Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

12 một số vấn đề về vốn và cấu trúc vốn trong CTCP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.32 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ VAI TRÒ
CỦA VỐN, CẤU TRÚC VỐN TRONG CTCP
4
1. Khái niệm công ty cổ phần (CTCP) 4
2. Vai trò của vốn và cấu trúc vốn trong công ty cổ phần 4
CHƯƠNG II: CẤU TRÚC VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 7
1. Cấu trúc vốn của CTCP trước khi ban hành Luật DN năm 1999 7
2. Cấu trúc vốn của CTCP theo quan điểm của Luật doanh nghiệp
năm 1999 và đã được thay thế bằng Luật doanh nghiệp năm 2005
8
2.1 Vốn điều lệ (Vốn chủ sở hữu) 9
2.2 Vốn vay 10
CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT 13
1. Nhận xét khái quát các quy định trong luật doanh nghiệp 2005
về vốn của công ty cổ phẩn
13
2. Một vài đề xuất nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về vốn
của CTCP
16
Kết luận 19
1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, vốn được xem xét dưới nhiều
góc độ khác nhau và quan niệm về vốn đã có những thay đổi căn bản. Để thực
hiện các hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn bằng tiền, doanh nghiệp còn
huy động nhiều nguồn vốn không phải bằng tiền nhưng có vai trò quan trọng
trong hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, vốn có thể là nguồn tài sản


(kể cả sức lao động) để làm tăng giá trị của doanh nghiệp, hoặc vốn có thể là
toàn bộ hàng hoá, tài sản, những sở hữu khác được dùng làm ra lợi nhuận.
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để thực hiện các hoạt động kinh
doanh Công ty cổ phần phải có vốn. Vốn của Công ty cổ phần là vấn đề phức
tạp, không chỉ liên quan đến bản chất kinh tế, khả năng tài chính mà còn là
yếu tố xác định vị thế, năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần trên thị
trường, liên quan đến hàng loạt các vấn đề pháp lý như quyền sở hữu, chuyển
nhượng, thế chấp. Không thể không nhận thấy rằng vốn của công ty cổ phần
là cơ sở vật chất cho hoạt động của nó, có thể nói sự tồn tại và độ tin cậy của
một công ty cổ phần trước các đối tác chủ yếu phụ thuộc vào cấu trúc vốn và
tư cách pháp lý của nó. Những yếu tố đó được các đối tác của công ty quan
tâm đến nhiều nhất.
Xuất phát từ những thực tiễn đó , tôi chọn đề tài “ Một số vấn đề về vốn
và cấu trúc vốn trong công ty cổ phần” làm đề tài cho tiểu luận của mình.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu những khái quát chung về công ty cổ phần, từ đó
đi vào tìm hiểu những quy định cơ bản của Luật doanh nghiệp 2005 về vốn
của CTCP , đồng thời qua nghiên cứu tôi cũng đề xuất một số ý kiến nhằm thi
hành có hiệu quả luật doanh nghiệp 2005 trên khía cạnh sử dụng vón của
CTCP.
2
2. Kết cấu của đề tài
Kết cấu bài viết gồm 3 phần :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 03 phần
Chương I : Khái niệm công ty cổ phần và vai trò của vốn trong công ty
cổ phần.
Chương II : Cấu trúc vốn của công ty cổ phần
Chương III : Một số nhận xét và đề xuất nhằm thực thi hiệu quả các quy
định của Luật doanh nghiệp 2005 về vốn trong công ty cổ phần.
Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, cùng với những hạn chế về kiến
thức hiểu biết về pháp luật không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi

rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn học
viên để nhằm hoàn thiện hơn cho tiểu luận của mình.
3
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN,
CẤU TRÚC VỐN TRONG CTCP
1. Khái niệm công ty cổ phần (CTCP)
Điều 77 luật doanh nghiệp năm 2005 đã đưa ra dấu hiệu nhận biết CTCP:
CTCP là doanh nghiệp trong đó
a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần,
b. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và
không hạn chế số lượng tối đa.
c. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của luật này.
CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
2. Vai trò của vốn và cấu trúc vốn trong công ty cổ phần
Vốn của doanh ngiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những
tài sản thuộc quyền sở hữu của hoặc sử dụng hợp pháp được doanh nghiệp sử
dụng trong kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường ngoài nguồn vốn là tài sản hoặc các quyền
tài sản thì lợi thế, uy tín, danh dự và thị phần trên thị trường mà doanh nghiệp
đó đang có cũng được coi là vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn này không thể
xác định và tìm thấy ngay trước mắt, mà nằm ở lợi thế tương lai có vai trò
quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, ngoài
nguồn vốn bằng tiền với chức năng phương tiện thanh toán, phương tiện cất
4
trữ, là thước đo trong quá trình lưu thông, trao đổi phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp còn có nguồn vốn không phải bằng tiền. Như

