1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HƢƠNG
PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH
SỬ CHO HỌC SINH HUYỆN LÝ NHÂN – TỈNH HÀ NAM
(Vận dụng trong dạy học lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000)
Lớp 12, Trung học phổ thông, chƣơng trình chuẩn)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HƢƠNG
PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ
CHO HỌC SINH HUYỆN LÝ NHÂN – TỈNH HÀ NAM
(Vận dụng trong dạy học lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000)
Lớp 12, Trung học phổ thông, chƣơng trình chuẩn)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ
Mã số: 601410
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thế Bình
HÀ NỘI - 2012
3
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của Khoa sư
phạm, Phòng Sau Đại học – Trường Đại học Giáo dục – ĐHQG Hà Nội đã
tận tình dạy dỗ, quan tâm, đóng góp những ý kiến quý báu cho em trong
quá trình học tập, nghiên cứu
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn
TS. Nguyễn Thị Thế Bình – Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp dỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin cảm ơn Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện Đại
học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô bộ môm Lịch sử, học sinh các trường
trung học phổ thông huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam, đã tạo điều kiện thuận
lợi cho em trong quá trình làm luận văn
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè và người than
đã tạo điều kiện, động viên, khích lệ để em có thể hoàn thành tốt luận văn
của mình
Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Hƣơng
4
DANH MỤC VIẾT TẮT
CHDCND
Cộng hòa dân chủ nhân dân
CM KH – KT
Cách mạng khoa hoc – kĩ thuật
CNTD
Chủ nghĩa thực dân
CTTG
Chiến tranh thế giới thứ nhất
GD&ĐT
Giáo dục và đào tạo
GDP
Tổng thu nhập quốc nội
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
LS
Lịch sử
SGK
Sách giáo khoa
THPT
Trung học phổ thông
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
5
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1. Thống kê kết quả kiểm tra lớp 12A1 – 12A2, 12C – 12D …86
Biểu đồ 2.1. So sánh kết quả kiểm tra của lớp 12A1 và lớp 12A2…….86
Biểu đồ 2.2. So sánh kết quả kiểm tra của lớp 12C và lớp 12D……….87
6
MỤC LỤC
Lời cảm ơn……………………………………… ……………….i
Danh mục viết tắt………………………………… …………… ii
Danh mục bảng, sơ đồ…………………………… ………… iii
Mục lục…………………………………………… ……………iv
MỞ ĐẦU……………………………………… ……………… 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT
TRIỂN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG…………… …………….11
1.1. Cơ sở lý luận………………………… …… …………… 11
1.1.1. Quan niệm về phát triển và phát triển kĩ năng sử dụng SGK… 11
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
trong dạy học lịch sử……………………… ……… 18
1.1.3. Ý nghĩa của việc phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử
cho học sinh THPT……………………………………………………….25
1.1.4. Nội dung các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cần hình thành và phát
triển cho học sinh………………………………………………… 27
1.1.5. Tiêu chí đánh giá các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa của học sinh
trong dạy học lịch sử…………………………………………………… 33
1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………… 37
1.2.1. Thực trạng sử dụng sách giáo khoa và phát triển kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân…………………… 37
1.2.1. Nguyên nhân của thực trạng trên………………………………… 45
Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG SỬ DỤNG
SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI (1945 – 2000), LỚP 12, TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)…………………50
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần Lịch sử thế giới hiện đại
(1945 – 2000), Lớp 12, chương trình chuẩn…………………………… 50
2.1.1. Vị trí……………………………………………………………… 50
2.1.2. Mục tiêu……………………………………………………………50
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của phần lịch sử thế giới hiện đại 12 53
2.2. Một số yêu cầu khi lựa chọn biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng
SGK cho học sinh huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam………………………56
7
2.3. Một số biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng SGK cho học sinh huyện
Lý Nhân – tỉnh Hà Nam……………………………………………… 58
2.3.1. Phát triển cho HS các kĩ năng sử dụng kênh chữ trong SGK… 58
2.3.2. Phát triển cho HS các kĩ năng sử dụng kênh hình trong SGK… 65
2.3.3. Kĩ năng kết hợp nghe giảng, ghi chép và theo dõi SGK……… 71
2.3.4. Phát triển kĩ năng sử dụng SGK trong quá trình tự học ở nhà… 73
2.3.5. Phát triển kĩ năng trả lời câu hỏi, làm bài tập trong SGK… … 76
2.3.6. Phát triển kĩ năng sử dụng SGK để ôn tập, củng cố kiến thức cho
học sinh………………………………………………………………… 78
2.4. Thực nghiệm sư phạm……………………………………………….83
2.4.1. Mục đích thực nghiệm…………………………………………… 83
2.4.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiêm………………………………84
2.4.3. Nội dung thực nghiệm…………………………………………… 85
2.4.4. Tổ chức tiến hành thực nghiệm………………………………….85
2.4.5. Kết quả thực nghiệm……………………………………………….90
KẾT LUẬN……………………………………………………………90
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………92
PHỤ LỤC…………………………………………………………… 96
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, đang đặt ra những yêu
cầu rất lớn về nguồn nhân lực. Thực tế đó đòi hỏi giáo dục phổ thông phải
đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, Đảng ta luôn coi “giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu”.
