Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thực trạng và giải pháp quản lý việc sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên trường THPT Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.53 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





Lê Thanh Giang










Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. LÊ XUÂN HỒNG






Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

Lời cảm ơn
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến:
 Ban giám hiệu Trường Đại Học Sư Phạm Tp. HCM.
 Tập thể các thầy giáo, cô giáo phòng Khoa học Công nghệ & Sau Đại học Trường Đại Học Sư Phạm
Tp. HCM.
 Tập thể các thầy giáo, cô giáo trong khoa Tâm lý Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM.
 Quí Thầy Cô tham gia giảng dạy khoá 16 ngành Quản lý giáo dục.
 Quí thầy Cô là cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh tại 6 trường: THPT U Minh, THPT
Khánh Lâm, THPT Thới Bình, THPT Cái Nước, THPT Trần Văn Thời, THPT Đầm Dơi đã hỗ trợ, cộng
tác và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả đề tài xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn đề tài khoa học: TS. Lê
Xuân Hồng đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài cho đến lúc Hội
đồng khoa học nghiệm thu.

Lê Thanh Giang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CBQL : Cán bộ quản lý
GV : Giáo viên
ĐT : Đối tượng
HS : Học sinh
K : Không
SGK : Sách giáo khoa
TBDH : Thiết bị dạy học

THPT : Trung học phổ thông
SL : Số lượng
TL : Tỉ lệ
CBG : Chưa bao giờ
HK : Hiếm khi
TT : Thỉnh thoảng
TX : Thường xuyên
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cách mạng khoa học
công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao đã thúc quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,
quốc tế hóa nền sản xuất và đời sống xã hội. Cạnh tranh kinh tế, thương mại và khoa học công nghệ diễn ra gay
gắt. Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, yếu tố con người trở nên có vai trò quyết định đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và kỹ năng trở thành lợi thế không nhỏ
trong sự phát triển của đất nước. Bởi vậy, bước vào thể kỷ XXI việc ưu tiên phát triển sự nghiệp giáo dục để
đào tạo nguồn nhân lực đã trở thành nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của nhiều quốc gia. Giáo dục trở thành nhân
tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi
quốc gia. Năm 1992 UNESCO đã chỉ rõ
: “ không có sự tiến bộ và thành đạt nào mà có thể tách khỏi sự tiến bộ
và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục”[63].
Trên cơ sở nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng
việc phát triển giáo dục và đào tạo. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta khẳng định: “con người
và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần
tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục v
à đào tạo”[22]. Đây là yêu cầu cấp bách đối với toàn xã hội.
Trong đó ngành giáo dục giữ vai trò quan trọng nhất. Để làm được điều này vấn đề cấp thiết đặt ra cho giáo dục
là phải: “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học”[22].
Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo

đã và đang triển khai thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục. Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy, thì việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và TBDH phục vụ cho công cuộc đổi mới cũng
đồng thời tiến hành. Bởi vì, cơ sở vật chất và T
BDH là một trong những điều kiện quan trọng để thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học góp phần thực hiện thành công cuộc đổi mới giáo dục.
Để phục vụ tốt cho công tác dạy và học, thời gian qua Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau đã luôn chú
trọng đến việc đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học, đặc biệt là sau khi triển khai thực
hiện chương trình SGK mới vấn đề này càng được quan tâm chú trọng hơn. Bên cạnh đó, để nâng cao chất
lượng dạy và học hầu hết các trường THPT tỉnh Cà Mau cũng đã tự đầu tư mua sắm đồ dùng dạy học. Có thể
nói rằng, cho đến nay về cơ bản hầu hết các trường THPT tỉnh Cà Mau đã có một số lượng TBDH cần thiết
phục vụ cho công tác dạy và học. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc từng bước nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo tỉnh nhà. Tuy nhiên, từ thực tế này lại nảy sinh vấn đề m
à nhiều cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Cà
Mau đang hết sức bức xúc. Đó là TBDH ít được giáo viên quan tâm sử dụng hoặc sử dụng chưa đúng mục đích,
phát huy hiệu quả và tác dụng còn thấp khi sử dụng hiện đang còn diễn ra phổ biến. Làm sao quản lý, khai thác,
sử dụng và sử dụng phát huy hiệu quả của TBDH là vấn đề mà đang được các cấp quản lý giáo dục ở tỉnh Cà
Mau quan tâm và đây cũng là vấn đề cơ bản và cốt lõi của toàn bộ công tác quản lý TBDH ở trường phổ thông.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp quản lý việc sử dụng thiết bị dạy
học của giáo viên trường trung học phổ thông tỉnh Cà Mau” để nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng TBDH ở các trường THPT tỉnh Cà Mau.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đầy đủ và khách quan thực trạng quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên ở các trường
THPT tỉnh Cà Mau và đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH ở các trường
THPT tỉnh Cà Mau.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên một số trường THPT tỉnh Cà Mau và
một số giải pháp.

4.Giả thuyết nghiên cứu
Nếu hiệu trưởng các trường THPT xây dựng được hệ thống các biện pháp quản lý việc sử dụng TBDH
của giáo viên có cơ sở khoa học, thì việc sử dụng TBDH của giáo viên trong dạy học sẽ tốt hơn, góp phần nâng
cao hiệu quả của hoạt động dạy và học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên.
- Khảo sát thực trạng quản lý và sử dụng TBDH ở một số trường THPT tỉnh Cà Mau.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn bản, tài liệu và các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Chúng tôi tiến hành xây dựng phiếu hỏi dựa trên cơ sở lí
luận, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài để khảo sát thực trạng quản lý việc sử dụng TBDH tại các
trường THPT trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục, các nhà giáo
có nhiều kinh nghiệm.
- Phương pháp quan sát: Tiến hành dự giờ GV để thu thập thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp toán thống kê: Xử lí kết quả điều tra bằng phương pháp tính phần trăm(%) và tính giá
trị trung bình nhằm phân tích, đánh giá thực trạng làm cơ sở để đề ra giải pháp thích hợp.
7. Phạm vi nghiên cứu
Tỉnh Cà Mau có 26 trường THPT, người nghiên cứu chọn 6 trường, đại diện hai khu vực là khu vực
thành thị và khu vực nông thôn để nghiên cứu cụ thể là các trường như sau:
- THPT U Minh.
- THPT Khánh Lâm.
- THPT Trần Văn Thời.
- THPT Thới Bình.
- THPT Cái Nước.
- THPT Đầm Dơi.



Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
TBDH là một thành tố của quá trình dạy học, được hình thành và phát triển cùng với lịch sử hình thành
và phát triển của qúa trình dạy học. Lúc đầu khi xã hội còn ở trình độ phát triển thấp nhà trường ở trạng thái
đơn giản, cơ sở vật chất và TBDH có nội hàm đơn giản. Khi kinh tế, xã hội và giáo dục ngày càng phát triển thì
TBDH ngày càng phát triển nhiều về số lượng, đa dạng về mẫu mã và chủng loại, thì vấn đề đặt ra là làm sao để
tổ chức quản lý việc sử dụng TBDH cho hiệu quả. Đây là nhiệm vụ nặng nề đối với các cấp quản lý giáo dục,
mà trực tiếp là những nhà quản lý ở các cơ sở giáo dục.
Chính vì vậy, vấn đề quản lý cơ sở vật chất trường học nói chung và quản lý việc sử dụng TBDH nói
riêng đã được nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu.
Trần Quốc Bảo với đề tài: “Các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ
sở vật chất – kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học ở trường THPT công lập Thành phố Hồ Chí Minh” [2] qua
đề tài tác giả khảo sát và phân tích thực trạng quản lý cơ sở vật chất – kỹ thuật ở một số trường tại thành phố
Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật
chất – kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học ở trường THPT công lập tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tô Xuân Giáp với công trình: “ Phương tiện dạy học hướng dẫn chế tạo và sử dụng”[25]. Tác giả đã
đưa ra những cơ sở phân loại và phân loại phương tiện dạy học, cách thức lựa chọn, thiết kế, chế tạo, sử dụng
phương tiện dạy học và các điều kiện để đảm bảo sử dụng có hiệu quả phương tiện dạy học. Theo tác giả:
“Phương tiện dạy học được sử dụng đúng, có tác dụng làm tăng hiệu quả sư phạm của nội dung và phương
pháp dạy học lên rất nhiều”[25, tr.43]
Nguyễn Văn Tùng với đề tài: “Sử dụng đa phương tiện trong dạy học môn Giáo dục học cho sinh viên
Cao đẳng sư phạm khu vực Đồng bằng sông Cửu Long”[61]. Tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận của việc sử
dụng đa phương tiện trong dạy học và xây dựng quy trình sử dụng đa phương tiện trong dạy học môn Giáo dục
học cho sinh viên cao đẳng sư phạm khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong cuốn: “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc xây dựng sử dụng cơ sở vật chất và TBDH ở
trường phổ thông Việt Nam”[17] tác giả Trần Quốc Đắc chủ biên, đã đưa ra các quan điểm làm cơ sở cho việc

sử dụng TBDH, xác định vị trí, vai trò của cơ sở vật chất TBDH ở trường phổ thông. Các tác giả trong công
trình nghiên cứu trên đã nhận định: “TBDH phải được sử dụng, hiệu quả sử dụng là mục tiêu cơ bản nhất và là
mục tiêu duy nhất của toàn bộ công tác thiết bị trường học. Sử dụng có hiệu quả TBDH là một nhiệm vụ nặng
nề, khó khăn của người thầy giáo. Điều này đòi hỏi người thầy giáo phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao
với yêu cầu sử dụng TBDH. Người GV không những cần hiểu biết về TBDH, về kỹ thuật sử dụng chúng mà
còn hiểu sâu về phương pháp dạy học với yêu cầu sử dụng TBDH: sử dụng TBDH với mục đích gì, lúc nào,
liều lượng bao nhiêu, đặc điểm tâm lí HS ra sao; HS cần tham gia hoạt động như thế nào khi dạy học có sử
dụng TBDH, sử dụng TBDH như thế nào để khơi dậy lòng say mê học tập, phát huy tính tích cực, năng lực
sáng tạo và bồi dưỡng nhân cách cho HS” [17, tr.29].
Trong cuốn: “Quản lý giáo dục” [28] do Bùi Minh Hiền chủ biên, ở chương 10 đã đề cập đến các vấn đề
lí luận về vai trò của TBDH trong sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, phân loại các nhóm TBDH mà
người quản lý cần bao quát và đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp quản lý TBDH ở nhà trường THPT trong
giai đoạn hiện nay.
Bài viết: “Nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH trường THCS”[66] tác giả Trần Đức Vượng thuộc Viện
Chiến lược và Chương trình giáo dục. Qua khảo sát việc sử dụng TBDH ở nhiều địa phương tác giả đã rút ra
một số nguyên nhân dẫn đến sử dụng không hiệu quả TBDH như: “ Trình độ sử dụng TBDH của giáo viên còn
thấp, đội ngũ quản lý giáo dục ở một vài địa phương chưa thật sự chú trọng chỉ đạo việc sử dụng có hiệu quả
TBDH …”[66, tr.39]. Đồng thời tác giả cũng đã đề ra một số các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH.
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu về lí luận và thực tiễn, đồng thời đề
ra các giải pháp về quản lý cơ sở vật chất – kỹ thuật trường học, quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật
chất – kỹ thuật trường học hoặc đi sâu vào nghiên cứu sử dụng một loại phương tiện cụ thể để giảng dạy một
môn học cụ thể, vẫn chưa có nghiên cứu nào về vấn đề quản lý việc sử dụng TBDH của giáo viên trường
THPT tỉnh Cà Mau.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Nói
về sự quản lý Các Mác đã viết: “Tất cả hoạt động lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[ 28- 12]
Theo Trần Kiểm: “ Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết

hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.”[36, tr. 8].
Theo Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.” [28, tr.12]
Ngày nay thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến và chưa có định nghĩa thống nhất. Tuy có nhiều định nghĩa
về quản lý khác nhau, song chúng đều có những dấu hiệu chủ yếu sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ ra
lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại.
Về mục tiêu của quản lý: là cần tạo dựng một môi trường mà trong đó mỗi con người có thể hoàn thành
mục đích của mình, của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
Về đối tượng của quản lý: là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa người và người trong quản lý, quan
hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Lãnh đạo: được hiểu là dẫn dắt tổ chức, phong trào theo một đường lối cụ thể. Lãnh đạo thường là người
hoặc cơ quan tổ chức đề ra định hướng, chủ trương, đường lối, chính sách và phương pháp hoạt động cho một
tổ chức, một đơn vị. Trên thực tế nhiều trường hợp khó phân biệt được một cách rạch ròi giữa quản lý và lãnh
đạo. Không ít trường hợp quản lý và lãnh đạo thâm nhập vào nhau.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài người, giáo dục xuất hiện là nhằm để
thực hiện nhiệm vụ truyền kinh nghiệm lịch sử-xã hội loài người của thế hệ đi trước cho thế hệ đi sau, để thế hệ
đi sau có trách nhiệm kế thừa phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người
phát triển không ngừng. Để thực hiện được mục đích nêu trên cần phải có sự quản lý, đó chính là quản lý giáo
dục.
Theo
từ điển Giáo dục học quản lý giáo dục theo nghĩa rộng là thực hiện việc quản lý trong lĩnh vực
giáo dục. Quản lý giáo dục theo nghĩa hẹp là quản lý giáo dục thế hệ trẻ, giáo dục nhà trường, giáo dục trong hệ

thống giáo dục quốc dân.
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm l
àm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của
Đảng thực hiện được các tiêu chí của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất.”[45].
Từ những khái niệm trên ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động có tổ chức,
có định hướng phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động
giáo dục ở từng cơ sở và của toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu đã định.


1.2.3. Quản lý trường học
Quản lý trường học hay quản lý nhà trường là quản lý giáo dục trong một trường học cụ thể “là hệ thống
những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý
đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài
nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường”[36, tr.37].
1.2.4. Quản lý quá trình dạy học
Là tác động có mục đích của người quản lý lên quá trình dạy học nhằm thực hiện tốt các khâu: Nhận thức,
rèn luyện kỹ năng, thúc đẩy nâng cao chất lượng hiệu quả quá trình dạy học.
1.2.5. Thiết bị dạy học
Trong công tác dạy và học ngoài thầy trò, chương trình sách giáo khoa trường lớp … thường phải sử
dụng đến TBDH. TBDH là một bộ phận cơ sở vật chất trường học trực tiếp có mặt trong các giờ học được thầy
trò cùng sử dụng.
Có nhiều quan niệm khác nhau về TBDH:
Theo Lotx Kinbơ thì: “TBDH là tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp cho GV và HS tổ chức
và tiến hành hợp lí có hiệu quả quá trình giáo dưỡng và giáo dục ở các môn học, cấp học”[ 17, tr.11].
Theo Vũ Trọng Rỹ “TBDH là thuật ngữ chỉ một vật thể hoặc một tập hợp đối tượng vật chất mà người
GV sử dụng với tư cách là phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Còn đối với HS thì đó là nguồn
tri thức, là phương tiện giúp HS lĩnh hội các khái niệm, định luật …hình thành ở họ các kỹ năng, kỹ xảo, đảm
bảo việc giáo dục, phục vụ mục đích dạy học và giáo dục”.[51, tr.259]