vậy, vốn bao gồm nhiều loại khác nhau, song điểm chính nhất vốn là tất cả giá
trị (vật chất, phi vật chất) được doanh nghiệp sử dụng để làm ra lợi nhuận đó
là tiền, giấy tờ được trị giá bằng tiền, tài sản, quyền tài sản, lao động, chất
xám, kỹ năng, lợi thế của doanh nghiệp.
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để thực hiện các hoạt động kinh
doanh Công ty cổ phần phải có vốn. Vốn của Công ty cổ phần là vấn đề phức
tạp, không chỉ liên quan đến bản chất kinh tế, khả năng tài chính mà còn là
yếu tố xác định vị thế, năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần trên thị
trường, liên quan đến hàng loạt các vấn đề pháp lý như quyền sở hữu, chuyển
nhượng, thế chấp. Không thể không nhận thấy rằng vốn của công ty cổ phần
là cơ sở vật chất cho hoạt động của nó, có thể nói sự tồn tại và độ tin cậy của
một công ty cổ phần trước các đối tác chủ yếu phụ thuộc vào cấu trúc vốn và
tư cách pháp lý của nó. Những yếu tố đó được các đối tác của công ty quan
tâm đến nhiều nhất.
Trong Công ty cổ phần, cấu trúc vốn phản ánh vị thế, quy mô, uy tín của
Công ty cổ phần trên thị trường. Một cấu trúc vốn mềm dẻo, linh hoạt sẽ đáp
ứng được các nhu cầu khác nhau của các nhà đầu tư, đáp ứng được các hoạt
động kinh doanh của Công ty cổ phần. Vốn của Công ty cổ phần bao gồm:
vốn do cổ đông góp dưới dạng mua cổ phần được xác định là vốn điều lệ và
vốn vay dưới dạng các hợp đồng tín dụng, hoặc phát hành trái phiếu. Mỗi bộ
phận nằm trong cấu trúc vốn của Công ty cổ phần có những đặc điểm, vai trò
và tính chất riêng, thể hiện đúng bản chất của nó, đồng thời có mối quan hệ
chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Qua nghiên cứu cho thấy thành phần cơ bản
trong cấu trúc vốn hay những công cụ tài chính mà Công ty cổ phần sử dụng
về cơ bản bao gồm hai bộ phận chủ yếu đó là: Vốn điều lệ và vốn vay (tuy
5
nhiên ở các nước trong khối ASEAN không sử dụng thuật ngữ Vốn điều lệ
mà gọi là vốn cổ phần). Cấu trúc vốn của công ty theo Luật công ty
Singapore, bao gồm hai bộ phận cơ bản: vốn cổ phần và vốn vay. Vốn cổ
phần được phân thành Vốn điều lệ (authorized capital), vốn phát hành (issued

capital) và vốn đã nộp (paid-up capital). Vốn vay (hay gọi là tài chính nợ) bao
gồm trái phiếu, trái khoán công ty và giấy nhận nợ. Như vậy, so với cấu trúc
vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn, của Hợp tác xã về cơ bản cũng bao
gồm vốn điều lệ và vốn vay, cấu trúc vốn của Công ty cổ phần tương đối hoàn
thiện, phản ánh đúng bản chất và lợi thế của Công ty cổ phần trong nền kinh
tế thị trường.
6
CHƯƠNG II: CẤU TRÚC VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Cấu trúc vốn của CTCP trước khi ban hành Luật DN năm 1999
Cấu trúc vốn của công ty cổ phần bao gồm: Vốn điều lệ và vốn pháp
định. Tuy nhiên, hoạt động thực tế của công ty cổ phần có một loại vốn đó là
vốn pháp định, vậy vốn pháp định có nằm trong cấu trúc của công ty cổ phần
không?
Theo Luật công ty 1990 vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để
thành lập công ty do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề (Điều 3 -
Luật công ty 1990). Như vậy, theo quy định tại Điều 15, Luật công ty 1990
vốn pháp định là một điều kiện quan trọng để thành lập công ty. Muốn thành
lập công ty các nhà đầu tư bắt buộc phải có vốn điều lệ tối thiểu phải bằng
hoặc lớn hơn mức vốn pháp định quy định đối với ngành nghề đăng ký kinh
doanh.
Nghị định 26/CP ngày 07/05/1998 của Chính phủ quy định ba nhóm
ngành nghề: Chế biến nông lâm thuỷ sản; công nghiệp xây dựng; du lịch
khách sạn. Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân kinh doanh trong những nhóm ngành nghề đó phải có vốn điều lệ tối
thiểu bằng vốn pháp định mà pháp luật quy định. Như vậy, trong quan hệ kinh
doanh, nhiều khi đối tác chỉ nhìn vào vốn pháp định để xác định độ tin cậy
đối với bạn hàng của mình.
Thực tiễn 10 năm thực hiện Luật công ty cho thấy, việc quy định về vốn
pháp định mang tính hình thức, bất hợp lý. Thực chất vốn pháp định của
nhiều công ty chỉ là vỏ bao bên ngoài, không có thật dẫn đến tình trạng vốn

