Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

5 địa vị pháp lý của luật phá sản và những điểm mới của luật phá sản 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.18 KB, 16 trang )

MC LC
Trang
Li m u 2
CHNG I: Lí LUN CHUNG V PHP LUT PH SN THEO LUT
PH SN 2004
3
1. Khái quát thực hiện pháp luật phá sản 2004.
3
2. Khái niệm pháp luật phá sản theo luật phá sản 2004
4
3. Vai trò của pháp luật về phá sản
5
CHƯƠNG II: những nội dung cơ bản của Luật phá
sản 2004
7
1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản
7
2. Những chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản
9
3. Tài sản phá sản và việc xác định t cách chủ nợ
9
Chơng iIi: một số điểm mới của luật phá sản năm
2004 so vói Luật phá sản 1993
10
1. V khỏi nim phỏ sn 10
2. Quyền Nộp đơn
10
3. Mở thủ tục phá sản
11
4. Đối với ngời lao động: 11


5. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong trờng hợp đặc biệt 12
6. Xác định nghĩa vụ tài sản. 13
7. Kiểm kê xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản
13
8. Thu hồi, quản lý và bảo toàn tài sản
14
9. Bán đấu giá tài sản
15
10. Tổ quản lý thanh lý tài sản
15
11. Về thanh toán nợ cụ thể nh sau 16
Kt lun 17
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Tại Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 quy định : “Doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì
được coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Phá sản không loại trừ bất cứ một
doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường khi việc kinh doanh không
mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, phá sản cũng lại là cơ hội cho các doanh nghiệp
phục hồi lại hoạt động kinh doanh của mình khi tiến hành thủ tục phục hồi
doanh nghiệp trong trình tự phá sản. Như vậy, ta có thể thấy rằng phá sản giữ
một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của các
doanh nghiệp nói riêng.
Luật phá sản là một bộ phận rất quan trong hệ thống pháp luật kinh
doanh của các nước trên thế giới. Ở Việt Nam đã ban hành Luật phá sản đầu
tiên vào năm 1993, sau một thời gian tồn tại và điều chỉnh nghiệp đã phát huy
được vai trò của mình trong hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, với
tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường như giai đoạn hiện nay thì sự điều

chỉnh của Luật phá sản năm 1993 là không còn phù hợp. Luật phá sản 2004 ra
đời thay thế cho Luật phá sản năm 1993 đã đáp ứng được những yêu cầu của
tình hình mới.
Với mong muốn tìm hiểu về những quy định mới của Luật phá sản 2004
và địa vị pháp lý trong Luật thương mại mà tôi lựa chọn đề tài “ Địa vị pháp
lý của luật phá sản và những điểm mới của luật phá sản 2004” làm đề tài
tiểu luận của mình. Trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin còn nhiều
hạn chế nên bài tiểu luận của tôi còn rất nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
2. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, kết cấu của đề tài gồm 03 phần
Chương I: Lý luận chung về pháp luật phá sản theo Luật phá sản 2004
Chương II: Những nội dung cơ bản của Luật phá sản 2004
Chương III: Một số điểm mới của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản
1999
2
CHNG I: Lí LUN CHUNG V PHP LUT PH SN THEO LUT
PH SN 2004
1. Khái quát thực hiện pháp luật phá sản 2004.
Về các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ở nớc ta còn
rất ít, từ 1993 đến 2003 là chặng đờng dài 10 năm nhng các cấp toà án chỉ giải
quyết đợc 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và chỉ 46 doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản. Nh vậy số doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục thanh
lý cũng chỉ nằm ở con số 46 hoặc dới 46 doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản.
Theo báo cáo tổng kết năm 2005 và phơng hớng nhiệm vụ công tác năm
2006 của ngành toà án do toà án nhân dân tối cao tổng kết thì trong năm 2005
các toà án phải giải quyết 14 vụ trong đó thụ lý mới 11 vụ và 3 vụ của năm
2004 chuyển qua. Các toà án mới giải quyết đợc 1 vụ đạt 1,19 % còn laị 13 vụ
cha giải quyết. Nh vậy lợng đơn xin phá sản gửi toà án tăng hơn năm 2004