Khái niệm TBDH dùng trong luận văn này được hiểu theo nghĩa: là tập hợp những đối tượng vật chất
được người dạy sử dụng với tư cách là những phương tiện (được thiết kế kỹ thuật và thiết kế sư phạm với mục
đích giáo dục và mục đích sử dụng đã định từ trước) để tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức người học, là
phương tiện nhận thức của người học, thông qua đó thực hiện mục tiêu dạy học.
Phân loại thiết bị dạy học trong các phương tiện dạy học: TBDH là phần phương tiện được thiết kế
kỹ thuật và thiết kế sư phạm với mục đích giáo dục và mục đích sử dụng đã định ra từ trước. Trong số các
phương tiện dạy học còn có nhiều thứ không phải là TBDH. TBDH có hai loại chủ yếu là học cụ và học liệu.
- Học cụ có chức năng công cụ giúp người giảng dạy và người học tiến hành hoạt động của mình, trong
đó trọng tâm là hoạt động xử lí đối tượng.
- Học liệu có chức năng nguồn học vấn (thông tin, tri thức, giá trị) làm đối tượng để người dạy và người
học xử lí, tức là chức năng đối tượng. Trong mọi hoạt động đều có chủ thể (người học, người dạy), vật liệu (học
liệu) phải chế biến, xử lí và công cụ (học cụ) mà chủ thể phải dùng để tác động vào vật liệu nhằm chế tạo ra sản
phẩm mình muốn.
1.2.6. Quản lý thiết bị dạy học
Là tác động có mục đích của người quản lý lên hệ thống TBDH nhằm thực hiện tốt các
khâu: Trang bị TBDH, sử dụng TBDH, bảo quản TBDH.
Quản lý TBDH là một trong những nhiệm vụ quản lý nằm trong mô hình quản lý chung là quản lý giáo
dục, nên cũng đảm bảo các nguyên tắc:
- Nguyên tắc về tính mục đích.
- Nguyên tắc mang tính kế thừa và phát triển .
- Nguyên tắc tuân thủ chu trình quản lý.

1.2.7. Quản lý sử dụng thiết bị dạy học
Là tác động có mục đích của người quản lý lên quá trình sử dụng TBDH nhằm thực hiện tốt các khâu:
Chuẩn bị TBDH, tổ chức sử dụng TBDH nhằm thúc đẩy nâng cao chất lượng hiệu quả quá trình sử dụng
TBDH.
1.3. Quản lý thiết bị dạy học ở trường trung học phổ thông
1.3.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học phổ thông trong hệ thống giáo
dục quốc dân
Theo Luật Giáo dục năm 2005 và Điều lệ trường trung học năm 2007 thì trường trung học có vị trí, mục

tiêu, nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Vị trí của trường trung học: Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng.
Mục tiêu của giáo dục THPT là nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục
trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp, có điều khiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của Chương trình giáo dục phổ thông.
- Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động giáo viên, cán bộ, nhân viên.
- Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang TBDH theo quy định Nhà nước.
- Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến trường, quản lý học sinh theo quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng.
- Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, HS tham gia các hoạt động xã hội.
- Huy động, quản lý sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với gia đình HS, tổ chức
cá nhân trong hoạt động giáo dục.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm quyền
kiểm định chất lượng giáo dục.
- Thực hiện nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Vai trò của thiết bị dạy học trong quá trình dạy học
- Mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, quy trình đào tạo là các
yếu tố quy định thiết bị dạy học về các mặt: Trang bị ,sử dụng, bảo quản.
- Thiết bị dạy học là cầu nối để người học, người dạy cùng hành động tương hợp với
nhau, sử dụng phương pháp đào tạo chiếm lĩnh được nội dung và mục tiêu đào tạo, nó góp phần
quyết định chất lượng đào tạo, nó hỗ trợ đắc lực ch
o thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
TBDH là một trong những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện nội dung giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển học sinh trong quá trình dạy học. Đối với các môn học ở trường phổ thông, TBDH giữ vai trò đặc biệt
quan trọng và được thể hiện trên những nội dung cụ thể sau đây:

Đẩy mạnh và hướng dẫn hoạt động nhận thức của HS: sử dụng TBDH góp phần nâng cao tính trực
quan của quá trình dạy - học, mở rộng khả năng tiếp cận với các đối tượng, hiện tượng. Con người nhận thức
thế giới bên ngoài nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai. Hệ thống tín hiệu thứ nhất là
những gì nghe được, thấy được, cảm xúc được từ thế giới bên ngoài (trừ lời nói). Đó là những thông tin về thế
giới khách quan mà con người nhận được nhờ các giác quan, là cơ sở của sự phản ảnh thực tiễn. Hệ thống tín
hiệu thứ hai là ngôn ngữ, là thông tin về thực tiễn khách quan đã được trừu tượng hoá. Hệ thống tín hiệu thứ
nhất là cơ sở của hệ thống tín hiệu thứ hai. Người ta không thể hiểu được những gì khi dùng ngôn ngữ để mô tả
một khái niệm, một hiện tượng nếu không có biểu tượng ban đầu của nó.
Khi HS bắt đầu học tập, nghiên cứu các môn học, các em đã tích luỹ được một số biểu tượng ban đầu do
quan sát thực tiễn học tập mà có. Nhưng những biểu tượng này không đồng đều giữa các HS, mức độ chính xác
và sâu sắc còn hạn chế và rất khác nhau. Vì vậy, trong giờ học, GV phải cho HS quan sát các hiện tượng hoặc
tạo nên các hiện tượng tự nhiên bằng phương pháp nhân tạo nghĩa là sử dụng các phương tiện trực quan là
TBDH. Như vậy, TBDH trước hết giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính trực quan của quá trình dạy –
học. Mặt khác, trong quá trình học tập, HS lĩnh hội tri thức mới từ nhiều nguồn khác nhau: Lời nói của thầy, nội
dung sách giáo khoa, các tài liệu học tập khác, môi trường gia đình, xã hội … TBDH với tư cách là phương tiện
chứa đựng và chuyển tải thông tin tới HS, được coi như là nguồn tri thức quan trọng. TBDH còn giúp điều
khiển hoạt động nhận thức của HS. Chẳng hạn, dựa trên các hiện tượng xảy ra trong phòng thí nghiệm hoặc
trên các sự vật hiện tượng… giúp GV hình thành một hệ thống câu hỏi, định hướng tư duy của HS theo chiều
hướng nhất định (phân tích, tổng hợp, so sánh, khắc hoạ chúng trong sự vận động và phát triển …).
Giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực thực hành: Sử dụng TBDH và thông qua thí
nghiệm giúp HS chiếm lĩnh kiến thức, vận dụng kiến thức một cách độc lập để giải thích các hiện tượng và rút
ra kết luận trên các hiện tượng đã được quan sát được.
Kích thích hứng thú nhận thức của HS: Hứng thú nhận thức là một trong những yếu tố có ảnh hưởng
lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình học tập. Trong quá trình dạy học, TBDH được sử dụng nhằm kích
thích hứng thú học tập của HS, tạo ra động cơ học tập, rèn luyện thái độ tích cực đối với tài liệu mới.
Phát triển trí tuệ HS: Trong quá trình học tập, trí tuệ HS được phát triển nhờ sự tích cực hoá các mặt
khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ việc tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự phá
t triển khác nhau của hoạt
động tâm lí: tri giác, biểu tượng, trí nhớ … Sử dụng TBDH đúng lúc và đúng chỗ, với những phương pháp và
lời dẫn thích hợp của GV giúp HS phát triển óc quan sát, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh.