pháp định "ma" đã được hợp pháp hoá khiến cho các đối tác nhầm lẫn. Trong
thực tế có nhà đầu tư vay ngân hàng A sau đó gửi vào ngân hàng B lấy xác
nhận có tài khoản ở ngân hàng để được thành lập công ty và đăng ký kinh
doanh. Việc hợp pháp hoá vốn vay của nhà đầu tư trở thành vốn điều lệ là
hành vi lừa đảo các đối tác. Mặt khác việc quy định vốn pháp định với các thủ
tục phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Nếu đặt ra mức vốn pháp định
7
cao thì cản trở đầu tư, ảnh hưởng đến việc thành lập công ty. Có những nhà
đầu tư có khả năng quản lý, có bí quyết kinh doanh nhưng do mức vốn thấp
hơn vốn pháp định nên đã không thành lập được công ty để thực hiện ý tưởng
đầu tư kinh doanh của mình. Ngược lại nếu quy định vốn pháp định thấp thì
điều này làm mất đi ý nghĩa thực hiện quản lý Nhà nước đối với công ty cổ
phần trong thành lập, đăng ký kinh doanh và bảo vệ lợi ích của các chủ nợ.
Mặt khác, vốn pháp định không phản ánh giá trị thực của công ty cổ phần khả
năng kinh doanh, khả năng trả nợ không phụ thuộc vào vốn pháp định mà phụ
thuộc vào năng lực tài chính thực sự của công ty.
Luật doanh nghiệp 1999 về cơ bản đã bỏ vốn pháp định đối với hầu hết
các ngành nghề kinh doanh. Đây là bước đột phá trong thủ tục thành lập và
đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần
nói riêng, đồng thời cũng là bước đột phá trong việc rỡ bỏ rào chắn về vốn để
các nhà đầu tư có cơ hội đầu tư vào những ngành nghề kinh doanh phù hợp
với khả năng của họ. Việc bỏ vốn pháp định là hoàn toàn phù hợp với cải
cách hành chính trong việc quản lý doanh nghiệp, là bước thực hiện việc
chuyển đổi từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm. Tuy nhiên, việc bãi bỏ
vốn pháp định không phải là bỏ hẳn, cũng không đồng nghĩa với sự buông
lỏng quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, đối với một số ngành nghề kinh doanh
như: tiền tệ, bảo hiểm, chứng khoán, kinh doanh vàng vẫn cần có quy định về
vốn pháp định.
Như vậy, có thể nói rằng vốn pháp định không nằm trong cấu trúc vốn
của công ty cổ phần, việc quy định vốn pháp định chỉ là điều kiện thành lập

