ứng được tất cả những yêu cầu vay vốn của
các ngân hàng, mà cũng đòi hỏi các NHTM phải có những cơ chế, chính sách tín dụng thật sự
thông thoáng, nhằm tạo điều kiện cho các DN vay vốn.
Thực tế cũng chứng minh rằng, công tác thẩm định tín dụng tại các ngân hàng hiện nay,
đặc biệt là các khoản tín dụng trung và dài hạn cho các DNNVV, bên cạnh những thành tựu
đạt được như tỷ lệ tài trợ vốn trung và dài hạn cho DNNVV chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ
cho vay của nhiều ngân hàng, các DN sử dụng vốn vay đúng mục đích, phương án vay vốn
đạt được hiệu quả kinh tế cao khi được triển khai đưa vào thực hiện, việc kiểm tra sau khi giải
ngân và thu hồi đúng thời gian..., thì vẫn còn tồn tại những mặt chưa đạt được trong quá trình
thẩm định dự án vay vốn của DNNVV, kết quả đã làm cho tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
cho vay đối với đối tượng này cao, nhiều khoản vay không có khả năng thu hồi nợ hay DN
sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tất cả những vấn đề này đòi hỏi CBTD phải nâng cao
hơn nữa công tác thẩm định của mình, xem xét kỹ lưỡng các bảng cân đối kế toán, báo cáo
thu nhập, xác minh thực tế một cách khách quan, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn


vay của DN một cách sát sao để đảm bảo sao cho dự án được vay là một dự án đầu tư đáng
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
69
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
được tài trợ, quá trình sử dụng vốn vay đúng mục đích, đảm bảo mang lại hiệu quả cho DN
vay vốn, và lợi nhuận cho ngân hàng.
4.2.Những giải pháp giúp DNNVV tiếp cận với nguồn vốn trung và dài hạn
4.2.1 Giải pháp từ chính bản thân của DN
Về phía DN, ngoài sự trợ giúp của Nhà nước, NHNN, hệ thống NHTM, đòi hỏi bản thân
từng DN phải chủ động vươn lên, biết phát huy lợi thế của mình, thế mạnh của từng vùng,
miền để có thể đẩy mạnh sản xuất. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, đứng
trước sức ép cạnh tranh ngay từ "sân nhà" đòi hỏi các DN cần có sự liên kết giữa các DN
cùng sản xuất kinh doanh theo ngành, lĩnh vực để hợp tác mở rộng thị trường và cạnh tranh
với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại. Như vậy mới bảo đảm DNNVV Việt Nam phát triển
hiệu quả, tương xứng với tiềm năng trong thời gian tới.
PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền - Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế - Bộ Tài chính
cho rằng: “Các DNNVV cần có một chiến lược phát triển dài hơi. Trong đó cần chú trọng tới
khâu quản lý sản xuất, giảm thiểu chi phí trung gian trong quá trình sản xuất, tăng cường thực
hiện các biện pháp giảm chi phí về NVL và năng lượng, đổi mới công nghệ thiết bị tiên tiến
hiện đại, liên kết sản xuất các loại NVL trong nước, chủ động và giảm dần lượng nguyên liệu
nhập khẩu, phân công hợp tác chuyên môn hoá trong từng ngành sản xuất một cách hợp lý,
nâng cao tay nghề cho người lao động, đẩy mạnh công tác điều tra, nghiên cứu đánh giá nhu
cầu thực tế thị trường cần. Mỗi DN phải tạo ra cho riêng mình một sản phẩm mũi nhọn, có
sức cạnh tranh, có thương hiệu riêng để khẳng định vị trí của DN trên thị trường”.
Hiện nay, việc công khai tài chính của DN còn rất thiếu minh bạch, phần lớn các
DNNVV Việt Nam không có hệ thống kế toán tiêu chuẩn. Vì vậy, quá trình quan hệ, hợp tác
đầu tư với các đối tác và tiếp cận tín dụng từ các tổ chức tài chính gặp nhiều khó khăn do đó,
để tiếp cận sử dụng các nguồn tài chính và đầu tư có hiệu quả, DN cần phải nâng cao năng
lực quản trị tài chính của mình, lành mạnh hoá tình hình tài chính, xây dựng chiến lược kinh