Giáo dục nhân cách HS: sử dụng TBDH giúp bồi dưỡng cho HS khả năng quan sát, tính cần c
ù, trung
thực, tác phong làm việc nghiêm túc, ngăn nắp, khoa học.
Hợp lí hoá quá trình hoạt động của GV và HS: Sử dụng THDH sẽ làm gia tăng cường độ lao động
của HS, tạo điều kiện nâng cao nhịp độ nghiên cứu tài liệu giáo khoa. Sử dụng tốt TBDH giúp GV và HS mất
ít thời gian và công sức vào tổ chức phụ trong lớp, dành thời gian cho việc thực hiện có hiệu quả cao giờ lên
lớp.
Thiết bị dạy học vật chất hóa phương pháp đào tạo, làm tăng năng suất lao động
của giáo viên và học sinh: Thiết bị dạy học là công cụ lao động của giáo viên và học sinh, vật
chất hóa phương pháp đào tạo. Góp phần tích cực vào giải phóng sức lao động của thầy trò tạo
điều kiện cho hoạt động dạy học diễn ra hợp lý, đúng quy luật.
Thiết bị dạy học tham gia vào thúc đẩy sự hiện thực hóa mục tiêu đào tạo, góp phần
làm cho quá trình đào tạo có chất lượng hiệu quả: Là nguồn thông tin thể hiện nội dung dạy
học gây cảm xúc và tạo biểu tượng về đối tượng học tập:
Yêu cầu cải tiến nội dung, phương pháp đào tạo chỉ có thể thực hiện được khi có thiết bị dạy
học đủ mạnh t
heo sự tiến bộ của nội dung đào tạo và phương pháp đào tạo.
Không có sự tương hợp nhau về nội dung phương pháp đào tạo với thiết bị dạy học thì
sớm muộn việc thực hiện mục tiêu đào tạo sẽ bị kìm hãm, quá trình đào tạo sẽ bị phá vỡ sự cân
đối toàn vẹn và nền giáo dục sẽ bị suy thoái.
Tóm lại : TBDH đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định chất lượng quá trình dạy- học. Bởi
vì nó là một thành tố của quá trình dạy – học và có quan hệ tương hỗ với tất cả các thành tố khác của quá trình
dạy học. Do đó quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng TBDH là một trong những yếu tố để góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục.
1.3.3. Phân loại thiết bị dạy học
TBDH rất phong phú, đa dạng và thay đổi theo thời gian cùng với sự pháp triển của khoa học – kỹ thuật.
Vì vậy vấn đề phân loại TBDH là một vấn đề phức tạp. Có nhiều cách phân loại khác nhau, mỗi cách đều dựa
trên một tiêu chí nào đó, phục vụ một mục đích sư phạm nhất định. Chúng tôi xin đưa ra một số quan điểm
phân loại TBDH tương đối phổ biến sau:
Phân loại theo cách thức tiếp cận thông tin gồm có:

- Phương tiện nhìn.
- Phương tiện nghe.
- Phương tiện nghe - nhìn động.
Phân loại theo hệ thống tín hiệu sử dụng:
- Phương tiện âm thanh.
- Phương tiện văn bản.
- Phương tiện hình ảnh.
- Phương tiện văn bản – hình ảnh kết hợp.
Phân loại theo tính chất công nghệ của quá trình chế tạo và vận hành:
- Nhóm các phương tiện thông thường, có cấu tạo và tính năng kỹ thuật không phức tạp.
-
Nhóm các phương tiện kỹ thuật được chế tạo bởi các ngành công nghiệp có tính chuyên nghiệp
có cấu tạo tính năng phức tạp.
Tóm lại: Việc phân chia TBDH là vấn đề phức tạp, do đó các cách phân loại đều mang tính chất
hoàn toàn qui ước tương đối. Sự phức tạp trong việc phân loại TBDH cho thấy tính phong phú, đa dạng về
chủng loại cũng như tính phức tạp trong việc nghiên cứu lí luận về sử dụng và quản lý việc sử dụng TBDH.
1.3.4. Chức năng của thiết bị dạy học
Tuy rất phong phú và đa dạng về chủng loại, nhưng dù thuộc chủng loại nào thì TBDH cũng thể hiện 3 chức
năng sư phạm sau:
- Thông báo, trình bày thông tin.
- Minh hoạ, giải thích, mô tả trực quan.
- Tổ chức và tiến hành các hoạt động giao tiếp.
1.3.5. Một số nguyên tắc khi sử dụng thiết bị dạy học
- Nguyên tắc về tính mục đích
Khi trang bị thiết bị nào đó phải xác định được nhiệm vụ cuả nó theo chương trình đào
tạo. Nếu thiết bị dạy học không có nhiệm vụ rõ ràng đối với chương trình đào tạo thì không nên
trang bị.
- Nguyên tắc mang tính kế thừa và phát triển
Đầu tư trang bị TBDH mới, nhưng đồng thời phải biết sửa chữa nâng cấp những cái đang còn có thể sử
dụng được phát triển nó phù hợp với kế hoạch đào tạo của đơn vị. Song song với tính kế thừa cần tích cực khai

thác các nguồn vốn để từng bước hiện đại hóa TBDH.
- Nguyên tắc tuân thủ chu trình quản lý
Tất cả những người tham gia QLTBDH đều phải tuân thủ tác động từ khâu trang bị, sử dụng, bảo quản. Ở
mỗi khâu này nó đều gắn với việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo điều hành và kiểm tra giám sát, điều
chỉnh phân tích tổng kết, rút kinh nghiệm.
1.3.6. Cơ sở của việc sử dụng và quản lý việc sử dụng thiết bị dạy học
1.3.6.1. Cở sở của khoa học giáo dục
Quá trình dạy học bao gồm các thành tố: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức dạy
học, hoạt động thầy trò và kết quả. Các thành tố này hoạt động trong môi trường tương tác với nhau, đảm bảo
cho quá trình diễn ra hài hoà, cân đối và toàn vẹn.
Ba nhân tố mục đích nội dung và phương pháp liên kết chặt chẽ với nhau, qui định và hỗ trợ nhau.
Chúng có quan hệ với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, trạng thái tiến bộ về văn hoá, khoa học của đất nước,
chúng tạo ra cái lõi của quá trình dạy học. Mối quan hệ này thể hiện qua sơ đồ sau:





Hình 1.1 Mối quan hệ giữa mục đích, nội dung và phương pháp
Ba nhân tố lực lượng đào tạo (Giáo viên) đối tượng đào tạo (HS) và TBDH là các lực lượng vật chất, để
thực hiện hoá được mục tiêu đào tạo, tái tạo, sáng tạo nội dung đào tạo và phương pháp đào tạo. TBDH là cầu
nối để GV, HS cùng hành động tương hợp với nhau chiếm lĩnh nội dung đào tạo, thực hiện mục tiêu đào tạo, sử
dụng phương pháp đào tạo.