và đăng ký kinh doanh. Vốn pháp định không thể phản ánh khả năng tài chính
của Công ty cổ phần.
2. Cấu trúc vốn của CTCP theo quan điểm của Luật doanh nghiệp năm
1999 và đã được thay thế bằng Luật doanh nghiệp năm 2005
Cấu trúc vốn của CTCP theo quan điểm của Luật doanh nghiệp 1999 đến
nay được xem xét ở hai bộ phận: Vốn điều lệ và vốn vay.
8
2.1 Vốn điều lệ (Vốn chủ sở hữu)
Vốn điều lệ là số vốn do các nhà đầu tư góp khi thành lập doanh nghiệp
và được ghi vào điều lệ doanh nghiệp, bao gồm tài sản hữu hình và cả những
tài sản vô hình. Những tài sản vô hình không thể nhìn thấy được ngay nhưng
có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh
doanh như quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, lợi thế, uy tín của của
doanh nghiệp. Như vậy, toàn bộ những tài sản hữu hình và tài sản vô hình
được các cổ đông góp và được ghi vào điều lệ gọi là vốn điều lệ của công ty
cổ phần.
Trong Luật doanh nghiệp năm 2005, điểm a khoản 1 Điều 77 quy định: “
CTCP là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần ”. Phần vốn điều lệ này do các cổ đông đóng, được ghi
vào Điều lệ của công ty và phải đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, cổ phần là một đại lượng chuẩn thuận trong bản Điều lệ của CTCP,
đại lượng đó được căn cứ vào số lượng cổ phần và vốn góp của các cổ đông.
Cổ đông góp vốn vào CTCP bằng cách mua cổ phần mà thực chất là mua
quyền sở hữu của CTCP. Như vậy, điểm nhất quán ở đây là tài sản khi được
các cổ đông góp và ghi vào điều lệ của công ty cổ phần - gọi là vốn điều lệ
của công ty cổ phần.
Trong cấu trúc vốn của công ty cổ phần, vốn điều lệ đóng vai trò quan
trọng, là chỉ số kinh tế phản ánh năng lực tài chính. Tuy nhiên, vốn điều lệ
không hẳn phản ánh giá trị thực của công ty cổ phần có thể cao hơn hoặc thấp
hơn vốn điều lệ. Thực tế, vốn điều lệ chỉ phản ánh một phần giá trị thực của

công ty cổ phần, giá trị của công ty cổ phần phụ thuộc vào nhiều chỉ số khác
nhau trong đó có vốn điều lệ. Vốn điều lệ trong công ty cổ phần được chia
thành nhiều phần bằng nhau. Các cổ đông góp vốn vào công ty cổ phần bằng
cách mua cổ phần mà hình thức thể hiện là cổ phiếu.
9
2.2 Vốn vay
Vốn vay của công ty cổ phần bao gồm: Vốn vay của ngân hàng, của các
cá nhân tổ chức khác, vay thông qua kênh phát hành trái phiếu và vay thông
qua thuê tài chính. Thực tế, công ty cổ phần không thể tiến hành hoạt động
kinh doanh nếu chỉ dựa vào vốn điều lệ mà không có sự huy động vốn từ bên
ngoài. Như trên đã phân tích, nguồn vốn vay của công ty cổ phần rất đa dạng
và phong phú. So với các loại hình doanh nghiệp khác như: công ty trách
nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần có lợi thế hơn trong
việc huy động vốn nhờ cấu trúc vốn linh hoạt mềm dẻo, trong đó có một bộ
phận quan trọng đó là vốn vay.
Vậy vốn vay có thuộc quyền sở hữu của công ty cổ phần không? hiện
nay có nhiều quan điểm khác nhau về vốn vay của công ty cổ phần. Có quan
điểm cho rằng vốn vay không thuộc sở hữu của công ty cổ phần và đặc biệt là
vay thông qua hình thức thuê tài chính. Quan điểm khác cho rằng vốn vay
thuộc sở hữu của công ty cổ phần, trừ vay thông qua hình thức thuê tài chính.
Để lý giải vấn đề này, vốn vay được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế, vốn vay là do công ty cổ phần huy động từ bên
ngoài, vốn vay không phản ánh năng lực tài chính của công ty cổ phần. Vì
vậy, khó có thể nói vốn vay thuộc sở hữu của công ty cổ phần.
Dưới góc độ tài chính, vốn vay là khoản nợ phải trả của công ty cổ
phần.Vì vậy, các khoản vốn vay phải được hạch toán vào các khoản nợ và
được chia thành các khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn để công ty cổ phần có
phương án trả nợ. Vốn vay không phản ánh năng lực tài chính thực sự của
công ty cổ phần. Công ty cổ phần được sử dụng vốn vay trong một thời gian
nhất định. Nếu sử dụng đúng mục đích có hiệu quả sẽ làm tăng lợi nhuận cho