(năm 2004 chỉ thụ lý 5 vụ) là do Luật phá sản 2004 khả thi hơn trớc đây, tuy
nhiên con số này vẫn quá khiêm tốn so với thực tế các doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản.
Luật phá sản 2004 ra đời là một bớc tiến quan trọng, một bớc ngoặt trong
việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của toà án
nhân dân. Hầu hết những vớng mắc bất hợp lý của Luật phá sản 1993 đã đợc
sửa đổi bổ sung, có nhiều vấn đề đã tiếp cận đợc Luật phá sản của các nớc có
nền kinh tế thị trờng phát triển trong khu vực và châu lục nh : Thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh hoặc quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị tuyên bố phá sản trong trờng hợp đặc biệt mà luật phá sản 1993 không có.
Luật cũ quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp đó. Luật cũng quy định quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của
chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nớc, các cổ đông của công ty cổ phần và thành
viên công ty hợp danh. Nh vậy sẽ khắc phục đợc trờng hợp ngời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp cố tình lẩn tránh việc đa đơn xin mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp vì những lý do động cơ khác nhau.
Luật phá sản 2004 không những bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu các doanh nghiệp
Nhà nớc, các cổ đông của công ty cổ phần và lợi ích của ngời lao động, đồng
thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hợp tác xã có cơ hội sớm trở lại tham
gia hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn. Mặt khác nó góp phần vào việc cơ
3
cấu lại vốn, thúc đẩy lu thông nguồn vốn và tổ chức lại sản xuất kinh doanh
tốt hơn.
2. Khái niệm pháp luật phá sản theo luật phá sản 2004
Những quy định của Nhà nớc về điều kiện, thủ tục giải quyết các quan hệ
xã hội liên quan đến phá sản tạo thành một hệ thống pháp luật về phá sản.
Pháp luật về phá sản là một bộ phận cấu thành nhóm các chế định pháp luật về
giải quyết hậu quả của khung pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trờng.
Trong hệ thống pháp luật phá sản thì Luật phá sản có vị trí quan trọng nhất,

bởi vì, phần lớn những quy định quan trọng mang tính nguyên tắc nh phạm vi
áp dụng, điều kiện mở thủ tục, trình tự, thủ tục giải quyết, thứ tự u tiên đi phân
chia tài sản phá sảnthờng chứa đựng trong đạo Luật này. Song việc giải
quyết phá sản cho một doanh nghiệp không chỉ có giới hạn ở những quan hệ
tài sản. Ngợc lại có rất nhiều quan hệ xã hội khác phát sinh từ việc mất khả
năng thanh toán nợ của doanh nghiệp mà pháp luật phải điều chỉnh nh quyền,
lợi ích hợp pháp của ngời làm công, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp hoặc
ngời tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, chức năng, nhiệm vụ của cá
nhân, tổ chức tham gia giải quyết vụ phá sản
Việt nam đến cuối năm 1993 Luật phá sản doanh nghiệp mới ra đời nhng
trớc đó trong luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân đã có những quy định về
phá sản. Tuy nhiên, do sự ra đời muộn vì thế pháp luật phá sản Việt nam chủ
yếu dựa trên các quy định và thông lệ chung của pháp luật phá sản của các n-
ớc trên thế giới. Để nắm bắt kịp thời với nhịp độ phát triển của nền kinh tế xã
hội, đòi hỏi pháp luật phá sản doanh nghiệp Việt nam không những hoàn thiện
để phù hợp với thực trạng nền kinh tế - xã hội ở nớc ta cũng nh pháp luật phá
sản trên thế giới.
Pháp luật phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nớc ban
hành để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong việc tuyên bố phá sản
doanh nghiệp và những vấn đề liên quan trực tiếp đến việc phá sản doanh
nghiệp. Pháp luật và phá sản là một chế định quan trọng và không thể thiếu đ-
ợc trong nền kinh tế thị trờng để giải quyết hậu quả cạnh tranh giữa các chủ
thể kinh doanh.
3. Vai trò của pháp luật về phá sản:
Phá sản là hiện tợng riêng của nền kinh tế thị trờng. Kinh nghiệm cho
thấy bất kỳ ở đâu, trong giai đoạn phát triển nào, khi cạnh tranh càng trở nên
nghiệt ngã thì tình trạng phá sản cũng diễn ra phổ biến và phức tạp hơn. Để
4
phát triển kinh tế và duy trì trật tự, kỷ cơng xã hội nhiệm vụ của Nhà nớc là
phải thông qua các công cụ pháp luật tạo (sân chơi - hành lang pháp lý) an

toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời ngăn ngừa và hạn chế
những tác động tiêu cực do quan hệ kinh tế thị trờng gây ra.
Trong số các chế định về giải quyết hậu qủa và hạn chế rủi ro nh tài phán
kinh tế, thanh lý, giải thểPháp luật về phá sản có vị trí hết sức quan trọng
không chỉ riêng với các chủ thể kinh doanh mà cả đối với trật tự kinh tế - xã
hội nói chung. Vai trò này thể hiện ở chỗ:
* Pháp luật về phá sản là công cụ để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của ngời đầu t. Pháp luật phá sản ( thiết kế ) sẵn một thủ tục đặc thù bảo đảm
các quyền về tài sản của chủ nợ trớc những rủi ro mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn của con nợ gây ra. Thông qua việc yêu cầu tuyên bố phá sản đối với
con nợ, chủ nợ có cơ hội thu hồi lại, thờng là một phần giá trị tài sản đầu t dới
dạng cho vay. Xét về bản chất, đó là cơ chế pháp lý nhằm hạn chế những rủi
ro thị trờng mà trong điều kiện cạnh tranh, bất kỳ lúc nào cũng có thể xảy ra
đối với nhà đầu t. Mặt khác, vai trò bảo vệ chủ nợ còn thể hiện ở chỗ pháp luật
về phá sản góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ nợ với nhau trong
quan hệ phá sản đối với con nợ. Cụ thể đối với pháp luật về phá sản không cho
phép từng chủ nợ tìm cách lợi dụng vị thế riêng của mình để đi kiện riêng rẽ
con nợ bị phá sản để thu hồi nợ, coi đó nh một hành vi cạnh tranh không hợp
pháp, gây thiệt hại đến quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Đồng
thời với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, điều đáng lu ý là
pháp luật còn đóng vai trò Chiếc lá chắn cho con nợ trớc những sức ép và
phơng thức đòi nợ mang tính chất tự phát ca chủ nợ.
* Pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-
ời lao động. Hậu quả xã hội đáng lu ý nhất do sự phá sản doanh nghiệp gây ra
là ảnh hởng về việc làm và thu nhập của ngời lao động. Vì vậy, bảo vệ quyền
và lợi ích của ngời lao động luôn là một nội dung quan trọng của pháp luật về
phá sản. Bằng những quy định cụ thể, pháp luật phá sản xác định những
nguyên tắc, căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ quyền và lợi ích vật chất của ngời
lao động cũng nh quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ và
các bên có liên quan. Theo quy định của pháp luật phá sản nớc ta, ngời lao

động không những có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mà các quy
định về thứ tự u tiên khi phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, chế
độ trợ cấp, bảo hiểm, thôi việcđều thể hiện tinh thần bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của ngời lao động khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
5
* Pháp luật về phá sản là công cụ tái tổ chức doanh nghiệp, hợp tác xã
kinh doanh thua lỗ và góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Có thể nói đây là vai
trò hết sức quan trọng mà hầu hết các đạo luật phá sản hiện đại trên thế giới
đều hớng tới. Thông qua cơ chế hoà giải, tái tổ chức lại doanh nghiệp, hợp tác
xã pháp luật về phá sản tạo cơ hội để doanh nghiệp, hợp tác xã đang gp khó
khăn về tài chính phục hồi lại sản xuất kinh doanh.
* Pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ trật tự kỉ cơng xã hội. Nh phần
trên đã đề cập việc phá sản có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Những hậu quả này nhiều khi là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xáo trộn,
những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội. Vì vậy, thông qua việc giải
quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và con nợ, giữa chủ nợ với
nhau. Pháp luật về phá sản góp phần hạn chế những mâu thuẫn và xung đột lợi
ích giữa các chủ thể có liên quan, bảo vệ trật tự kỷ cơng xã hội.
CHƯƠNG II: những nội dung cơ bản của Luật phá sản 2004
1. Phạm vi áp dụng của Luật phá sản
Điều 1 Luật phá sản quy định: Luật này áp dụng đối với các doanh
nghiệp, hợp tác xã liên hiệp hợp tác xã (hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi
chung là hợp tác xã ) đợc thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
* ở đây, chúng ta cần lu ý, tại Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp còn có
quy định Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối
với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh
nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và
trong các lĩnh vực khác thờng xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích thiết yếu
Xét về mặt nguyên lý, dới sự tác động của quy luật cạnh tranh trong điều