Luật Giáo dục cũng đã nêu rõ mục tiêu của giáo dục là: “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mỹ nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[27, tr. 8].
Mỗi môn học ở trường phổ thông với đặc trưng của mình đều nhằm
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, trong đó có môn Lịch sử. Đây là
môn học nhằm giúp cho học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần
thiết về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc, góp phần hình thành thế giới quan
khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc,
cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng
đắn trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây thực trạng dạy học lịch sử còn
nhiều tồn tại, yếu kém. Một bộ phận không nhỏ giáo viên và học sinh có
thái độ coi thường môn lịch sử khiến cho chất lượng môn học chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra.
Để khắc phục tình trạng này, trước hết và trên hết cần tiếp tục đổi
mới phương pháp dạy học lịch sử, bởi “đổi mới phương pháp dạy học thực
sự được xem là nhân tố tạo ra tính cách mạng trong giáo dục hiện
nay”[14, tr. 13]. Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành và triển khai chương
trình và sách giáo khoa mới. Qua quá trình triển khai cho thấy, việc dạy
9
học lịch sử ở trường phổ thông chưa theo kịp với chương trình sách giáo
khoa mới, năng lực sử dụng sách giáo khoa của nhiều giáo viên còn hạn
chế, một số giáo viên chỉ chú ý vào nội dung “kênh chữ” mà chưa khai
thác đầy đủ nội dung kiến thức từ tranh ảnh ảnh, lược đồ, bản đồ, câu hỏi,
bài tập… trong sách giáo khoa.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, với sự phát triển của khoa học –
công nghệ đã cung cấp cho chúng ta nhiều công cụ dạy học hữu ích:
internet, powerpoint,….góp phần vào việc tạo hứng thú học tập cho học
sinh. Tuy nhiên, đây chỉ là những phương tiện hỗ trợ mà không thể thay
thế hoàn toàn sách giáo khoa.
Lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000) là một giai đoạn quan trọng
trong tiến trình phát triển của lịch sử thế giới và là thời kì có nhiều biến
động, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển của nhân loại. Vì
là năm học cuối cấp, phần nhiều các em đã học theo khối để thi Đại học,
Cao đẳng mà không có nhiều thời gian quan tâm, đầu tư tìm tài liệu tham
khảo. Vì vậy, sử dụng sách giáo khoa có hiệu quả, nhằm giảng dạy tốt nội
dung này, có ý nghĩa quan trọng với việc nâng cao chất lượng dạy học nói
chung, dạy học chương trình lịch sử lớp 12 trung học phổ thông nói riêng.
Hiện nay, tôi đang công tác giảng dạy tại trường THPT Nam Lý –
huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam. Các trường ở khu vực này đều được phân
thành: Ban nâng cao và Ban cơ bản. Đa phần học sinh không thích học
Lịch sử, xu thế của các em chủ yếu theo các khối A, D, số lượng học sinh
đăng kí dự thi khối C hàng năm rất ít (khoảng 10 – 20 hồ sơ). Các em chỉ
quan tâm, chú ý mua các tài liệu tham khảo cho khối thi của mình. Vì vậy,
học tập môn Lịch sử chủ yếu qua nội dung sách giáo khoa. Theo đó, phát
triển cho HS kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử hiệu quả là nhiệm vụ cơ bản
của giáo viên dạy Lịch sử ở trường THPT huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam.
10
Ngoài ra, chọn phần Lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000) nằm
trong chương trình học kì I của lớp 12, chương trình chuẩn, thuận lợi cho
việc tiến hành thực nghiệm cho luận văn.
Từ những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Phát triển kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân –
tỉnh Hà Nam (Vận dụng trong dạy học Lịch sử thế giới hiện đại (1945
– 2000) lớp 12 THPT, chƣơng trình chuẩn” làm đề tài nghiên cứu của
luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
Tác phẩm “Những cơ sở lí luận dạy học”, tập 2, năm 1971, tác giả
B.P.Exipôp đã đề cập đến ý nghĩa của việc đọc sách ngoài giờ lên lớp, làm
việc với tranh ảnh trong sách, sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn và lĩnh hội
rành mạch, vững chắc nội dung của lời văn, vì tranh ảnh tạo ra ở học sinh
những biểu tượng nhất định.