M





ND PP




Hình 1.2 Mối quan hệ giữa GV, HS v
à THDH
Tổng quát sơ đồ hoá mối quan hệ tương tác 6 yếu tố trên :







Hình 1.3 Mối quan hệ giữa 6 nhân tố trong quá trình đào tạo
Qua sơ đồ trên ta thấy trong quá trình dạy học TBDH có vai trò:
- Là công cụ lao động của người giáo viên.
- Là công cụ nhận thức của HS.
- Là sự cụ thể hoá nội dung dạy học.
- Vật chất hoá phương pháp dạy học.
- Tham gia vào thúc đẩy sự thực hiện hoá mục tiêu đào tạo, góp phần làm cho quá trình đào tạo
có chất lượng, hiệu quả.
1.3.6.2. Cơ sở của triết học duy vật biện chứng
Theo quan điểm
duy vật biện chứng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
giữa vật chất và ý thức có tác động qua lại rất mật thiết, không một chiều, luôn luôn vận động và tương hỗ lẫn
nhau. Các Mác đã chỉ ra rằng: “Ý niệm chẳng qua là vật chất đã được chuyển vào bộ óc con người và được cải
biến trong đó”.[17, tr.12]. Ăngghen thì viết: “Bất kì một điều suy nghĩ và hiểu biết nào cũng xuất phát từ kinh
nghiệm cảm giác, còn trong tinh thần thì trước đó không có gì cả về điều đó”. Lê Nin cũng đã viết: “Từ trực

quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lí, của sự nhận thức khách quan.”[44, tr. 198].
Thiết bị dạy học được sử dụng hợp lí trong quá trình dạy học của giáo v
iên sẽ tác động lên các giác quan
của học sinh, giúp cho các quá trình nhận thức của học sinh hoạt động tích cực, học sinh lĩnh hội kiến thức và
rèn luyện những kĩ năng thuận lợi hơn, dễ dàng hơn và có hiệu quả hơn.
Như vậy, xét trên quan điểm duy vật biện chứng, TBDH là một trong những cơ sở chủ yếu giúp cho HS
nhận thức được thế giới khách quan, lĩnh hội tri thức khoa học, phát triển tư duy.
GV HS




TBDH
MTT

GV HS



NDT PPT

TBDH
1.3.6.3. Cơ sở tâm lí học của nhận thức
Quá trình nhận thức trãi qua hai giai đoạn.
Nhận thức cảm tính bao gồm các quá trình cảm giác, tri giác và biểu tượng, đây là quá trình phản ảnh
những thuộc tính bề ngoài, cụ thể của các sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con
người. Giai đoạn nhận thức này có vai trò thiết lập mối quan hệ tâm lí của cơ thể với môi trường, định hướng và
điều chỉnh hoạt động của con người với môi trường.
Nhận thức lí tính, là quá trình phản ánh trọn vẹn và sâu sắc về bản chất, các mối liên hệ có tính quy

luật của sự vật – hiện tượng. Sự phản ánh này được thực hiện chủ yếu thông qua con đường tư duy với các thao
tác tư duy như: phân tích, so sánh, đối chiếu, trừu tượng hoá, khái quát hoá.
Như vậy, các phương tiện trực quan tác động đến các cơ quan cảm giác của HS giúp cho HS có biểu
tượng về sự vật - hiện tượng. Từ biểu tượng đó thông qua các thao tác tư duy HS hiểu được bản chất, quy luật
của sự vật – hiện tượng.
1.3.6.4. Cơ sở sinh lí của nhận thức trực quan
Quá trình nhận thức thế giới được thực hiện qua việc các sự vật hiện tượng tác động vào các giác quan và
thông qua kinh nghiệm, nhận thức của con người. Có thể khẳng định cơ sở của nhận thức trực quan là hệ thống
tín hiệu thứ hai và quá trình nhận ra các sự vật hiện tượng ở nhiều mức độ khác nhau thông qua các cơ quan thụ
cảm.
Phương ngôn ta có câu: “ Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”.
Người ta đã tổng kết được mức độ ảnh hưởng của các giác quan qua qúa trình truyền thông như sau:
- Sự tiếp thu tri thức khi học đạt được:
1,0 % qua nếm
1,5 % qua sờ
3,5 % qua ngửi
11,0 % qua nghe
83,0 % qua nhìn.
- Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học đạt được như sau:
20% qua những gì mà ta nghe được
30% qua những gì mà ta nhìn được
50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được
80% qua những gì mà ta nói được
90% qua những gì mà ta nói và làm được.
- Lượng tiếp thu tri thức khoa học đạt trong một đơn vị thời gian (bit/giây) của các giác quan được thể
hiện như sau:
Xúc giác là 2-10 bit/giây
Khứu giác là 10-100 bit/giây
Thính giác là 30000-50000 bit/giây
Thị giác là 5000000 bit/giây

- Ở Ấn Độ, tổng kết quá trình dạy học người ta cũng nói:
TÔI NGHE – TÔI QUÊN
TÔI NHÌN – TÔI NHỚ
TÔI LÀM – TÔI HIỂU
Qua các kết quả trên cho thấy càng nhiều giác quan tham gia vào quá trình nhận thức học tập của HS thì
quá trình tiếp thu kiến thức càng hiệu quả, sâu sắc và nhanh chóng, khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tiễn
càng phát triển.
Muốn huy động được nhiều giác quan vào quá trình nhận thức của HS thì quá trình dạy học cần phải sử
dụng TBDH một cách hợp lí, đúng mục đích, đúng mức độ và cường độ, đồng thời cũng phải bảo đảm các yêu
cầu của TBDH.
1.3.6.5. Cơ sở pháp lí của việc sử dụng và quản lý việc sử dụng thiết bị dạy học
Dựa trên Luật Giáo dục quy định. Dựa trên Điều lệ trường trung học và các văn bản
hướng dẫn chỉ đạo của các cấp, các ngành về công tác thiết bị trường học, mọi công tác quản lý
sử dụng thiết bị dạy học phải tuân theo quy định của Nhà nước.
Thiết bị dạy học được mua sắm, trang bị từ nhiều nguồn kinh phí khác nhau. Song dù từ
nguồn nào đi nữa đó cũng là tài sản chung của nhà trường, của Nhà nước cho nên nó phải được
quản lý chặt chẽ. Quản lý sử dụng phải tuân thủ các nguyên tắc tổng quát đặt ra, xem
xét từ các
yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm, tính mục đích, tính thẫm mỹ, về đặc trưng của ngành,
bộ môn và yêu cầu về kinh tế.
1.3.7. Những yêu cầu về thiết bị dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy học
Khi đầu tư trang bị, yêu cầu thiết bị dạy học đảm bảo 4 tính sau:
- Tính sư phạm: Yêu cầu thiết bị dạy học phải đảm bảo tính sư phạm tức là thiết bị dạy học tác động đến
tư tưởng, tình cảm, niềm tin của HS trong quá trình dạy học.
- Tính kinh tế: thiết bị dạy học được trang bị phải phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi nhà trường, phù
hợp với nguồn vốn ở mỗi thời điểm cụ thể.
- Tính kỹ thuật: thiết bị dạy học phải đảm bảo tính khoa học, tính hiện đại phù hợp với sự tiến bộ khoa
học kỹ th
uật hiện nay và nhiều khi còn mang tính đón đầu công nghệ mới. thiết bị dạy học phải dễ sử dụng,
tránh sự lạc hậu quá nhanh.