công ty cổ phần.
Dưới góc độ pháp lý "vay là một hình thức cấp tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi"
10
Theo quy định của Bộ luật Dân sự bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản
vay và kể từ thời điểm nhận tài sản đó. Như vậy, vốn vay được công ty cổ
phần chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong hoạt động kinh doanh làm tăng lợi
nhuận của công ty. Công ty cổ phần có thể sử dụng vốn vay bổ sung vào vốn
lưu động để mở rộng phạm vi, quy mô kinh doanh hoặc mua sắm tài sản cố
định. Những tài sản cố định được Công ty cổ phần mua sắm bằng nguồn vốn
vay như máy móc, thiết bị, nhà xưởng sẽ thuộc quyền định đoạt của công ty
cổ phần và khi các khoản nợ đã đến kỳ đáo hạn công ty cổ phần phải có nghĩa
vụ thanh toán cả gốc và lãi. Như vậy, dưới góc độ pháp lý vốn vay là vốn của
công ty cổ phần trừ vay thông qua hình thức thuê tài sản, thuê tài chính. Vốn
vay phản ánh phạm vi quy mô, ưu thế của Công ty cổ phần trên thị trường.
Ngoài việc huy động vốn vay trực tiếp thông qua các tổ chức tín dụng,
công ty cổ phần còn huy động vốn vay thông qua việc phát hành trái phiếu:
"Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm vốn gốc và lãi) của tổ
chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu
Bản chất của trái phiếu là chứng chỉ ghi nợ. Việc phát hành trái phiếu ra
công chúng là một hình thức vay nợ của Công ty cổ phần. Khác với các hình
thức vay khác như vay của các tổ chức tín dụng, của các cá nhân tổ chức
khác, phát hành trái phiếu là hình thức vay thông qua việc phát hành chứng
khoán. Trong các nguồn vốn vay của công ty cổ phần nguồn vốn vay từ việc
phát hành trái phiếu có vị trí quan trọng, thể hiện rõ ưu thế của công ty cổ
phần so với các loại hình doanh nghiệp khác trong việc huy động vốn. Tuy
nhiên, thực tế ở Việt Nam hiện nay các công ty cổ phần huy động vốn vay
chủ yếu bằng hình thức vay tín dụng, còn hình thức vay thông qua phát hành

trái phiếu các công ty cổ phần không "mặn mà" lắm. Hiện nay trên thị trường
chứng khoán không có công ty cổ phần nào niêm yết trái phiếu mà phần lớn
chỉ có trái phiếu Chính phủ.
11
Việc xác định rõ các nguồn vốn trong công ty cổ phần có ý nghĩa rất
quan trọng về mặt pháp lý. Nó xác định rõ ràng sở hữu của công ty cổ phần,
đồng thời về mặt kinh tế nhằm xác định phạm vi quy mô, lợi thế, khả năng tài
chính thực sự của công ty cổ phần.
12
CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT
1. Nhận xét khái quát các quy định trong luật doanh nghiệp 2005 về
vốn của công ty cổ phẩn.
Những quy định trong luật doanh nghiệp 2005 điều chỉnh cụ thể về
CTCP chủ yếu tập trung ở chương IV, gồm 53 điều ( từ điều 77 đến điều 129)
, tăng thêm 8 điều so với luật doanh nghiệp năm 1999 và một số điều luật về
thành lập, đăng ký kinh doanh ở chương II. Những quy định này có nhiều
điểm sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hơn, chi tiết hơn. Qua tìm hiểu tôi
thấy những quy định của Luật Doanh Nghiệp năm 2005 liên quan đến vốn của
CTCP có nhiều điểm tiến bộ rõ rệt. Tiêu biểu như:
Luật Doanh nghiệp 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và
các cơ quan giám sát bằng việc tăng yêu cầu về công khai hoá và kiểm soát
thông tin đối với CTCP. CTCP phải công bố công khai ( trong nội dung công
bố đăng ký kinh doanh) số cổ phần, giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần
được quyền phát hành.
Quy định về chủ thể có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần trong
văn bản luật đã tạo ra sự bình đẳng hơn giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
các nhà đầu tư trong nước . Sự thay đổi này thể hiện động thái tích cực trong
việc cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam đối với các nhà đầu tư
nước ngoài, mở ra một triển vọng to lớn trong việc thu hút thêm nguồn vốn
đầu tư nước ngoài ( FDI ) vào Việt Nam.