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”, năm 1973,
Tiến sĩ N.G. Đairi đã đưa ra phương thức giải quyết giờ học lịch sử theo
hướng mới của lý luận dạy học Xô Viết: chuẩn bị giờ học nhằm phát huy
óc suy nghĩ độc lập và tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học
sinh. Đặc biệt để một giờ học có hiệu quả và phát huy được suy nghĩ độc
lập của học sinh, tác giả đã quan tâm đến vị trí, vai trò của sách giáo khoa
và sử dụng sách giáo khoa như thế nào cho có hiệu quả trong giờ học lịch
sử. Trên cơ sở đó ông đưa ra sơ đồ xác định vị trí của sách giáo khoa với
tài liệu khác, giữa vị trí của bài giảng và bài viết của sách giáo khoa để có
thể khai thác tốt nội dung sách giáo khoa trong một giờ học của giáo viên
và học sinh. Đó là giải quyết tốt mối quan hệ giữa nội dung sách giáo khoa
và bài giảng của giáo viên, giữa sách giáo khoa và việc tự học của học sinh
thông qua sơ đồ Đairi. Ông cho rằng: “Bài giảng trên lớp không cần phải
11
giống hệt như bài đọc của sách giáo khoa. Thế nhưng mặt khác nhất thiết
nó lại bao gồm một phần nào đó tài liệu trong sách”[32, tr. 18].
Trong tác phẩm “Phát triển tính tích cực của học sinh như thế
nào?”, năm 1979 củaI.F.Kharalamop đã nói đến phương pháp sử dụng
sách giáo khoa thế nào cho đạt hiệu quả.
T.A. Ilina trong giáo trình “Giáo dục học”, năm 1979 đã đề cập đến
các phương pháp sử dụng SGK. Tác giả đã khái quát quá trình làm việc
của HS với SGK thành quy tắc như sau: “xem qua những điều ghi chép
trong khi giáo viên kể chuyện trong giờ học (viết các công thức, dàn ý,
định nghĩa) đồng thời nhớ lại những điều giảng giải của giáo viên. Nếu tài
liệu không giảng dạy trong lớp thì đọc tất cả tài liệu cần đọc trong sách
giáo khoa nhằm mục đích nắm toàn bộ nội dung (chưa dừng lại ở những
chỗ khó) đọc lại để phân tích những chỗ khó, những từ, những cách phát
biểu, những công thức lập dàn ý để nói lại (nói hay viết) đều đã đọc; Đọc
từng phần theo dàn ý và nếu cần thì nói to lại theo từng phần và sau cùng
là nói lại tất cả tài liệu dựa trên dàn ý đã được xây dựng (nếu điều này có
trong nhiệm vụ học tập). Sau khi đã nắm vững tài liệu lý thuyết học sinh
bắt tay vào làm các bài tập viết” [37, tr. 83]. Cách sử dụng SGK của Ilina
vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay.
M.N Xcatkin (1980) cho rằng: “Công việc với sách giáo khoa có thể
là phương pháp giải thích minh họa khi mà học sinh đọc sách giáo khoa,
là phương tiện tái hiện khi mà học sinh luyện tập theo một đoạn nào đó, là
phương pháp nghiên cứu nếu học sinh giải quyết theo sách giáo khoa
những nhiệm vụ không phải là mẫu quen biết đối với chúng”[37, tr. 28].
N.M. Iakovlev trong cuốn “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong
trường phổ thông”, tập 1, năm 1983 đã phân tích ý nghĩa của việc sử dụng
sách giáo khoa và phương pháp khai thác sách giáo khoa một cách hiệu
quả trong dạy học.
12
A.A. Vaghin, nhà nghiên cứu phương pháp dạy học của Liên Xô
trước đây trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
đã trình bày các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử như: tầm
quan trọng của đồ dùng trực quan, ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa
và tài liệu lịch sử.
Như vậy, qua các công trình nghiên cứu của mình, các nhà khoa học
đều khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng sách giáo khoa trong quá
trình dạy học. Đây chính là nền tảng giúp chúng tôi xây dựng cơ sở lý luận
và áp dụng vào phần Lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000), Lịch sử lớp
12 (chương trình chuẩn) trong luận văn.
2.2. Tài liệu trong nước
Rất nhiều nhà giáo dục, tâm lý, các nhà lý luận dạy học lịch sử đã đề
cập đến vấn đề này, tiêu biểu là các công trình sau:
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong giáo trình “Giáo dục học”, tập 1,
năm 1987 đã khẳng định: Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản có vai trò quan
trọng đối với giáo viên và học sinh. Vì vậy, phải có phương pháp sử dụng
sách giáo khoa như thế nào cho đạt hiệu quả, phát huy tính tích cực hoạt
động độc lập của học sinh.
Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng trong “Phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở”, năm 1998, đã
dành một chương của cuốn sách để nói về vị trí, ý nghĩa và phương pháp
sử dụng sách giáo khoa, trong đó tác giả xác định sách giáo khoa là tài liệu
học tập cơ bản của học sinh nhưng đồng thời là “điểm tựa để người giáo
viên xác định kiến thức cơ bản, xác định của kĩ năng cần hình thành cho
học sinh trong giờ học, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học phù
hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt động học tập của học
sinh”[20, tr. 112].
Trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học chương trình và sách
giáo khoa”, năm 2007 của Trần Bá Hoành không chỉ đề cập đến vị trí vai
13
trò của sách giáo khoa mà còn đề cập các kĩ năng làm việc với sách giáo
khoa như kĩ năng đọc, kĩ năng ghi chép, kĩ năng phân tích hình vẽ, biểu
đồ,…
Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi trong cuốn
“Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1, 2, năm 2002, đã nói đến vấn đề sử
dụng sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông và phương pháp sử dụng
của nó. Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1, năm 2002, các
tác giả đi sâu vào phân tích vị trí, vai trò của sách giáo khoa trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông, cấu tạo của sách giáo khoa lịch sử. Trong tập
2, các tác giả dành phần III đề cập đến việc sử dụng sách giáo khoa thế nào
cho hiệu quả.
Trong tác phẩm: “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử
THCS”, năm 2005, PGS. Trịnh Đình Tùng đã đưa ra phương pháp sử dụng
sách giáo khoa hướng tới hai đối tượng chủ yếu là giáo viên và học sinh.
Đối với giáo viên, tác giả đưa ra các kĩ năng sử dụng cơ bản như: sử dụng
sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng, sử dụng SGK trong quá trình lên lớp.
Đối với học sinh – đối tượng chủ yếu sử dụng sách giáo khoa lại có những
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa như: đọc sách giáo khoa để chuẩn bị bài
học mới, đọc SGK ở nhà, đối chiếu SGK với vở ghi, kĩ năng sử dụng SGK
trong giờ lên lớp, sử dụng sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, làm bài tập
lịch sử, làm tài liệu ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức.
Các bài viết ở tạp chí nghiên cứu giáo dục: Nguyễn Thị Côi, “Về
sách giáo khoa lịch sử phổ thông trung học (chương trình cải cách)”, Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử số 3/1993, Nguyễn Hữu Chí, “Về cấu trúc và yêu
cầu biên soạn sách giáo khoa môn sử THCS, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục
số 4/2000, Phan Ngọc Liên, Một số yêu cầu về xây dựng chương trình và
biên soạn sách giáo khoa lịch sử, Tạp chí giáo dục số 126 - 2005, Tưởng
Phi Ngọ, Sử dụng lược đồ lịch sử thế giới trong sách giáo khoa lịch sử 12,
Tạp chí Thiết bị giáo dục số 46, 2009, Lê Thanh Oai, Kĩ năng đọc sách
14
giáo khoa cho học sinh trong quá trình chuẩn bị bài học môn Sinh học ở
phổ thông, Tạp chí Giáo dục số 261, 2011 , các tác giả đã đi vào giải
quyết những vấn đề cụ thể trong mối liên hệ giữa nội dung sách giáo khoa
và bài giảng.
Ngoài ra còn có nhiều luận án Tiến sĩ, Luận văn Thạc sĩ và khóa
luận tốt nghiệp của sinh viên khoa sử trường Đại học sư phạm Hà Nội như:
Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục: “Sách giáo khoa của trường
THPT Việt Nam từ 1954 đến nay” – Phạm Thị Kim Anh, năm 1999, Luận
văn Thạc sĩ khoa học giáo dục: Lương Thị Mai, “Hướng dẫn học sinh lớp
12 THPT sử dụng sách giáo khoa lịch sử trong giờ lên lớp”, năm 2003, Lê
Quý Toàn, “Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học lịch sử lớp 10 trường THPT tỉnh Lào Cai”, năm 2003,
Lê Thị Mười, “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học bài ôn tập,
tổng kết môn lịch sử lớp 12 THPT”, năm 2006, Đỗ Thị Thu Thủy, “Tổ
chức hoạt động học tập lịch sử trong giờ lên lớp cho học sinh lớp 10
THPT”, năm 2007, Phạm Thị Hải Vân – Rèn luyện kĩ năng tự học với sách
giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10 –
THPT (chương trình chuẩn) năm 2011…
Các khóa luận tốt nghiệp của sinh viên như: Trịnh Thị Hằng – Sử
dụng sách giáo khoa để dạy bài “Nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc của
người Việt cổ” ở lớp 11 THPT nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử,
năm 2005, Nguyễn Thị Phương Thanh – Một số biện pháp hình thành kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa cho học sinh trong học tập môn lịch sử lớp
10 THPT, năm 2006,…
Trong cuốn: “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử”,
2011 do GS.TS Nguyễn Thị Côi chủ biên, đã dành một chương nói về việc
rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử cho sinh
viên. Tác giả đã tiếp tục góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan
trọng của sách giáo khoa Lịch sử, đồng thời tác giả cũng đề xuất các kĩ
15
năng sử dụng sách giáo khoa của giáo viên ở trường phổ thông và việc sử
dụng sơ đồ Đairi. Trong đó đối với giáo viên, tác giả đưa ra bốn kĩ năng
rèn luyện cơ bản giúp giáo viên sử dụng tốt sách giáo khoa là: kĩ năng khai
thác bài viết của sách giáo khoa, kĩ năng sử dụng kênh hình, kĩ năng sử
dụng các câu hỏi, kĩ năng hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trên
lớp và ở nhà.