- Tính mỹ thuật: thiết bị dạy học p
hải đảm bảo gọn, đẹp, “bắt mắt”
Quan niệm về chất lượng - Chất lượng giáo dục:
- “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó một khả năng thoả
mãn những nhu cầu đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn”.
- Chất lượng là “cái tạo nên phẩm chất giá trị của một con người sự vật hiện tượng”.
“Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu
” từ đó có thể hiểu chất lượng giáo dục là “sự phù hợp
với mục tiêu giáo dục”.
- Các yếu tố đảm bảo chất lượng đào tạo trong đó có vai trò của thiết bị dạy học. Nó là
thành tố không thể thiếu được trong cấu trúc toàn vẹn của quá trình giáo dục, giảng dạy, nó góp
phần quyết định nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo.
1.4. Nội dung yêu cầu quản lý sử dụng thiết bị dạy học ở trường trường trung học phổ thông
TBDH là một trong những điều kiện quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy – học, là nội dung và
nguồn thông tin giúp cho GV tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Việc sử dụng TBDH không
chỉ nhằm minh hoạ bài giảng mà còn phải có tác dụng thúc đẩy quá trình nhận thức, phát triển năng lực tư duy
sáng tạo và rèn luyện kỹ năng thực hành cho HS. Nếu sử dụng TBDH một cách tình cờ, tuỳ tiện, chưa có sự
chuẩn bị chu đáo sẽ dẫn đến hiệu quả học tập không tăng mà có trường hợp dẫn đến phản tác dụng. Do đó trước
khi sử dụng TBDH, GV phải nắm rõ mục đích, nội dung, sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đủ cường độ và phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường. Đặc biệt là những người là công tác quản lý hơn ai hết phải nắm rõ
những nội dung nêu trên để quản lý tốt việc sử dụng TBDH của GV, có như vậy mới phát huy được hiệu quả
khi sử dụng TBDH góp phần nâng cao chất lượng dạy – học.
Quản lý việc sử dụng TBDH là làm cho TBDH có mối liên hệ chặt chẽ với giáo viên, với HS, với nội
dung, với phương pháp dạy, với phương pháp học theo định hướng của mục tiêu đào tạo đã vạch ra.
1.4.1. Các loại thiết bị dạy học ở trường trung học phổ thông
Thiết bị dạy học ở trường THPT gồm có các nhóm sau:
- Nhóm các mô hình, mẫu vật: gồm máy móc, dụng cụ nguyên mẫu, có nguồn gốc phỏng
theo, hoá chất, mẫu vật tự nhiên, mẫu vật nhân tạo, mô hình...
- Nhóm các dụng cụ thí nghiệm: “chứng minh và thực hành gồm các dụng cụ thí nghiệm
theo các bài của chương trình.

- Nhóm các vật liệu nghe nhìn: Các tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bảng biểu, bảng ghi hình, ghi
âm, phim giáo khoa, phim đèn chiếu, bảng trong, đĩa mềm máy tính...
- Nhóm các thiết bị kĩ thuật: thiết bị ch
iếu động, chiếu tĩnh, thiết bị âm thanh, Hệ thống
máy tính kết hợp với máy chiếu
- Nhóm các phương tiện hỗ trợ: Các bộ gá lắp, hệ điều khiển...
1.4.2. Những yêu cần về quản lý sử dụng thiết bị dạy học ở trường trung học phổ thông
Chức năng QL Công tác QL Sử dụng TBDH
Lập kế hoạch
Lập kế hoạch sử dụng
Tổ chức
Tổ chức sử dụng
Chỉ đạo
Chỉ đạo sử dụng
Kiểm tra
Kiểm tra sử dụng
Lập kế hoạch trang bị, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học
Khảo sát hiện trạng thiết bị dạy học, những thông số cơ bản về số lượng, chất lượng, tình
hình sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học.
Đánh giá mức độ trang bị thiết bị dạy học so với yêu cầu dạy và học của nhà trường đồng
thời xác định hiệu quả khai thác các thiết bị dạy học hiện có.
Xây dựng kế hoạch tăng cường trang bị và nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo quản, mua
sắm, sửa chữa, tự làm, sưu tầm thiết bị dạy học.
Tổ chức và chỉ đạo công tác thiết bị dạy học: Đây là khâu có tính chất quyết định trong
việc thực hiện kế hoạch đề ra trong đó đặc biệt là phân cấp quản lí t
rong nội bộ nhà trường và
từng thành viên liên quan.
Kiểm tra và đánh giá: Là một khâu trong công tác quản lí thiết bị dạy học với 3 yêu cầu:
đánh giá, phát hiện và điều chỉnh.
Kiểm tra việc mua sắm thiết bị dạy học theo kế hoạch về số lượng, chất lượng, chủng loại

của thiết bị, lắp đặt v
à vận hành thử.
Kiểm tra và đánh giá cán bộ GV và HS sử dụng thiết bị dạy học Kiểm tra việc thực hiện
chế độ bảo dưỡng và kiểm kê thiết bị dạy học theo định kì
1.4.3. Nội dung công tác quản lý sử dụng thiết bị dạy học ở trường trung học phổ thông
1.4.3.1. Quản lý việc sử dụng thiết bị dạy học đúng mục đích
Mỗi TBDH khi đưa vào sử dụng đều phải trãi qua quá trình nghiên cứu, chế tạo và thẩm định để đảm
bảo tính khoa học, sư phạm, tính thẩm mĩ, tính kinh tế. Cho nên mỗi TBDH đều có một chức năng, mục đích rõ
ràng để giải thích, minh hoạ hay chứng minh một nội dung cụ thể trong chương trình sách giáo khoa. Mặt khác,
trong chương trình sách giáo khoa mỗi chương, mỗi bài đều có hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng TBDH. Cho
nên, yêu cầu đặt ra cho người quản lý việc sử dụng TBDH là phải sử dụng các biện pháp quản lý phù hợp tác
động đến đối tượng sử dụng TBDH để cho việc sử dụng TBDH đúng mục đích và phù hợp với yêu cầu của
chương trình học.
Trong quá trình dạy học, việc vận dụng các phương pháp dạy học không thể tách rời với việc sử dụng các
TBDH, các TBDH với tư cách là công cụ phục vụ cho việc chuyển tải thông tin đến người học, nếu TBDH
được sử dụng hợp lí, phù hợp vời không gian, thời gian và phù hợp với nội dung mỗi loại bài dạy thì sẽ kích
thích được tâm lí học tập, tính chủ động tích cực và niềm say mê khoa học của người học. Ngược lại, việc sử
dụng TBDH tuỳ tiện sẽ gây ra phản ứng ngược lại làm hạn chế đến hiệu quả quá trình dạy học. Vì vậy, việc sử
dụng TBDH đúng mục đích, đảm bảo đầy đủ các tính năng của TBDH. Muốn vậy, công tác quản lý TBDH cần
phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết đến từng bộ phận, từng GV để tạo ra tính chủ động, tích cực của mỗi chủ thể.
1.4.3.2. Quản lý hình thức, cách thức tổ chức và sử dụng TBDH
Đây là quản lí việc sử dụng TBDH cho đảm bảo các nguyên tắc sử dụng TBDH, quản lí chu trình sử
dụng TBDH để cho việc sử dụng TBDH có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy – học.
Hình thức: Nhà quản lý phải quản lý hình thức sử dụng TBDH của GV.
- Sử dụng vào loại bài học nào: giờ dạy chính khoá hay hoạt động ngoại khoá, thực hành, thí nghiệm.
- Sử dụng vào hoạt động nào: kiểm tra bài cũ, giảng bài mới, ôn tập, luyện tập, củng cố bài học…
- Sử dụng vào khâu nào của tiến trình lên lớp.
Cách thức tổ chức: nhà quản lý nắm được
- Giáo viên sử dụng TBDH để minh hoạ, chứng minh, giải thích.
- GV và HS cùng phối hợp sử dụng.