doanh rõ ràng, cải thiện mối quan hệ với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bố trí cán bộ
có năng lực giao dịch với ngân hàng, tuân thủ những điều kiện vay vốn của ngân hàng, sử
dụng vốn vay đúng mục đích, tạo uy tín với các ngân hàng và các TCTD khác, để có thể tranh
thủ được sử ủng hộ, nhiệt tình giúp đỡ của các ngân hàng trong quá trình vay vốn, cũng như
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
70
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh..., phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh một cách nhanh
chóng và hiệu quả nhất..
4.2.2 Giải pháp từ phía các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng phải gia tăng tiềm lực tài chính của mình để có thể có nguồn vốn đáp
ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các DNNVV, bên cạnh việc triển khai tín dụng
trung và dài hạn, cần từng bước đa dạng hoá và phát triển hoạt động đầu tư trung và dài hạn,
như góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các DN. Hoạt động này sẽ giúp ngân hàng thương
mại đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, phân tán rủi ro và mở rộng khách hàng, qua đó có thể
góp phần tài trợ vốn trung và dài hạn cho các DN.
Các ngân hàng phải tạo được niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, để họ có thể
yên tâm gửi tiền dài hạn vào ngân hàng. Bên cạnh hình thức huy động tiền gửi truyền thống,
các NHTM cần phát triển và đa dạng hoá các công cụ huy động vốn trung và dài hạn như: kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên 1 năm và trái phiếu... điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt
động huy động vốn trung và dài hạ, ngoài các biện pháp huy động tối đa các nguồn vốn còn
nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế, phải có biện pháp để huy động từ các nguồn
vốn nước ngoài.
Các ngân hàng phải xây dựng chiến lược cho vay vốn trung và dài hạn hẳn hoi đối với
các DNVVN như xây dựng cơ chế ưu đãi hơn so với vay bình thường, thủ tục đảm bảo tiền
vay linh hoạt, trong đó cho phép DN được thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay.
Các ngân hàng thường xuyên bổ sung, sửa đổi chính sách tín dụng theo nguyên tắc của
cơ chế thị trường, tiếp cận thông lệ quốc tế để hỗ trợ cho các DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, trong đó các chính sách về tín dụng đối với DNNVV phải được ban hành

đồng bộ.
Các ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lưc, tái cơ cấu và chấn chỉnh lại bộ
máy hoạt động, cải tiến thủ tục cho vay đối với DNNVV theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn,
nhanh chóng hơn, đa dạng và đơn giản các hình thức bảo đảm, tăng cường cho vay không bảo
đảm cho các DN kinh doanh hiệu quả, đẩy mạnh cho vay theo hạn mức, thấu chi, bao thanh
toán, chiết khấu thương phiếu, thuê tài chính, nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay như
hiện nay, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay thích ứng với
từng địa bàn và hoàn cảnh cho vay, đưa ra các sản phẩm và dịch vụ cho vay hấp dẫn, linh
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
71
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
hoạt, hoàn thiện chính sách tín dụng, các mô hình đánh giá xếp hạng và các biện pháp kiểm
soát tín dụng hiệu quả như: chọn lọc dự án đầu tư, sàng lọc khách hàng, kiểm soát chất lượng
tín dụng, tập trung đầu tư vốn trên cơ sở an toàn để có thể giúp cho dự án vay vốn đạt hiệu
quả cao nhất.
Các ngân hàng nên cho doanh nghiệp thỏa thuận về mức độ thế chấp tài sản, nghĩa là
doanh nghiệp không bị động trong việc đánh giá tài sản thế chấp như bấy lâu nay. Điều này
cho thấy, đã có “cái nhìn” thoáng hơn của ngân hàng đối với thành phần kinh doanh còn nhỏ
lẻ nhưng có tính năng động và có ý chí vươn lên.
Các ngân hàng phát triển đa dạng các chính sách đảm bảo tiền vay để người vay vốn có
nhiều phương án lựa chọn và nhiều cơ hội tiếp cận với tín dụng ngân hàng theo các nội dung
sau: Gắn tài sản trên đất (nhà cửa, cây trồng, vị thế...) với quyền sử dụng đất, dùng chính sản
phẩm hình thành từ vốn vay kèm theo một tỷ lệ xác định vốn đối ứng để làm tài sản đảm
bảo, mở rộng hình thức thế chấp khoản vay bằng kho hàng cho những nhóm khách hàng thích
hợp, có uy tín và có tính ổn định cao.
Các ngân hàng phát triển các hình thức chứng nhận đảm bảo, sử dụng rộng rãi mô hình
tổ vay vốn có bảo đảm bằng uy tín của chính quyền, lập danh mục xếp hạng khách hàng để
cho vay có phân biệt mức vay, thời hạn vay theo dự án khả thi, áp dụng cơ chế giải ngân theo
tiến độ dự án đối với những hồ sơ vay đầu tư vào dự án trung và dài hạn.