Trong tất cả các công trình khoa học, chuyên đề, luận văn, …đều đề
cập đến vị trí, vai trò và các phương pháp để sử dụng sách giáo khoa hiệu
quả. Nhưng chưa có tác giả nào để cập một cách đầy đủ, hoàn thiện về việc
phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học một nội dung dạy
học lịch sử cụ thể.
Để góp phần làm rõ nội dung trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: Phát
triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân –
tỉnh Hà Nam trong dạy học Lịch sử thế giới hiện đại (1945 – 2000) lớp 12
THPT, chương trình chuẩn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học lịch sử cho học
sinh ở trường THPT huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào việc đề xuất các giải pháp phát triển kĩ năng
sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân – tỉnh Hà
Nam trong quá trình dạy học các bài nội khóa, phần Lịch sử thế giới hiện
đại (1945 – 2000), lớp 12 THPT, chương trình chuẩn.
Do thời gian có hạn, luận văn tiến hành điều tra ở một số trường
THPT của huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam và tiến hành thực nghiệm sư
phạm tại bốn lớp của hai trường (THPT Nam Lý và THPT Nam Cao của
huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
16
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng sách giáo
khoa trong dạy học lịch sử, chúng tôi đề xuất một số biện pháp phát triển
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân – tỉnh
Hà Nam trong quá trình dạy học khi dạy phần: Lịch sử thế giới hiện đại
(1945 – 2000), lớp 12 THPT, chương trình chuẩn, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học lịch sử hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu Tâm lý học, Giáo dục học, Phương pháp dạy
học lịch sử để khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc phát triển kĩ năng sử
dụng SGK cho HS.
- Tiến hành điều tra thực trạng kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học lịch sử ở trường THPT của huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam hiện
nay.
- Tìm hiểu nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử Lớp 12,
phần “Lịch sử thế giới hiện đại” (1945 – 2000) để xác định các cách khai
thác nội dung, kiến thức trong quá trình dạy học lịch sử.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kĩ năng sử dụng sách
giáo khoa cho HS huyện Lý Nhân trong quá trình dạy học bộ môn Lịch sử
ở trường THPT, xây dựng giáo án thực nghiệm và tiến hành thực nghiệm
sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà
nước về công tác giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết:
17
+ Nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Bộ GD&ĐT về
nội dung, chương trình, phương pháp dạy học.
+ Nghiên cứu tài liệu tâm lý học, giáo dục học, giáo dục về phương
pháp dạy học nói chung, sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử nói
riêng.
+ Nghiên cứu chương trình, nội dung sách giáo khoa và các tài liệu
có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu thực tế:
+ Phương pháp điều tra: phát phiếu điều tra, phỏng vấn, quan sát…
+ Phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả thực nghiệm
6. Giả thuyết khoa học
Trong thực tế giảng dạy lịch sử ở trường THPT hiện nay, kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa của phần lớn học sinh còn nhiều hạn chế. Vì vậy, nếu
sử dụng các biện pháp theo yêu cầu của luận văn đưa ra, sẽ phát triển kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử, qua đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử cho HS huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam nói
riêng và HS ở trường phổ thông nói chung.
7. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa trong
quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông
- Phản ánh thực trạng kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy học
lịch sử
- Đề xuất một số biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo
khoa lịch sử trong dạy học lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân – tỉnh Hà
Nam
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
18
- Ý nghĩa khoa học: Góp phần làm phong phú thêm lý luận phương
pháp dạy học lịch sử về phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong
quá trình dạy học lịch sử.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo cho giáo
viên, sinh viên các trường Đại học sư phạm, Cao đẳng sư phạm, giáo viên
và học sinh các trường THPT trong việc nâng cao kĩ năng sử dụng sách
giáo khoa trong dạy học lịch sử.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử cho học sinh huyện Lý Nhân –
tỉnh Hà Nam.
Chương 2: Một số biện pháp phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo
khoa cho học sinh huyện Lý Nhân – tỉnh Hà Nam trong dạy học Lịch sử
thế giới hiện đại (1945 – 2000), Lớp 12 THPT, chương trình chuẩn.