Luật Doanh nghiệp 2005 cũng xác định rõ thời hạn góp vốn của các cổ
đông sáng lập , cách thức xử lý khi họ không thanh toán đủ số cổ phần đăng
mua. Các quy định về cháo bán và chuyển nhượng cổ phần , phát hành thêm
cổ phần với việc giành quyền ưu tiên cho các cổ đông, quy định về phát hành
trái phiếu của CTCP và cả những quy định chi tiết về hình thức, phương thức
chi trả cổ tức… ( đã ít nhiều được đề cập và phân tích ở chương 2 của tiểu
luận) có thể đánh giá chung là khá hoàn chỉnh.
Tuy nhiên , theo tôi , vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục xem xét
13
- Ngày nay thuật ngữ “ thương hiệu “ được dùng khá phổ biến ( trong
đời sống, trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm chí trong cả các báo
cáo khoa học ) đã có những ý kiến cho rằng thiếu sót của luật doanh nghiệp
năm 2005 là không quy định “ thương hiệu “ cũng là một loại tài sản góp vốn.
Tôi cho rằng việc cần bổ sung tài sản góp vốn này hay không trước hết đòi
hỏi phải xác định chính xác nội hàm của khái niệm thương hiệu. Phải trả lời
thương hiệu thực chất chỉ là tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá hay là một
đối tượng mới của sở hữu công nghiệp kiểu như con chip , giống cây trồng …
? Nếu thương hiệu thực sự là một đối tượng mới của sở hữu công nghiệp thì
phải bổ sung vào các văn bản pháp luật, trong đó có luật doanh nghiệp. Nếu
nó chỉ là tên thương mại hay nhãn hiệu hàng hoá thì phải sửa đổi văn bản hợp
lý có liên quan để đi đến cách hiểu thống nhất, tránh sự khấp khểnh giữa đời
sống thực tiễn và văn bản pháp lý.
- Khoản 11 điều 4 giải thích : “ cổ đông sáng lập là cổ đông tham gia xây
dựng, thông qua và ký tên vào bản điều lệ đầu tiên của CTCP “. Mặt khác,
luật doanh nghiệp quy định một trong các cách xử lý khi có cổ đông sáng lập
không đăng ký đủ số cổ phần đã đăng ký mua là : huy động ngưòi khác không
phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó và trường hợp này, người
nhận góp vốn đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Cổ đông
sáng lập chưa góp vốn cổ phần theo đăng ký đương nhiên không còn là cổ
đông của công ty ( khoản 3 điều 84 ) hay quy định trong thời hạn 3 năm, kể từ

ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu được đại hội
đồng cổ đông chấp nhận, cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cổ phần phổ
thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập và người nhận
chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty ( khoản 5
điều 84 ). Nếu hiểu theo hai cách xử lý trên thì cổ đông sáng lập không còn
theo đúng nghĩa ban đầu nữa. Ở đây, người góp đủ cổ phần, người nhận
chuyển nhượng có thể không tham gia xây dựng , thông qua và ký tên vào bản
điều lệ đầu tiên của công ty. Có lẽ nên hiểu hai trường hợp trên là những
14
ngoại lệ của cổ đông sáng lập và như vậy, ở một mức độ nào đó, khái niệm “
cổ đông sáng lập” chưa thật đầy đủ.
- Theo khoản 1 điều 85 luật doanh nghiệp năm 2005 quy định, một trong
những nội dung chủ yếu mà cổ phiếu phải có là “ mệnh giá mỗi cổ phần và
tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu” nghĩa là cổ phiếu cổ phiếu bắt
buộc phải có mệnh giá? Quy định này liệu có hợp lý và mang tính chất định
hướng hay không? Có thể hiểu mệnh giá là cách thức góp vốn cũng là cơ sở
cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ và chỉ có ý nghĩa khi CTCP phát hành lần đầu.
Cổ phiếu khi được bán trên thị trường có thể có một giá cao hơn hay thấp hơn
mệnh giá, vậy là có sự tách biệt giữa mệnh giá và giá thị trường nhưng tính
chất bình đẳng của việc góp vốn vẫn được duy trì dù mệnh giá thay đổi, bởi
giữa những người mua với nhau không có gì khác biệt ( họ đều phải trả số
tiền như nhau để được sở hữu cổ phiếu). Vì vậy “ nếu có định mệnh giá là 1
xu cho 1 cổ phiếu thì không định đồng nào cũng chẳng sao”. Nên chăng, pháp
luật hướng tới quy định cổ phiếu không nhất thiết phải có mệnh giá để các
nhà đầu tư lựa chọn. Đơn cử ở Hoa Kỳ, phổ biến là các cổ phiếu không có
mệnh giá. Hiện nay, các CTCP của Việt Nam cũng có xu hướng phát hành
ngày càng nhiều cổ phiếu không có mệnh giá.
- Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định về thời hạn nắm giữ cổ phần
ưu đãi biểu quyết của tổ chức được chính phủ uỷ quyền. Quy định tại khoản 3
điều 78 của luật DN có thể dẫn đến cách hiểu cổ phần ưu đãi đã biểu quyết