Các ngân hàng, đối với quy định cho vay dựa vào tài sản bất động sản, quy trình cho
vay phải thật sự thuận tiện, hạn chế đến mức có thể những giấy tờ phức tạp gây cản trở sự
tiếp cận tài chính của DN, đặc biệt trong tiếp cận các nguồn vốn Nhà nước.
Các ngân hàng chủ động hỗ trợ DNNVV trong việc lập dự án sản xuất kinh doanh, loại
bỏ sự phân biệt đối xử của ngân hàng giữa DNNVV quốc doanh với các DNNVV ngoài quốc
doanh. Phân tích tiềm năng, thế mạnh ở từng vùng, triển khai thực hiện cơ chế tín dụng trọn
gói, phát triển thị trường vốn thứ cấp thông qua “Chợ đầu mối chứng khoán thứ cấp” là DN
con trong NHTM lớn để tạo ra nhiều công cụ tài chính có thể sử dụng làm vật thế chấp trong
vay vốn ngân hàng theo cơ chế “lỏng hoá” các công cụ tài chính trung và dài hạn thông qua
kênh tín dụng ngắn hạn có bảo đảm bằng công cụ tài chính trung và dài hạn. Nghĩa là biến thị
trường tín dụng thành người bạn đường xúc tác cho TTCK phát triển.
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
72
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
Các ngân hàng để đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn có thể sử dụng hình thức cho vay
đồng tài trợ, hay phối hợp với các quỹ bảo lãnh để mở rộng cho vay đối với các DNVVN.
Hình thức cho vay này sẽ phần nào giải quyết khó khăn do hạn chế về tiềm lực tài chính,
đồng thời chia sẻ rủi ro giữa các ngân hàng tham gia đồng tài trợ.
Các ngân hàng cần nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm, đồng thời cần tiếp tục
nghiên cứu và triển khai mạnh việc phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới như
dịch vụ tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có giá, cung cấp các dịch vụ sản
phẩm bảo hiểm, uỷ thác...Cùng với đó là chú trọng tới hoạt động marketing, quảng bá sản
phẩm dịch vụ ngân hàng đến quảng đại công chúng cũng như tới cộng đồng các DN, đặc biệt
là DNNVV.
4.2.3 Giải pháp từ phía Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước có thể tiến đến mở rộng tỷ lệ quy định về sử dụng vốn ngắn hạn
cho vay trung và dài hạn lớn hơn 30% qua đó giúp các ngân hàng có thêm nguốn vốn trung
và dài hạn cung cấp cho các DNNVV, đẩy mạnh việc chỉ đạo các ngân hàng tăng cường huy
động các nguồn vốn trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức để đáp ứng nhu cầu vốn trung