- GV tổ chức cho các cá nhân HS sử dụng.
- GV tổ chức cho nhóm sử dụng.
- GV hướng dẫn cho HS sử dụng để chiếm lĩnh tri thức mới.
Quá trình sử dụng
- GV sử dụng loại TBDH gì, có phù hợp với nội dung bài giảng không.
- Mục đích sử dụng là nhằm làm gì.
- Kỹ thuật sử dụng: Thành thạo, các thao tác với công cụ.
- Phù hợp với không gian, thời gian và cường độ.
- Kết quả của việc sử dụng.
1.4.3.3. Qui trình sử dụng thiết bị dạy học
Giai đoạn chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của quá
trình sử dụng TBDH. Nếu quá trình chuẩn bị càng chu đáo, bài bản bao nhiêu thì quá trình sử dụng càng thuận
lợi và dễ dàng bấy nhiêu. Quá trình chuẩn bị cho việc sử dụng TBDH (cho một tiết dạy, thí nghiệm, thực hành)
bao gồm các bước sau:
Bước 1: lựa chọn TBDH là tìm những TBDH phù hợp nhất với nội dung bài giảng mà trong danh mục
TBDH của nhà trường có. Khi lựa chọn TBDH cần căn cứ vào các yêu cầu sau:
- Căn cứ vào nội dung bài học.
- Căn cứ vào danh mục TBDH hiện có của trường.
- Căn cứ vào kế hoạch sử dụng TBDH của bộ môn.
- Kĩ năng sử dụng TBDH của người sử dụng.
- Điều kiện thực tế của nhà trường.
- Khả năng sáng chế TBDH của GV.
Sau khi lựa chọn tiến hành viết phiếu mượn và mượn TBDH.
Bước 2: Kiểm tra TBDH là xem xét thiết bị có đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học sư phạm, tính
nhân trắc học, tính thẫm mỹ, tính khoa học kỹ thuật, tính an toàn.(TBDH khi đưa vào sử dụng thì đều bảo đảm
các yêu cầu trên, nhưng do trong quá trình sử dụng có những thiết bị hư, hỏng và quá hạn sử dụng nên trước khi
sử dụng thì cần phải kiểm tra trước để xem TBDH có đảm bảo không). Sau khi kiểm tra thiết bị không bảo đảm
thì lựa chọn lại, và tìm TBDH khác thay thế nó.
Bước 3: Dự kiến phương án sử dụng và phương án dự phòng đây cũng chính là kế hoạch bài giảng
(giáo án). Bước này cho biết TBDH được sử dụng ở khâu nào, bước nào, hoạt động nào, bố trí thiết bị như thế

nào, sử dụng vào lúc nào và thời gian sử dụng bao lâu. Ở bước này ta cũng phải tính đến phương án dự phòng
khi sự cố xảy ra ( thiết bị hỏng giữa chừng, mất điện...)
Bước 4: Sử dụng thử đây là bước kiểm tra lại các khâu trong kế hoạch, nếu có khâu nào không phù hợp
thì tiến hành điều chỉnh kế hoạch.
Giai đoạn thực hiện
Bước 1: Triển khai thiết bị là bố trí và lắp đặt thiết bị sao cho đúng lúc, đúng chỗ. Nói cách khác là
TBDH đưa vào sử dụng lúc nào trong các khâu của quá trình dạy học. Bố trí ở đâu cho phù hợp mà cả lớp có
thể quan sát một cách chính xác và khoa học.
Bước 2: Khai thác các tính năng của thiết bị Ở bước này yêu cầu người sử dụng TBDH phải dự kiến
thời gian sử dụng, sử dụng bao lâu để HS có thể hình thành được biểu tượng cho HS. GV và HS có thể khai
thác được những gì ở TBDH để phục vụ cho việc dạy và học của mình, qua việc sử dụng TBDH GV đã giáo
dục cho HS được điều gì.
Muốn sử dụng TBDH phục vụ tốt cho bài giảng thì yêu cầu người sử dụng phải có trình độ chuyên môn
và kỹ năng sử dụng TBDH, nắm vững các phương pháp dạy học, các yêu cầu, mục tiêu và nguyên tắc sử dụng
TBDH. Trong quá trình sử dụng phải phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học sao cho phù hợp.
Bước 3: Kết thúc sử dụng thu dọn thiết bị để khỏi ảnh hưởng đến sự tập trung chú ý của HS, để HS tập
trung đến các hoạt động khác.
Giai đoạn tổng kết rút kinh nghiệm
Về nội dung TBDH có phù hợp chưa, có đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu bài giảng không. Nếu đảm
bảo thì tiếp tục sử dụng, còn chưa thì lựa chọn lại.
Cách thức tổ chức sử dụng nếu sử dụng tốt thì tiếp tục còn nếu hạn chế thì lựa chọn lại thiết bị hoặc
học tập để nâng cao trình độ và kỹ năng sử dụng TBDH.

Tổng quát qui trình sử dụng TBDH

Hình 1.4 Qui trình sử dụng TBDH

1.4.3.4. Hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học
 Quan niệm về hiệu quả sử dụng TBDH: Hiệu quả là đại lượng chỉ mức độ tác dụng, gây ra hiệu
lực, dẫn đến kết quả nhất định và để lại ảnh hưởng của kết quả đó sau khi kết thúc chu trình làm việc hoặc hoạt

động. Như vậy, hiệu quả nào đó, về nguyên tắc được xác định trên cơ sở hiệu lực, tác dụng tương ứng, hiệu suất
vận hành và kết quả thu được xét cả về số lượng lẫn chất lượng. Khái niệm hiệu quả chỉ được xác định cụ thể
và nhu cầu đánh giá cụ thể, không có hiệu quả chung chung.


CHUẨN
BỊ

THỰC
HIỆN

TỔNG
KẾT
RÚT
KINH
NGHIỆM
Lựa chọn TBDH
Kiểm tra

Dự trù phương án sử
dụng
Sử dụng thử
Triển khai thiết bị
Khai thác tính năng của thiết bị
Kết thúc sử dụng
Nội dung
Kỹ năng
Sử dụng
Lựa chọn lại
Chưa đảm bảo

Điều chỉnh
Chưa hợp lí
Không đảm bảo yêu cầu
Đạt yêu cầu
Sử dụng

tiếp

Tốt
Chưa tốt
Tiếp tục
Thực hiện
Hiệu quả sử dụng TBDH bao gồm hiệu suất sử dụng, mục tiêu và kết quả sử dụng.
Hiệu suất sử dụng
Hiệu suất là kết quả lao động biểu hiện bằng khối lượng công việc làm được trong một thời gian nhất
định. Hiệu suất sử dụng TBDH được thể hiện qua các mặt của quá trình hoạt động sau:
- Cách thức, thái độ và kĩ năng sử dụng TBDH của GV và HS.
- Thời gian, mức độ và cường độ sử dụng trong quá trình sử dụng TBDH.
- Quản lý, tổ chức, giám sát và đánh giá việc sử dụng TBDH.
- Phí tổn xảy ra trong việc sử dụng, tính theo chi phí về thời gian và tiền bạc.
- Hoạt động học tập của người học.
- Hoạt động giảng dạy của GV.
Mục tiêu
Đây là thành phần cho biết TBDH được sử dụng hợp lí, phù hợp với không gian, thời gian, cường độ;
phù hợp với nội dung của mỗi bài giảng và nhiệm vụ giáo dục không.