của tổ chức được Chính Phủ uỷ quyền không bị chuyển đổi mà tồn tại cùng
với sự tồn tại của công ty,không phụ thuộc tình hình tài chính,cấu trúc vốn
của công ty. Và nếu hiểu như vậy thì Luật DN đã thực sự đảm bảo được
quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau giữa các nhà đầu tư sở hữu cùng 1 loại
cổ phần như khoản 5 Điều 78 quy định hay chưa?
Nhìn chung những quy định trong luật DN 2005 đã củng cố vững chắc
hơn nền tảng pháp lý cho hoạt động của CTCP. Cùng với những thành quả
không ngừng trên con đường cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chúng ta
có cơ sở để hy vọng ở một tương lai không xa,loại hình doanh nghiệp này sẽ
15
chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có định
hướng của các cơ quan có thẩm quyền để triển khai quy định đó.
2. Một vài đề xuất nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về vốn của
CTCP:
- Những quy định về vốn của CTCP chứa đựng trong văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất là Đạo luật - Luật doanh nghiệp. Khi đưa vào cuộc sống, để
các quy định đó được hiểu đúng và áp dụng một cách thống nhất, tất yếu phải
có hướng dấn của các văn bảndưới luật. Trong giứoi hạn nghiên cứu của luật
văn này, tác giả xin đưa ra một só đề xuất góp ý cho việc ban hành các hướng
dẫn đó:
Thứ nhất: quy định rõ hơn về cổ phần ưu đãi :
Khoản 4 điều 78 Luật DN mới chỉ quy định: “người được quyền mua cổ
phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do điều lệ
công ty quy định hoặc do đại hội đồng cổ đông quyết định” mà chưa điều
chỉnh ai là người quyết định việc đặt ra các loại cổ phần ưu đãi trong CTCP,
ai quyết định tỉ lệ giữa các loại cổ phần ưu đãi, có ai bị cấm hoặc hạn chế mua
loại cổ phần nào không? Do đó nên có văn bản hướng dẫn chỉ rõ đại hội đồng
cổ phần là cơ quan có quyền quyết định các vấn đề nêu trên.
Các văn bản dưới luật cũng nên đa dạng hoá các loại cổ phần ưu đãi,
tạo sự hấp dẫn cho loại cổ phần này, phù hợp với tâm lý và khả năng của

người đầu tư. Dưới đây xin đưa ra các loại cổ phần ưu đãi được sử dụng ở các
nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam và đặc biệt và các
nước trong khu vực ASEAN ( Thái Lan, Philippin, Malaysia, Singapore…)
như một nguồn tài liệu tham khảo:
- Cổ phần ưu đãi dồn lãi: nếu trong vòng 1 năm 1 cổ phần ưu đãi cổ tức
không được thanh toán cho các cổ đông ưu đãi thì những cổ đông này có
quyền tức dồn lãi, nghĩa là công ty phải cộng dồn vào thanh toán các cổ tức
chưa thanh toán vào những năm tiếp theo trước khi các cổ tức cổ tức có thể
được thanh toán cho các cổ đông góp vốn. Ví dụ: tỉ lệ cổ tức cố định là 5%
của trị giá danh nghĩa của cổ phần ưu đãi là 100.000đ, không được thanh toán
16
trong 2 năm thì sẽ không có cổ tức nào có thể được thanh toán trong năm thứ
3 hoặc những năm sau đó cho đến khi công ty thanh toán lần đầu cho cổ phần
ưu đãi cổ tức dồn lãi là 10%.
- Cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức: sau khi các cổ tức ưu đãi
được thanh toán, các cổ đông ưu đãi dự phần có quyền chia thành các cổ tức
được công bố cho các cổ đông phổ thông và các cổ đông khác trong phạm vi
được quy định trong điều lệ.
- Cổ phần ưu đãi mua lại: có thể quy định cổ phần ưu đãi mua lại tuỳ ý
hoặc cổ phần ưu đãi mua lại bắt buộc để tạo sự “mềm dẻo” hơn cho loại cổ
phần này.
- Cổ phần ưu đãi phức hợp: cổ phần có 2 quyền ưu đãi trở lên. Ví dụ:
cổ phần ưu đãi mua lại được và có thể chuyển đổi. Loại cổ phần này giúp cho
các cổ đông có quyền linh hoạt trong việc lựa chọn các quyền ưu đãi trong
một loại cổ phần ưu đãi phức hợp có lợi cho mình và làm cơ cấu vốn của công
ty thêm linh hoạt.
- Cổ phần ưu đãi hàng đầu: cổ phần này có quyền ưu tiên cao hơn các
cổ phần ưu đãi và được phát hành trước đó trong các ưu đãi hàng đầu về:
thanh toán cổ tức, thanh toán các quyền thanh lý (khi công ty giải thể).
- Cổ phần ưu đãi “để trống”: là loại cổ phần trong đó, nếu được điều lệ