19
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ
CHO HỌC SINH THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về kĩ năng và phát triển kĩ năng sử dụng SGK
1.1.1.1. Quan niệm về kĩ năng
Theo các tác giả: A. G. Kovaliop, V. V. Isebưseva (Liên Xô), Trần
Trọng Thủy, cho rằng chỉ cần nắm vững cách thức của hành động tức là
có kĩ năng.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu giáo dục khác như: K.K.Platônốp,
Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang Uẩn, lại xem xét kĩ năng ở góc độ năng
lực của con người và cho rằng: kĩ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính
mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Kĩ năng là khả năng vận dụng những
kiến thức đã nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực
tế”[35, tr. 501]. Kĩ năng được hình thành sau khi đã lĩnh hội được kiến
thức và vận dụng các kiến thức đó áp dụng vào hoàn cảnh thực tế nhất
định. Ví dụ như: kĩ năng nghiên cứu tài liệu, kĩ năng giải bài tập hình học,
bài tập lượng giác, kĩ năng đọc, kĩ năng viết Ngoại ngữ,
Tác giả M.A. Đanilôp cho rằng, kĩ năng là kiến thức trong hành
động, thể hiện bằng việc chúng ta biết vận dụng sáng tạo những kiến thức
mà bản thân đã học được không chỉ vào các hoạt động lý thuyết, mà còn
trong thực tế của cuộc sống : “Kĩ năng là khả năng con người biết và sử
dụng có mục đích và sáng tạo những kiến thức của mình trong hoạt động
lý thuyết cũng như trong thực tiễn. Kĩ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến
thức và dựa vào kiến thức. Kĩ năng chính là kiến thức trong hoạt
động”[18, tr. 26].
20
Ngoài ra, kĩ năng còn được coi là khả năng để áp dụng những kiến
thức của bản thân đã được định hướng cách thức hành động, phương pháp
hành động để hoàn thành nhiệm vụ mới. Theo Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan,
Nguyễn Văn Thành: Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm,
cách thức, phương thức) để giải quyết một nhiệm vụ mới [16, tr. 80].
Theo quan niệm của Trần Trọng Thủy: Kĩ năng là một mặt kĩ thuật
của hành động, con người nắm được cách thức hành động – tức kĩ thuật
hành động là có kĩ năng nghĩa là khi biết được cách thức và phương pháp
hành động chứng tỏ chúng ta đã có kĩ năng.
Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động bằng cách vận
dụng những tri thức, kinh nghiệm về hành động này để tiến hành phù hợp
với những điều kiện cho phép, vì vậy kĩ năng không chỉ là mặt kĩ thuật của
hành động mà còn biểu hiện năng lực của chủ thể. Trên cơ sở đó các tác
giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính đã đưa ra
khái niệm về kĩ năng học tập: “kĩ năng học tập là sự thực hiện có kết quả
các hành động phân tích, mô hình hóa, khái quát hóa các đối tượng nhận
thức… bằng cách vân dụng những tri thức kinh nghiệm về hành động này
để tiến hành phù hợp với những điều kiện cho phép”[26, tr. 83]
Như vậy có thể hiểu, kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành
động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có
để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép.
Muốn có kĩ năng, con người cần phải vận dụng vốn tri thức và kinh
nghiệm của bản thân vào hành động. Hành động có kết quả khi hành động
phù hợp với điều kiện cụ thể cho phép. HS đã hình thành được kĩ năng, có
thể vận dụng những hiểu biết, kinh nghiệm trong mọi điều kiện, hoàn cảnh
có thể hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Điều này đòi hỏi giáo viên phải linh
hoạt, sáng tạo trong việc hình thành, rèn luyện và phát triển kĩ năng cho
học sinh.
21
Tuy nhiên, cần phân biệt sự khác nhau giữa “kĩ năng” và “năng lực”.
Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực là: “Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho
con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao”[35, tr. 612]. Năng lực không phải là cái có sẵn mang tính bẩm sinh
mà chỉ có những tư chất của năng lực, vốn là một trong số những đặc điểm
giải phẫu sinh lý của não và hệ thần kinh mới có tính bẩm sinh. Những tư
chất này sẽ dần dần được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt
động. Sự phát triển của nó đạt kết quả cao nếu có những hành động kích
thích phù hợp đúng lúc với những điều kiện tâm lý cho phép. Hoạt động
chính là cơ sở, điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển năng lực.
Như vậy, năng lực mang tính chất rộng hơn “kĩ năng”, là một thuộc tính
tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố: tri thức, kĩ năng, kinh
nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm đạo đức. Ví dụ: năng lực
chuyên môn, năng lực sư phạm,
1.1.1.2. Quan niệm về phát triển kĩ năng tự học cho học sinh
- Quan niệm về phát triển và phát triển kĩ năng
Từ điển Tiếng Việt, “phát triển” là khái niệm dùng để chỉ “sự biến
đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp”[35, tr. 261]. Phát triển là khuynh hướng
vận động đã xác định về hướng của sự vật từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời
thay thế cái lạc hậu
Hay nói một cách khác, phát triển được coi là sự lớn lên về mặt kích
thước, độ lớn hay giá trị, tầm quan trọng của sự vật hay vấn đề nào đó.