kiện kinh tế thị trờng, mọi doanh nghiệp, hợp tác xã không phân biệt quy mô,
lĩnh vực kinh doanh và bất kể thuộc thành phần kinh tế nào đều có thể rơi vào
tình trạng không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, việc xem xét để tuyên bố
phá sản lại tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Chẳng hạn, do vai trò và tính nhạy cảm
của nền kinh tế thị trờng nên ở nhiều nớc việc tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp kinh doanh tài chính, tiền tệ, kinh doanh bảo hiểm đợc áp dụng theo cơ
6
chế riêng và điều này Luật các Tổ chức tín dụng đợc Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 và sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 5 ngày 15/06/2004, quy định tại
chơng V, mục 1 điều 91: Báo cáo khó khăn về khả năng chi trả. Khi có nguy
cơ mất khả năng thanh toán cho khách hàng của mình, tổ chức tài chính tín
dụng phải báo cáo ngay với Ngân hàng Nhà nớc về tình trạng tài chính,
nguyên nhân và các biện pháp đã áp dụng, dự kiến biện pháp khắc phục và
tại Điều 92 - áp dụng kiểm soát đặc biệt:
1. Kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín dụng đợc đặt dới sự kiểm
soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nớc do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất
khả năng thanh toán.
2. Ngân hàng Nhà nớc có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện kịp thời những
trờng hợp có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán nợ khi
đến hạn.
3. Tổ chức tín dụng có thể đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt trong
những trờng hợp sau:
+ Có nguy cơ mất khả năng chi trả
+ Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán.
+ Khi số luỹ kế của tổ chức tín dụng lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ
thực có và các quỹ.
Chỉ khi nào Ngân hàng Nhà nớc có văn bản về việc không áp dụng hàng
hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán nợ đến
hạn thì có thể bị Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo
quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp (Điều 98 Luật tố chức tín

dụng).
Nh vậy, đối với một số doanh nghiệp trực tiếp phục vụ an ninh, quốc
phòng và dịch vụ công cộng quan trọng, pháp luật phá sản Việt nam có một số
quy định đặc thù. Sở dĩ có những quy định nh vậy là việc phá sản các doanh
nghiệp này trong một số trờng hợp gây ra nhiều hậu quả cho xã hội.
7
Việc Luật phá sản doanh nghiệp Việt nam quy định các doanh nghiệp có
thể bị phá sản khi lâm vào tình trạng phá sản trên cơ sở hiến pháp năm 1992
của nớc Cộng hoà XHCN Việt nam: Các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng trớc pháp luật Sự bình đẳng này đợc xem trên
cơ sở lợi ích của toàn thể quốc gia và cộng đồng xã hội. Luật phá sản doanh
nghiệp đã quy định : không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp với mọi
hình thức sở hữu khác nhau, quy mô kinh doanh, khi đã không có khả năng
thanh toán nợ đến hạn và tình trạng trầm trọng, vô phơng cứu chữa thì bị xử lý
theo Luật này. Tuy nhiên, về điều kiện mở thủ tục giải quyết phá sản thì có
một vài sự khác nhau nh đã phân tích ở trên.
2. Những chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản .
Việc xác định những đối tợng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu cho phép cá nhân, tổ
chức nào cũng có quyền làm đơn ra Toà án yêu cầu tuyên bố phá sản thì khó
có thể tránh đợc sự lạm dụng cơ hội này để hạ uy tín hoặc gây khó khăn cho
các đổi thủ cạnh tranh của mình. Ngợc lại nếu hạn chế quyền này một cách
quá đáng, tuỳ tiện, không dựa trên cơ sở khoa học nào thì hậu quả sẽ làm cho
việc giải quyết phá sản khó bị phát hiện, ảnh hởng xấu đến quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của các nhà kinh doanh có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp mắc nợ.
Vì vậy, pháp luật phá sản của các nớc cũng nh pháp luật phá sản Việt nam đều
quan tâm giải quyết vấn đề này. Thực chất của thủ tục phá sản là giải quyết
mối quan hệ về mặt tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Vì vậy, Luật phá sản của tất
cả các nớc đều coi chủ nợ là chủ thể số một có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên

bố phá sản con nợ.
3. Tài sản phá sản và việc xác định t cách chủ nợ.
Theo thông lệ chung, tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản ở thời điểm ấn định ngừng thanh toán, trong quyết định thụ lý hồ
sơ phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, pháp luật về phá sản của các nớc khác
nhau thì quy định khác nhau, chẳng hạn thời hạn đó là ba tháng, sáu tháng tr-
ớc ngày ngừng trả nợ. Lý do của việc quy định này là xuất phát từ quan điểm
cho rằng phá sản là một quá trình, ở vào thời điểm đó, chủ doanh nghiệp phải
biết rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp mình. Do vậy, tại Điều 43 Luật
8
phá sản Việt Nam quy định những hành vi giao dịch sau đây của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đợc thực hiện trong khoảng thời
gian ba tháng trớc ngày toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là
vô hiệu và trong trờng hợp giải quyết phá sản thì phải đợc thu hôi để nhập vào
khối tài sản doanh nghiệp, hợp tác xã:
- Tặng cho động sản và bất động sản cho ngời khác,
- Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh
nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là phần lớn hơn nghĩa vụ của bên kia.
- Thanh toán các khoản nợ cha đến hạn,
- Thực hiện việc thế chấp cầm cố đối với tài sản đối với các khoản nợ
Chơng iIi: một số điểm mới của pháp luật phá sản năm
2004 so vói Luật phá sản 1993
1. V khỏi nim phỏ sn.
Luật phá sản 1993 ra đời ngày 30-12-1993 qui định Doanh Nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong
hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết
mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Khái niệm này đợc hớng dẫn cụ
thể tại Nghị định 198/CP ngày 23/12/994 hớng dẫn thi hành Luật phá sản
1993.
Theo Điều 3 Luật phá sản 2004 Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá

sản là doanh nghiệp không trả đợc các khoản nợ đến hạn khi có yêu cầu của
chủ nợ
Nh vậy một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi:
- Có nợ đến hạn
- Không thanh toán đợc khi có yêu cầu thanh toán của chủ nợ
So với Luật phá sản 1993 thì tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản của Luật phá sản 2004 đơn giản hơn. Việc mở thủ
tục phá sản sớm hơn tuy là bất lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản nhng sẽ bảo vệ đợc quyền lợi cho chủ nợ và ngời lao động. Mặt
khác đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, mở thủ tục
phá sản sớm cũng có ý nghĩa cảnh báo với doanh nghiệp, hợp tác xã về tình
trạng khó khăn của họ để sớm có biện pháp khắc phục.
9
2. Quyền Nộp đơn.
So với luật phá sản năm 1993 thì luật phá sản năm 2004 đã quy định mở
rộng hơn thành phần những ngời có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo hớng thuận lợi, hợp lý hơn và đơn giản hóa
các điều kiện nộp đơn đối với các chủ nợ và ngời lao động. Các chủ nợ không
cần bắt buộc phải cung cấp các giấy tờ tài liệu chứng minh doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Ngời lao động có quyền nộp đơn
mà không cần căn cứ trên việc doanh nghiệp không trả đợc lơng trong 3 tháng
liên tiếp nh trớc đây. Quy định này bảo đảm hơn quyền đợc thanh toán cho các
chủ thể này.
3. Mở thủ tục phá sản.
Theo luật phá sản 2004 tổ quản lý thanh lý tài sản thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản không tách làm hai tổ nh trớc đây trong luật phá sản 1993.
Quy định mới sẽ tạo điều kiện để Tổ quản lý thanh lý thống nhất hoạt động,
tiết kiệm chi phí và tiến hành các hoạt động của mình một cách nhanh chóng
hiệu quả hơn.