Kết quả
Đây là thành phần cho biết TBDH được sử dụng mang lại những lợi ích gì thực sự cho sự phát triển của
người dạy, người học, sự tiến bộ trong công tác quản lý và kết quả giáo dục của nhà trường.
 Tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng TBDH:

+ Tần suất sử dụng: Là số lần sử dụng TBDH trong một khoảng thời gian (học kỳ, năm học) xét theo
từng loại so với yêu cầu giảng dạy môn học đã qui định trong chương trình và kế hoạch dạy học. Đây là tiêu chí
quan trọng nhất khi đánh giá hiệu quả sử dụng TBDH. Tần suất sử dụng TBDH càng cao thì người sử dụng
(GV, HS, phụ tá thí nghiệm) càng có cơ hội thuần thục hơn và hiệu quả sử dụng TBDH có cơ hội được nâng
cao. Tuy nhiên, không phải cứ sử dụng nhiều lần TBDH là đương nhiên nâng cao hiệu quả sử dụng.
+ Mức độ và thái độ sử dụng: Tiêu chí này xét theo khả năng khai thác thực tế của GV và HS so với
tính năng kỹ thuật và tính năng sư phạm của TBDH. Về thái độ là xem xét GV có tự giác sử dụng TBDH không
hay là bị bắt buộc, hay vì một động cơ nào đó?
HS có hào hứng với các bài có sử dụng TBDH không ? …
+ Tính thạo sử dụng TBDH: Tiêu chí này xét theo kỹ năng sử dụng của GV và HS trong quá trình sử
dụng TBDH gồm: Trình độ sử dụng TBDH có được nâng cao không. Năng lực thực hành, năng lực tư duy có
được phát triển không… Tỉ lệ khắc phục thành công các sự cố xảy ra về kĩ thuật an toàn trong quá trình sử dụng
TBDH. Tỉ lệ những sáng kiến, phát triển các ứng dụng sư phạm mới của thiết bị m
à GV và HS thực hiện.
+ Tính kinh tế của sử dụng TBDH: Là nói đến chất lượng của TBDH và sự bền vững của TBDH
trong sử dụng: Tính năng và chất lượng của TBDH có đúng như Cataloge không; có bảo đảm thời hạn sử dụng
thực tế….
+ Phục vụ đổi mới phương pháp dạy học: Trong quá trình sử dụng TBDH, HS có được hoạt động
nhiều hơn không, có tích cực suy nghĩ và tham gia thảo luận nhiều hơn không. Căn cứ vào mức độ biểu hiện đó
mà chúng ta đánh giá vai trò của TBDH với việc đổi mới phương pháp dạy học.
1.4.3.5. Nội dung công tác kiểm tra việc sử dụng thiết bị dạy học
Chuẩn bị
- Xây dựng kế hoạch kiểm tra.
- Xây dựng tiêu chuẩn kiểm tra đánh giá.
- Xây dựng nội dung kiểm tra.
- Xây dựng hình thức và phương pháp kiểm tra.
Thực hiện
- Xác định thời gian.
- Dự kiến đối tượng.
- Xác định hình thức kiểm tra.

- Nội dung kiểm tra.
- Tiến hành kiểm tra.
Đánh giá kết quả kiểm tra
- Đối chiếu kết quả kiểm tra so với chuẩn.
- Kết luận kiểm tra.
- Đưa ra các hình thức xử lý.
1.4.3.6. Hồ sơ quản lý việc sử dụng thiết bị dạy học
Hồ sơ quản lý sử dụng TBDH gồm các loại sau.
Đối với cán bộ quản lý
- Kế hoạch sử dụng TBDH của các bộ phận và GV.
- Sổ theo dõi việc sử dụng TBDH.
- Hồ sơ kiểm tra việc sử dụng TBDH.
Đối với tổ trưởng.
- Kế hoạch sử dụng THDH của bộ môn mình phụ trách.
- Số theo dỗi việc sử dụng TBDH của từng GV trong tổ.
Đối với cán bộ phụ trách TBDH
- Sổ gốc TBDH.
- Sổ theo dõi mượn trả TBDH.
- Kế hoạch sử dụng TBDH của từng môn.
- Danh mục TBDH
Đối với giáo viên
- Sổ sử dụng TBDH.
- Kế hoạch sử dụng TBDH.
1.4.3.7. Cán bộ phụ trách thiết bị và cấu trúc phòng thiết bị.
Người cán bộ phụ trách phòng TBDH:
Đây là yếu tố tiên quyết hàng đầu của mỗi nhà trường khi muốn nâng cao chất lượng sử dụng và khai thác
TBDH. Muốn đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng có hiệu quả TBDH, người cán bộ phụ trách TBDH phải có
một số tư chất sau đây:
Hiểu được kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý nghiệp vụ công tác TBDH.
Người phụ trách TBDH cần phải hiểu tầm quan trọng của công việc chuẩn bị thiết bị phục vụ cho dạy của

thầy và học của trò trong một nhà trường. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đang thực hiện đổi mới nội dung và
phương pháp dạy học, người cán bộ TBDH phải nắm chắc kiến thức chuyên môn, phương pháp dạy học có sử
dụng các thiết bị giáo dục. Chúng ta chưa bàn đến tâm lí của người làm công tác TBDH hoặc về vị trí của công
việc này mà chỉ nói đến việc nếu quản lý TBDH tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Có tinh thần, thái độ và trách nhiệm cao và với công việc quản lý nghiệp vụ thiết bị giáo dục của trường
học. Vì vậy, phẩm chất bền bỉ, tỉ mỉ và cần cù làm việc, xây dựng tác phong làm việc khoa học là yếu tố thành
công của người phụ trách phòng TBDH.
Có tinh thần đoàn kết thân ái giữ đúng nguyên tắc xuất nhập các thiết bị thí nghiệm với thái độ ôn hoà
khi chuẩn bị thiết bị giáo dục, đóng một vai trò quan trọng trong việc hoàn thành chất lượng các bài lên lớp.
Cấu trúc phòng thiết bị dạy học.
Để nâng
cao chất lượng sử dụng và khai thác có hiệu quả các TBDH được trang bị, nhà trường phải bố trí,
sắp xếp hợp lý, khoa học các phòng TBDH. Một số yếu tố cơ bản mang tính nguyên tắc tác động đến hiệu quả
hoạt động của phòng TBDH ở trường THPT là:
Phòng TBDH phải được bố trí ở nơi thoáng mát, cao ráo và sáng sủa thuận lợi cho việc di chuyển của giáo
viên và học sinh trong trường.
Bên trong của phòng TBDH phải phân ra nhiều lô hoặc nhiều góc. Mỗi lô dành cho thiết bị của một lớp.
Mỗi lớp lại chia nhiều ngăn chứa thiết bị, mỗi ngăn là một vị trí dành cho thiết bị của một bộ m
ôn. Sắp xếp như
vậy, khi người cán bộ thiết bị hoặc giáo viên cần sử dụng thiết bị của môn nào, của lớp nào có thể nhìn thấy
ngay không phải mất công tìm kiếm ...
Các TBDH được đánh mã số theo sơ đồ. Nghĩa là mỗi thiết bị đã nằm trong phòng TBDH đều có tên, có mã
số và vị trí nhất định. Ngay các dụng cụ hoặc các lọ đựng hoá chất để trong hộp cũng phải có sơ đồ chỉ rõ từng
vị trí của các lọ hoá chất . Như vậy rất thuận lợi cho việc lấy ra sử dụng và khi cất đi đúng vị trí sẽ ngăn nắp
khoa học, rất dễ dàng và thuận lợi cho việc bảo quản...
Thực hiện được yêu cầu trên, phòng TBDH phải tuân theo một số nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy
- Nguyên tắc ưu tiên.
- Nguyên tắc sắp xếp theo từng chuyên môn.
- Nguyên tắc an toàn.

- Nguyên tắc đảm bảo thẩm mỹ.
- Nguyên tắc có tên cho từng danh mục đồ dùng.
- Nguyên tắc vào sổ và kí mượn trả.


×