công ty quy định, hội đồng quản trị có thể ấn định các điều khoản và điều
kiện cụ thể của một loại cổ phần ưu đãi tuỳ theo một quyết định ngược lại.
Điều này cho phép giám đốc một công ty linh hoạt ấn định những điều khoản
như vậy để đáp ứng nhu cầu của thị trường vốn.
Thứ 2, quy định về phát hành trái phiếu:
Để tạo thêm hàng cho thị trường trái phiếu- một thị trường mà các
doanh nghiệp Việt Nam còn bỏ ngỏ, pháp luật nên có những quy định về
quyền phát hành “các loại trái phiếu khác” giải thích rõ hơn khoản 1 điều 88
luật DN 2005.
Trong quy định về phát hành trái phiếu của luật DN tại điểm B khoản 2
điều 88: “ việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được
17
lựa chọn không bị hạn chế bởi các quy định tại điểm a và b khoản này” nhưng
hiện nay chưa có khái niệm chính thức về tổ chức tài chính. Nghị định của
Chính Phủ số 28/2005/NĐCP ngày 09 tháng 03 năm 2005 về tổ chức và hoạt
động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ chỉ đề cập đến việc thành lập các tổ
chức tài chính quy mô nhỏ nhằm cung cấp 1 số dịch vụ tài chính, ngân hàng
nhỏ, đơn giản cho các hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp. Còn “tổ chức tài
chính được lựa chọn” đứng ra làm chủ nợ mua trái phiếu của các doanh
nghiệp thì phải được hiểu như thế nào? Văn bản hướng dẫn cần có những giải
thích và quy định rõ hơn.
Thứ 3, quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ:
Phần lớn, các CTCP hiện nay đều huy động vốn bằng con đường phát
hành cổ phiếu riêng lẻ. Chẳng hạn, CTCP giải trí Tây Hồ đã phát hành hàng
chục ngàn cổ phiếu năm 2001 mà không phải tuân thủ thủ tục phát hành ra
công chúng. Hàng tháng, hàng quý hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước đã
bán cổ phiếu cho các cổ đông mà không thể coi đó là phát hành ra công
chúng. Thực tiễn là như vậy nhưng cho đến nay hoạt động chào bán cổ phiếu
riêng lẻ hay nói rộng lơn là hoạt động phát hành riêng lẻ vẫn chưa có một cơ
chế kiểm soát cụ thể. Đoạn 2 Khoản 6 Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005 quy

định “Chính phủ quy định hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ”. Như
vậy luật doanh nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý, chính phủ cần sớm ban hành các
quy định điều chỉnh lĩnh vực này, trong đó, các quy định cần hướng tới sự
đơn giản về điều kiện, thủ tục chào bán cổ phần, tạo thuận lợi cho các CTCP
áp dụng.
18
KẾT LUẬN
Việc xác định rõ các nguồn vốn trong công ty cổ phần có ý nghĩa rất
quan trọng về mặt pháp lý. Nó xác định rõ ràng sở hữu của công ty cổ phần,
đồng thời về mặt kinh tế nhằm xác định phạm vi quy mô, lợi thế, khả năng tài
chính thực sự của công ty cổ phần.
Thông qua Luật Doanh nghiệp 2005 trên cơ sở nghiên cứu các quy định
về vốn của công ty cổ phần , phân tích và đối chiếu trên cơ sở thực tiễn trong
nước và quy định của pháp luật một số nước trên thế giới tôi đã đưa ra một
vài ý kiến có tính chất trao đổi và những đề xuất bước đầu nhằm đóng góp
cho việc thi hành có hiệu quả các quy định về vốn của công ty cổ phần trong
thời gian tới.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật
1. Luật doanh nghiệp năm 1999
2. Luật doanh nghiệp năm 2005
3. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003
4. Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng ký kinh doanh
II. Các tài liệu chuyên khảo
5. Giáo trình Luật thương mại – Trường đại học Luật Hà Nội xuất bản năm
2007
III. Các trang Web
6. vietlaw.org.vn
7. dangkykinhdoanh.net

8. issi.gov.vn
9. kinhdoanh.com.vn
10. dangcongsan.vn
11. bussine.gov.vn
20

×