Tổ quản lý thanh lý tài sản phải lập danh sách chủ nợ và số nợ của từng
chủ nợ gửi cho Tòa án để niêm yết công khai tại trụ sở tòa án tiến hành thủ tục
phá sản và tại trụ sở chính của doanh nghiệp, hợp tác xã. Mặt khác Tổ cũng
phải lập danh sách những ngời mắc nợ doanh nghiệp hợp tác xã, đăng ký giao
dịch bảo đảm cho doanh nghiệp hợp tác xã này nếu doanh nghiệp, hợp tác xã
cho ngời khác vay có tài sản bảo đảm phải đăng ký giao dịch bảo đảm theo
quy định của pháp luật. Trờng hợp đối tợng của nghĩa vụ không phải là tiền thì
theo yêu cầu của ngời có quyền hoặc của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản, tòa án phải xác định giá trị của nghĩa vụ đó vào thời điểm
mở thủ tục phá sản để đa vào nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
phá sản.
So với luật phá sản 1993 thời điểm mở thủ tục phá sản theo luật phá sản
2004 là khá sớm, nh vậy sẽ bảo đảm tốt hơn quyền đợc thanh toán cho các chủ
nợ.
4. Đối với ngời lao động:
Ngời lao động là những ngời làm công ăn lơng, thậm chí đồng lơng ít ỏi
của họ phải nuôi cả gia đình. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
10
phá sản thì ngời thiệt thòi và khó khăn nhất chính là ngời lao động, họ không
những mất đi việc làm mà còn có nguy cơ mất lơng. Theo quy định của luật
phá sản 1993 thì doanh nghiệp coi nh lâm vào tình trạng phá sản nếu 3 tháng
liền không trả đợc tiền lơng cho ngời lao động. Nếu theo Luật cũ thì ngời lao
động sẽ có thể phải làm không công cho doanh nghiệp mà không đợc nhận
đồng lơng nào nếu doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán các khoản
nợ.
Vì vậy luật phá sản 2004 đã bỏ điều kiện đó, mặt khác điều đặt ngời lao
động ở vị trí thứ hai trong thứ tự u tiên thanh toán. Rõ ràng đây là quy định có
lợi hơn cho ngời lao động.
5. Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản trong trờng hợp đặc biệt
Lụât phá sản 1993 cha có và quy định này. Đây là một trờng hợp riêng

không đợc nằm trong điều 5 luật phá sản. Quy định này rất mới mà trớc đây
đã tiến sát pháp luật một số nớc trong khu vực và thế giới. Gọi là trờng hợp
đặc biệt vì chỉ áp dụng với doanh nghiệp nhà nớc và việc áp dụng những biện
pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động kinh doanh trong trờng hợp này không đ-
ợc coi là thủ tục phục hồi nh tại khoản 1 điều 5 Luật phá sản 2004 đề cập tới.
Các doanh nghiệp nhà nớc trong giai đoạn đổi mới gặp rất nhiều khó
khăn phải đối chọi trớc thị trờng cạnh tranh khốc liệt, trong khi đó trình độ
khoa học kỹ thuật còn nhiều yếu kém, đội ngũ cán bộ chuyên môn còn mỏng.
Các doanh nghiệp Nhà nớc lại đang từng bớc cổ phần hoá nên gặp rất nhiều
trở ngại, bớc đầu cần đợc nhà nớc nâng đỡ.
Khi doanh nghiệp nhà nớc lâm vào tình trạng phá sản, nhà nớc căn cứ trên số
liệu thực tế và xem xét khả năng có thể phục hồi hay không và trên cơ sở đề
xuất của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nớc, Nhà nớc sẽ rót một khoản tiền để
thực hiện biện pháp phục hồi nếu không thành mới quyết định thanh lý tài sản
của doanh nghiệp đó.
11
6. Xác định nghĩa vụ tài sản.
Nếu nh Luật phá sản 1993 không quy định về nghĩa vụ tài sản trong trờng
hợp liên đới, bảo lãnh thì Luật phá sản 2004 lại quy định trong 1 điều luật
riêng và NQ 03/2005 cũng có hớng dẫn trờng hợp này.
Quy định này là một quy định tiến bộ và hợp lý, nó bảo đảm quyền lợi
chính đáng cho doanh nghiệp đợc bảo lãnh khi doanh nghiệp này lâm vào tình
trạng phá sản. Ngời bảo lãnh cũng đợc bảo vệ chính đáng mà vẫn bảo đảm đợc
quyền thu hồi nợ của bên nhận bảo lãnh.
Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nớc đã đợc áp dụng các biện pháp đặc
biệt để phục hồi mà không phục hồi đợc và không thanh toán đợc nợ thì phải
hoàn trả lại nhà nớc các tài sản đã đợc nhà nớc đầu t để phục hồi. Quy định
này trớc đây Luật phá sản 1993 không có do đó tài sản của Nhà nớc đợc sử
dụng để phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp sau đó cũng bị coi
nh là tài sản phá sản.