và dài hạn ngày càng tăng của thành phần kinh tế này.
Ngân hàng nhà nước cần tạo quyền chủ động cho các NHTM, không phân biệt thành
phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng trong lĩnh vực phát hành các công cụ
huy động vốn trung và dài hạn, hạn chế can thiệp hành chính đối với việc cho vay của ngân
hàng cho pháp các ngân hàng được tự chủ xem xét, quyết định và tự chịu trách nhiệm về việc
cấp tín dụng cho các DNNVV phù hợp quy định của pháp luật, nên có những văn bản gởi lên
cơ quan có thẩm quyền đảm bảo sao cho có thể tháo gỡ sự can thiệp hành chính của nhà nước
đối với việc cho vay của các ngân hàng.
Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước để có các biện
pháp khuyến khích các NHTM phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung,
đồng thời, có các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu để có thể huy động thêm nguồn
vốn trung và dài hạn để cho vay.
Ngân hàng nhà nước cần có các giải pháp hoàn thiện các công cụ gián tiếp trong điều
hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để có đủ năng lực điều tiết cung
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
73
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
cầu về vốn, điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của
các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng nhà nước cùng với hình thức cho vay truyền thống, phải ban hành cơ chế về
các hình thức cấp tín dụng khác như bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá, bao
thanh toán..., một cách cụ thể, rõ ràng nhằm tạo hành lang pháp lý để các ngân hàng mở rộng
các kênh đầu tư phù hợp thông lệ quốc tế và không trái với pháp luật Việt Nam, phải hết sức
nhanh nhẹn, có biện pháp điều tiết kịp thời khi lãi suất huy động bị đẩy lên quá cao, tạo điều
kiện cho công tác huy động vốn nhất là vốn trung và dài hạn của hệ thống NHTM.
Ngân hàng nhà nước phải tạo điều kiện cho các Công ty cho thuê tài chính trực thuộc
ngân hàng đưa vào hình thức tín dụng mới là cho thuê tài chính - một kênh cung cấp nguồn
vốn trung và dài hạn cho các DN khi DN có đủ điều kiện vay vốn nhưng không phải bảo đảm
bằng tài sản tại các ngân hàng thương mại, một cách thuận lợi.

Ngân hàng nhà nước nên ban hành các quy chế mới của hệ thống đã thật sự tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Trên nguyên tắc
cùng có lợi, hiệu quả, mọi mặc cảm về DNNVV cũng dần được được xua tan, thay vào đó là
một nếp văn hóa trong kinh doanh, nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
các văn bản mới về cơ chế cho vay, cơ chế bảo đảm tiền vay, thanh toán quản lý ngoại hối...,
để tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận vốn vay trung và dài hạn, sử dụng các dịch vụ
ngân hàng được nhiều hơn.
4.2.4 Giải pháp về phía nhà nước
Theo PGS-TS Đặng Văn Thanh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sác quốc hội:
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam phấn đấu đến năm 2010 sẽ ra khỏi tình
trạng nước kém phát triển và năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp, chính trị, xã hội ổn
định, hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới. Thành công của chiến lược này phần lớn
phụ thuộc vào sự phát triển của các tổ chức kinh tế, mà chủ yếu là các DN, nhất là DNNVV.
Do đó để hỗ trợ cho các DNNVV vay được vốn trung và dài hạn các Nhà nước cần phải có
những biện pháp sau :
Nhà nước phải có những chính sách tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, trợ giúp
DNNVV phát triển, đặc biệt, các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho DN về tài chính, đào tạo
nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, trợ giúp kỹ thuật công nghệ…Để giúp các DNNVV
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
74
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
đứng vững và phát triển trong thời kỳ hội nhập, Nhà nước sẽ tăng cường trợ giúp pháp luật
cho DN và sẽ có những thông tin mang tính dự báo về thị trường vốn.
Nhà nước nên tạo mọi điều kiện để cho các DNNVV có thể tiếp cận qua nhiều kênh
như Quỹ Hỗ trợ phát triển DNNVV, các Công ty cho thuê tài chính, các NHTM, Quỹ đầu tư
phát triển địa phương, kênh tín dụng ưu đãi từ Quỹ Hỗ trợ phát triển một cách tốt nhất, đẩy
nhanh việc thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV để bảo lãnh cho
các DNNVV khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các ngân hàng, tạo hành lang
pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho DNNVV ở tầm vĩ mô như khuyến khích các NHTM cung cấp