Hiện nay, dạy học cần hướng đầy đủ vào việc tổ chức cho học sinh
lĩnh hội tri thức, hình thành kĩ năng, thái độ ứng xử theo những chuẩn mực
nhất định, nghĩa là giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức cơ bản, có được
kĩ năng tương ứng và thái độ đúng (học được và thực hành được). Hình
thành kĩ năng cho học sinh thực chất là làm cho các em nắm vững hệ thống
22
các thao tác học tập cụ thể tương ứng với những nội dung học tập xác định.
Như vậy, trong quá trình dạy học, sau khi đã giúp người học hình thành
được kĩ năng rồi, giáo viên cần tiếp tục tạo điều kiện học sinh rèn luyện và
phát triển các kĩ năng đó.
Như vậy, phát triển kĩ năng được hiểu là quá trình luyện tập làm cho
khả năng vận dụng những kiến thức hay những kinh nghiệm của bản thân
vào thực tế ngày càng thành thạo, giải quyết được mục tiêu đề ra. Bởi việc
hình thành được các kĩ năng thì chưa đủ, kĩ năng đó chỉ đạt được hiệu quả
trong hoàn cảnh nhất định mà giáo viên đã từng định hướng cho người
học. Vì vậy, các em cần phải luyện tập thành thạo các kĩ năng đó trong
những hoàn cảnh khác nhau, cụ thể là trong từng nội dung, bài học.
Hình thành và phát triển kĩ năng nói chung, kĩ năng sử dụng SGK
lịch sử nói riêng có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học bộ môn
Lịch sử ở trường phổ thông. Đây là việc làm không thể thiếu góp phần
nâng cao hứng thú của HS và thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ bộ môn.
- Phát triển kĩ năng tự học cho học sinh THPT
Giáo viên luôn giữ một vai trò quan trọng trong quá trình dạy học, là
người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của học
sinh. Tuy nhiên, dù giáo viên có kiến thức chuyên môn uyên thâm, giảng
dạy hay, nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian tự học thì kết quả học
tập sẽ không được cao, bởi : Dạy giỏi là biết kích thích tự học theo đúng
quy luật của tâm lý, tư duy khiến cho năng lực tự học phát triển, nhờ vậy
mà kiến thức cũng giàu lên nhanh một cách vững chắc, sâu sắc.
Tự học là quá trình đấu tranh của chính bản thân người học để giải
quyết mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo học tập, với một bên là khả năng hiện có của HS. Giải
quyết được mâu thuẫn này, sẽ giúp HS phát triển về mặt nhận thức nói
riêng và nhân cách nói chung.
23
Đối với HS, tự học được coi là một hệ thống các thao tác nhằm biến
các nguồn tri thức đã tiếp thu thành kiến thức riêng của bản thân. Trong
học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc chiếm lĩnh
kiến thức mà không nhất thiết phải có thầy ở bên cạnh để trực tiếp trao đổi.
Nhờ có quá trình tự học mà HS có thể làm phong phú giá trị của bản thân
mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri
thức bên trong con người. Rèn luyện kĩ năng tự học là quá trình làm đi làm
lại nhiều lần cách học với sự tự giác, tính tích cực và độc lập cao của từng
cá nhân.
Đối với HS ở trường THPT, kĩ năng tự học gắn liền với sự hướng
dẫn của GV. Học sinh có kĩ năng tự học lịch sử thể hiện ở việc các em độc
lập hoàn thành những nhiệm vụ được giao với sự giúp đỡ, hướng dẫn,
kiểm tra của giáo viên. Quá trình tự học của HS chủ yếu dựa vào nội dung
SGK, GV giao nhiệm vụ cho HS, HS dựa vào SGK để hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Vì vậy, phát triển kĩ năng tự học cho HS gắn liền với phát
triển cho HS các kĩ năng sử dụng SGK.
1.1.1.3. Phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh
Việc phát triển các kĩ năng sử dụng SGK cho HS là cơ sở giúp HS
nắm vững được hệ thống các kiến thức cơ bản của bộ môn, theo quy định
của chương trình. Trên nền tảng biết khai thác, vận dụng các kiến thức
trong bài viết, HS “hiểu” sâu sắc lịch sử, từ đó có thể vận dụng những hiểu
biết ấy vào thực tiễn cuộc sống.
Phát triển kĩ năng sử dụng SGK lịch sử cho HS phát huy được vai
trò bộ môn trong việc phát triển năng lực tư duy, thực hành, phương pháp
nhận thức lịch sử. Ngoài ra, HS có được các kỹ năng sử dụng sách giáo
khoa cơ bản sẽ có nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc sử
dụng sách giáo khoa trong học tập.