7. Kiểm kê xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản
Kiểm kê là hoạt động nhằm xác định khối tài sản còn lại của doanh
nghiệp Luật phá sản 1993, Luật phá sản 2004 quy định rõ hơn việc xác định
tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá sản 1993 quy
định tài sản của doanh nghiệp bị giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản gồm
toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Tài sản của doanh
nghiệp t nhân và của doanh nghiệp hợp danh còn bao gồm cả tài sản của chủ
doanh nghiệp t nhân và tài sản của thành viên hợp danh trong công ty hợp
danh không trực tiếp dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nh vậy quy
định của luật phá sản cũ chỉ dừng lại ở những tài sản của con nợ ở thời điểm
có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật phá sản 2004 quy định tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm không chỉ tài
sản quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm toà án thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà còn có các khoản lợi nhuận, các tài sản
và các quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã đó do thực hiện các giao
dịch đợc xác lập trớc khi toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, giá trị
quyền sử dụng đất cũng đợc tính vào tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo
quy định của pháp luật đất đai (điều 49 Luật phá sản 2004). Song điểm còn
hạn chế của cả Luật phá sản 1993 và Luật phá sản 2004 là đã gộp chung việc
xác định tài sản của doanh nghiệp; hợp tác xã với nhau vì đối với xác định tài
sản của hợp tác xã cần có một số quy định riêng.
12
8. Thu hồi, quản lý và bảo toàn tài sản
Luật phá sản 1993 quy định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã giải
quyết đợc vấn đề còn bất cập trong đó cha quy định thẩm quyền của Thẩm
phán ra quyết định áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời nào gây ra sự
bất đồng giữa toà án và viện kiểm sát về vấn đề này. Nếu đơng sự không đồng
ý với quyết định của toà án thì có thể khiếu nại trong thời hạn 3 ngày. Đây
cũng là một quy định mới nhằm bảo vệ quyền lợi của đơng sự. Vì vậy sau khi

thu hồi tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã đợc xác định
vào thời điểm kiểm kê có thể tăng lên do đó cần đặt ra vấn đề xác định lại giá
trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản sau khi đã
có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
Luật phá sản 1993 quy định tách Tổ quản lý thanh lý tài sản thành hai tổ
là Tổ quản lý tài sản do Toà án thành lập và Tổ thanh lý tài sản do cơ quan thi
hành án thành lập Việc thu hồi quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản do Tổ quản lý thanh lý tiến hành. Nhng qua thực
tiễn áp dụng pháp luật sau 10 năm cho thấy với cơ cấu nh vậy ít mang lại hiệu
quả, vừa cồng kềnh, vừa chi phí lớn do đó
Luật phá sản 2004 đã gộp 2 tổ đó thành một tổ duy nhất là Tổ quản lý
thanh lý tài sản để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ là quản lý và thanh lý tài
sản. Thành phần của Tổ quản lý thanh lý tài sản cũng đơn giản hơn luật cũ, chỉ
có 4 ngời gồm 1 chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ tr-
ởng, 1 cán bộ toà án, 1 đại diện chủ nợ, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp,
hợp tác xã bị mở thủ tục thanh lý tài sản, trong trờng hợp cần thiết có thể có
thêm đại diện công đoàn, đại diện ngời lao động, đại diện cơ quan chuyên
môn tham gia và do Thẩm phán xem xét quyết định. Việc thanh lý tài sản lúc
này đợc giao cho tổ quản lý thanh lý tài sản tiến hành dới sự chỉ đạo giám sát
của thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản. Cơ quan thi hành án chỉ phối hợp
giúp đỡ Tổ quản lý thanh lý tài sản trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà
thôi.
9. Bán đấu giá tài sản.
Bán đấu giá là hình thức bán tài sản công khai mà có nhiều ngời muốn
tham gia trả giá theo thủ tục quy định tại quy chế bán đấu giá. Ngời trả giá
cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là ngời đợc mua tài sản bán đấu giá đó.
So với Luật phá sản 1993 thì luật phá sản 2004 đã loại bỏ những quy định
rờm rà trớc đây. Điều 44 Luật phá sản 1993 quy định việc bán đấu giá các tài
sản của doanh nghiệp phải có công chứng Nhà nớc chứng nhận. Nếu tài sản
13