tín dụng hoặc góp vốn vào các DNNVV, hỗ trợ mặt bằng sản xuất cho DN.
Nhà nước thành lập và phát triển các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà nước để thực
hiện chính sách bảo lãnh tín dụng cho DN. Hoạt động cơ bản của các định chế này là thực
hiện chính sách bảo lãnh những khoản tín dụng ngân hàng của các DNNVV nhằm khuyễn
khích các DN đầu tư dài hạn, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập
vào thị trường quốc tế.
Nhà nước, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ, đặc biệt của Bộ Tài chính -
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế để tranh thủ các nguồn vốn tín dụng
Trung và dài hạn giúp các DNNVV nhanh chóng đổi mới trang thiết bị công nghệ tiên tiến,
giảm dần khoảng cách về trình độ công nghệ so với các DN Nhà nước, DN có vốn đầu tư
nước ngoài.
Nhà nước cần phải có hệ thống các giải pháp để ngày càng phát triển thị trường chứng
nhằm tạo thị trường giao dịch các cổ phiếu DNNVV có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, theo
phương thức khớp lệnh tập trung qua đó sẽ giúp các DNNVV tiếp cận với nguồn vốn trung và
dài hạn, bên cạnh với việc đẩy mạnh tín dụng trung và dài hạn của các NHTM, nên khuyến
khích các DNNVV phát hành trái phiếu DN để vay vốn dài hạn, các NHTM phát hành trái
phiếu ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn.
Nhà nước nên có những văn bản chỉ đạo các Bộ, ngành đẩy mạnh các hình thức trợ giúp
phát triển DNNVV thông qua biện pháp về tài chính, tín dụng, khuyến khích các tổ chức tài
chính, các DN và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNNVV.
Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho các ngân hàng nới lỏng điều
kiện vay vốn, tạo điều kiện cho các DNNVV có thể huy động được vốn trung và dài hạn qua
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
75
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM
thị trường vốn, có biện pháp xử lý rủi ro bất khả kháng và những vấn đề liên quan đến sự
khác nhau giữa thời gian huy động vốn ngắn hạn nhưng cho vay trung và dài hạn

Vì vậy, ngoài sự phát huy nội lực, chủ động và tự tin đi lên của từng DNNVV là

chính, cần có sự tham gia tích cực giúp đỡ về mọi mặt của các bộ, ngành, các tổ chức hiệp
hội, có liên quan. Có như vậy cộng đồng DNNVV nước ta mới sớm tạo được thế đứng vững
chắc, hạn chế rủi ro trong sân chơi chung thương mại toàn cầu.
4.3 Giải pháp giúp nâng cao công tác thẩm định tín dụng trung và dài hạn
4.3.1 Thái độ của CBTD đối với các quyết định đầu tư vốn
Nghệ thuật của thẩm định không phải ở năng lực tính toán toán học, bởi một khi bạn
nắm vững được phương pháp bạn sẽ nhớ được phương pháp bạn sẽ nhớ được chúng. Kỹ năng
thực sự nằm ở chỗ lựa chọn các dự án xứng đáng ngay từ ban đầu, đánh giá về thời gian,
tiền bạc một cách chính xác trong một thời gian dài, sau đó diễn giải kết quả thu được.
Là CBTD chúng ta nên áp dụng nó ở nơi hữu dụng chứ không phải ở nơi vô dụng. Tuy
nhiên nếu thời gian và tiền bạc đề xuất mang một tầm quan trọng nào đó, chúng ta sẽ tự giúp
mình và giúp cả DN nếu chính ta nắm bắt được cả những phương án lựa chọn khác. Hãy nhớ
rằng các quyết định như vậy không chỉ cho việc mua sắm máy móc mà còn nhiều yếu tố dài
hạn khác nữa.
Mặc dù trọng tâm trước hết trong các quyết định tín dụng là năng lực thanh toán, CBTD
cần phải xem xét cả thế chấp và giá trị của tài sản để trả nợ vay nếu các kế hoạch không thể
trở thành hiện thực.
Một phương pháp được các ngân hàng sử dụng là so sánh nghĩa vụ tài sản nợ với giá trị
của tài sản khi bắt buộc phải bán. Cách tiếp cận này hữu ích khi xem xét tình trạng nợ của DN
trong tương quan với các tài sản có của họ.
Để làm phân tích này, giả sử rằng giá trị của tài sản trong bảng cân đối tài sản cuối cùng
gần xấp xỉ với giá trị hiện tại của tài sản. Nếu biết có sự chênh lệch đáng kể thì giá trị theo giá
thị trường gần nhất sẽ được áp dụng. Thông qua các tài sản lớn như cơ sở nhà xưởng kinh
doanh cần phải đựơc định giá bởi các chuyên gia độc lập.
Bởi khi DN không thể trả nợ thì tài sản này sẽ được đem ra bán, chúng ta có thể gải thiết
rằng các tài sản đó có khả năng không thể bán được theo giá trị hiện tại của chúng.
SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
76
Chương 4:Giải pháp góp phần hỗ trợ DNNVV tiếp cận với nguồn vốn tín dụng thông
qua công tác thẩm định tín dụng tại các NHTM