Kĩ năng sử dụng SGK được chia thành các kĩ năng: Kĩ năng vận
dụng sơ đồ Đairi trong quá trình lên lớp, khai thác và sử dụng triệt để các
24
loại câu hình câu hỏi, bài tập, đoạn trích, phần đọc thêm trong giờ học, kĩ
năng sử dụng kênh hình, kĩ năng sử dụng SGK ở nhà,
Theo từ điển Tiếng Việt, “sử dụng” nghĩa là đem dùng vào mục đích
nào đó. Kĩ năng sử dụng sách giáo khoa gồm những kĩ năng thành phần
như kĩ năng lập dàn ý, trình bày, kĩ năng ghi chép tóm tắt,…
Như vậy, có thể hiểu: Phát triển kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cho
học sinh là quá trình học sinh thực hiện có kết quả các hoạt động làm việc
với sách giáo khoa đạt chất lượng tốt.
1.1.1.4. Vai trò của sách giáo khoa lịch sử đối với học sinh.
Sách giáo khoa nói chung và SGK Lịch sử nói riêng là loại sách
được dùng phổ biến nhất đối với HS trong quá trình học tập ở trường phổ
thông. Sách giáo khoa không chỉ có vai trò cung cấp kiến thức cho học
sinh mà còn góp phần thực hiện mục tiêu phát triển người học như
I.F.Kharlamop đã viết: “Sách giáo khoa giữ vai trò to lớn trong việc phát
huy tính tích cực hoạt động tư duy của học sinh khi nghiên cứu tài liệu
mới”[17, tr. 182]
Các nhà giáo dục học Liên Xô khẳng định: đối với học sinh sách
giáo khoa là tài liệu mà khi học tập bằng tài liệu đó các em có thể tập dượt
và rèn luyện thành thạo khả năng tự học, tự rèn luyện bài đọc có tính khoa
học. Nội dung kiến thức được trình bày trong SGK là những vấn đề cơ bản
của lịch sử thế giới cũng như lịch sử Việt Nam phù hợp với mục tiêu và
nội dung chương trình đào tạo đã quy định.
Trong quá trình học tập của HS, SGK là tài liệu cơ bản, bắt buộc
giúp các em nắm vững những kiến thức lịch sử cơ bản, phát huy khả năng
tự học, tự nghiên cứu SGK lịch sử là phương tiện cung cấp kiến thức
mới cho HS, đồng thời còn giúp HS ôn tập, củng cố những kiến thức đã
học, có thể tự kiểm tra, đánh giá trình độ nhận thức, cũng như rèn luyện
các kĩ năng thực hành lịch sử cho các em. Ngoài ra, kiến thức lịch sử trong
SGK còn có tác dụng to lớn đối với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo
25
đức và phát triển toàn diện học sinh, phát triển các kĩ năng: kĩ năng học
tập, kĩ năng sử dụng tài liệu, kĩ năng tự học, năng lực học tập độc lập,
Như vậy, SGK lịch sử là tài liệu không thể thiếu được đối với việc
học tập của học sinh. Hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng SGK lịch
sử cho HS là việc làm cần thiết, là khâu quan trọng trong quá trình dạy
học, góp phần phát huy tính tích cực, chủ động học tập cho HS.
Cấu tạo của sách giáo khoa lịch sử
Cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về cấu tạo
của sách giáo khoa nói chung cũng như sách giáo khoa Lịch sử nói riêng.
Nhìn chung, có hai quan niệm cơ bản sau về sách giáo khoa Lịch sử:
- Quan niệm thứ nhất: thường phân chia nội dung sách giáo khoa ra
hai phần: kênh chữ và kênh hình.
Kênh chữ là những thông tin thành văn chủ yếu trong sách giáo khoa
dùng để trình bày nội dung tri thức của môn học, chỉ dẫn về phương pháp
học tập, về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Kênh hình bao gồm những ảnh chụp, tranh vẽ, hình vẽ, sơ đồ, đồ
thị, phục vụ cho nội dung của kênh chữ trong SGK
- Quan niệm thứ hai là: chia nội dung sách giáo khoa thành hai phần:
bài viết và cơ chế sư phạm.
Bài viết là nội dung cơ bản của chương trình được trình bày ngắn
gọn trong một số trang cho một tiết học, là một bộ phận chủ yếu trong
SGK mà học sinh nhất thiết phải nghiên cứu, nắm vững.
Cơ chế sư phạm chỉ tất cả các thành tố còn lại ngoài bài viết trong
sách giáo khoa, dành cho một tiết học, nó bao gồm: câu hỏi, bài tập, tài
liệu tham khảo, đọc thêm, tranh ảnh, bản đồ, các loại đồ dùng trực quan
quy ước khác (sơ đồ, đồ thị, biểu đồ,…). Phần này giúp các em hiểu sâu
sắc bài viết, kiểm tra kết quả nhận thức, rèn luyện các kĩ năng thực hành,
phát triển năng lực tư duy độc lập, thông minh, sáng tạo. Thực tế cách
phân chia thành bài viết và cơ chế sư phạm dễ được tiếp nhận hơn vì nó