đem bán đấu giá là thiết bị đồng bộ thì phải bán đồng bộ, trừ khi không bán đ-
ợc đồng bộ mới bán thiết bị lẻ. Đơn giản những thủ tục đó khiến cho hoạt
động đấu giá đợc diễn ra nhanh chóng hơn và tiết kiệm đợc một phần chi phí
cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên xung
quanh hoạt động bán đấu giá còn rất nhiều khó khăn.
10. Tổ quản lý thanh lý tài sản.
Luật phá sản 1993 quy định : Tổ trởng tổ thanh toán tài sản phải mở tài
khoản phá sản doanh nghiệp tại ngân hàng chậm nhất sau 5 ngày kể từ ngày
có quyết định thành lập Tổ thanh toán tài sản và làm chủ tài khoản phá sản.
Toàn bộ khoản tiền thu đợc của doanh nghiệp phá sản phải đợc gửi vào tài
khoản phá sản doanh nghiệp chậm nhất là sau 3 ngày kể từ ngày thu, nếu gửi
chậm phải chịu phạt theo mức lãi suất cho vay cao nhất do ngân hàng nhà nớc
quy định trong từng thời kỳ để áp dụng trong quan hệ cho vay giữa ngân hàng
thơng mại với các tổ chức kinh tế. Rõ ràng các quy định sau có cụ thể hơn
các quy định trớc và gắn trách nhiệm cho Tổ thanh toán tài sản cao hơn trớc
đây.
Luật phá sản 2004 khoản 1 điều 11 cũng quy định Tổ trởng Tổ quản lý
thanh lý tài sản phải mở tài khoản tại ngân hàng để gửi các khoản tiền thu đợc
từ những ngời mắc nợ và từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp và
hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý trong trờng hợp cần thiết. Từ quy định
trên chúng ta thấy hai điểm sau: tiền sử dụng để thanh toán cho các chủ nợ sẽ
gồm tiền thu đợc từ những ngời mắc nợ và từ việc bán tài sản, việc mở tài
khoản không phải là bắt buộc mà chỉ trong trờng hợp cần thiết.
11. Về thanh toán nợ cụ thể nh sau :
Luật phá sản 2004 vẫn quy định thứ tự u tiên nh tại điều 39 LPS 1993,
các khoản thanh toán chi phí cho thủ tục phá sản và các khoản thanh toán
quyền lợi cho ngời lao động vẫn đợc u tiên thanh toán trớc. Tuy nhiên luật
phá sản 2004 đã không u tiên thanh toán các khoản nợ thuế mà coi đó là một
trong các khoản nợ không có bảo đảm nh các khoản nợ của chủ nợ không có
bảo đảm khác tạo ra sự công bằng giữa nhà nớc và các chủ nợ.

14
KÕt LuËn
Phá sản luôn là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó hiện
hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự
nhiên của nền kinh tế thị trường bất kể đó là nền kinh tế thị trường phát triển
ở các nước trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
ở Việt Nam. Luật phá sản ra đời đã đóng góp không nhỏ trong quá trình hoạt
động của các doanh nghiệp và sự điều chỉnh của nhà nước trong lĩnh vực kinh
doanh. Bằng những sửa đổi, bổ sung những quy định mới mà Luật phá sản
2004 đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng giải quyết tình trạng và khó
khăn mà mình mắc phải.
Sau hơn 10 năm thi hành kể từ khi Luật phá sản năm 1999 có hiệu lực,
pháp luật về phá sản doanh nghiệp đã tạo ra môi trường pháp lý cạnh tranh và
hiệu quả cho các doanh nghiệp. Luật phá sản 2004 ra đời cũng đã đáp ứng
phần nào so với nhu cầu hiện nay.
Qua nội dung bài viết tôi cũng đã sâu tìm hiểu và phân tích những quy
định của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản 1993, đánh giá những ưu
điểm mà những quy định này mang lại. Đồng thời qua đó cũng cho chúng ta
có cái nhìn bao quát hơn để phát hiện ra những điểm còn hạn chế, chưa phù
hợp và chưa đáp ứng được so với yêu cầu hiện nay để có những biện pháp
điều chỉnh và kịp thời sửa đổi.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật phá sản doanh nghiệp 1993
2. Luật phá sản năm 2004
3. Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
của luật phá sản ngày 28/04/2005
4. Luật doanh nghiệp năm 1999
5. Luật doanh nghiệp năm 2005

II. Các tài liệu chuyên khảo
6. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
7. vietlaw.org.vn
8. dangkykinhdoanh.net
9. issi.gov.vn
10. kinhdoanh.com.vn
11. dangcongsan.vn
12. bussine.gov.vn
16

×