Tuy nhiên giả thiết này có thể không đứng vững trong thời gian lạm phát cao hoặc khi
thiếu thiết bị trên thị trường.
4.3.2 Nâng cao chất lượng con người
Chất lượng tín dụng của một ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào sự lãnh đạo tài tình của
các nhà lãnh đạo cấp cao mà còn đỏi hỏi có một đội ngũ CBTD giỏi chuyên môn. Do đó, để
nâng cao chất lượng các khoản vay, cũng như công tác thẩm định tín dụng tại ngân hàng, đòi
hỏi các nhà lãnh đạo cấp cao và các CBTD phải:
a) Đối với các nhà lãnh đạo ngân hàng
Khi phân tích rủi ro, dù là rủi ro do hoàn cảnh, trách nhiệm trước hết vẫn thuộc về quản
lý ngân hàng. Do đó các nhà quản lý ngân hàng phải tiến hành phân tích, nghiên cứu, xem xét,
dự báo:
- Nghiên cứu tình hình cứu chính trị, xã hội trên thế giới và trong nước. Những dự báo
ảnh hưởng của thế giới đối với trong nước.
- Những biến động của tình hình xung quanh, mặt khác phải thưỡng xuyên hoàn thiện
quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng, hình thức tín dụng, phương thức quản lý tổ chức, phát
triển môi trường kinh tế, pháp luật và thực tế thị trường.
- Diễn biến thị trường tiền tệ, thị trường vàng, thị trường chứng khoán.
- Mức độ tăng trưởng kinh tế của các ngành kinh tế chủ lực của đất nước, các ngành kinh
tế mà họ, chính là khách hàng chủ lực của ngân hàng.
- Dự báo về các hiện tượng kinh tế- xã hội như lạm phát, khủng hoảng, mất thăng bằng,
tăng giá vàng, ngoại tệ, tình hình tăng giảm của các mặt hàng nhập khẩu- xuất khẩu.
- Xem xét các diễn biến pháp lý của môi trường trong nước.
- Những dự báo về tự nhiên, thời tiết ảnh hưởng đến quá trình đầu tư.
b) Đối với các CBTD
- Do công tác thẩm định tín dụng luôn phức tạp và đa dạng do đó đòi hỏi CBTD cần có
một kiến thức tổng hợp về ngoại thương, kế toán, ngoại ngữ, luật pháp, tin học và quan trọng
hơn đó là một kỹ năng giao tiếp tốt.
- Đối với các dự án cho vay trung và dài hạn, CBTD phải có khả năng phân tích, thẩm
định và đánh giá hiệu quả dự án. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, khả năng này của CBTD
thuộc các NHTM Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, nâng cao khả năng phân tích, thẩm định dự

SVTH: Phan Thị Thanh Luân Trang
77

×