Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn thi tốt nghiệp môn Triết học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.23 KB, 14 trang )

1
Chương I.
1. Quan điểm của chủ nghĩa
DVBC về vật chất? Ý nghĩa
phương pháp luận?
• Hoàn cảnh ra đời.
Cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX,
các cuộc đấu tranh giữa các
trường phái, các luồng học
thuyết, tư tưởng, chính trị diễn ra
gay gắt. khoa học tự nhiên phát
triển như vũ bão và có nhiều
sáng kiến mang tính chất vác thời
đại, đặc biệt là những phát minh,
Rownghen phát hiện ra tia X,
Beccoren phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ, Tomxon phát hiện ra
điện tử,…
Những phát minh này chứng
minh rằng sự đồng nhất vật chất
với những dạng cụ thể của vật
chất, với những thuộc tính của
vật chất như quan niệm duy vật
trước Mác đã không còn phù hợp
nữa và trở thành căn cứ để chủ
nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại
chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng
“vật chất đã tiêu tan”, và toàn bộ
nền tảng của chủ nghĩa duy vật
đx bị sụp đổ hoàn toàn. Cuộc
“khủng hoảng của vật lý học” xuất


hiện.
Lê nin đã phân tích tình hình
phức tạp ấy và chỉ rõ: Những
phát minh có giá trị to lớn của vật
lý học cận đại không hề bác bỏ
chủ nghĩa duy vật mà chỉ bác bỏ
quan niệm cho rằng thế giới tự
nhiên là có tận cùng về mặt cấu
trúc, rằng nguyên tử hay khối
lượng là giới hạn cuối cùng, bất
biến của giới tự nhiên. Lê nin đã
chỉ ra rằng, không phải vật chất
tiêu tan mất, mà chỉ có giới hạn
hiểu biết của con người về vật
chất là tiêu tan. Trên cơ sở phân
tích một cách sâu sắc cuộc khủng
hoảng của vật lý học và phê phán
những quan niệm duy tâm, siêu
hình về phạm trù vật chất, Lê nin
đã đưa ra một định nghĩa hoàn
chỉnh về phạm trù vật chất mà
cho đến nay các khoa học hiện
đại vẫn thừa nhận.
• Nội dung định nghĩa
Trong tác phẩm “chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lê nin đã định nghĩa: Vật
chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khác quan,
được đem lại cho con người

trong cảm giác và được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.
• Phân tích nội dung định
nghĩa
Trong định nghĩa này của Lênin
đã chỉ rõ vật chất là một phạm trù
triết học. như vậy phạm trù vật
chất của triết học là một phạm trù
có tính khái quát nhất, dùng chỉ
vật chất nói chung, vô tận, vô
hạn, không sinh ra, không mất đi;
không giống với khái niệm vật
chất trong một số ngành khoa
học cụ thể hay trong đời sống
hằng ngày. Vì vậy không được
đồng nhất vật chất với tư cách là
một phạm trù triết học với các
dạng tồn tại cụ thể của nó mà các
nhà khoa học nghiên cứu.
Vật chất có thuộc tính cơ bản
nhất, quan trọng nhất là thực tại
khách quan và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác. Thực tại
khách quan là tồn tại thực và
không phụ thuộc vào ý thức con
người. Thuộc tính tồn tại khách
quan không phụ thuộc vào ý thức
con người là điều kiện cần và đủ

để phân biệt cái gì thuộc về vật
chất và cái gì không thuộc về vật
chất, cả trong tự nhiên và đời
sống xã hội. Tất cả những gì tồn
tại bên ngoài và độc lập với ý
thức con người đều là những
dạng khác nhau của vật chất. Ví
dụ những quan hệ kinh tế - xã
hội, những quan hệ sản xuất của
xã hội…tuy không tồn tại dưới
dạng các vật thể, cũng không
mang thuộc tính năng lượng, khối
lượng, cũng không có cấu trúc
phân tử, nguyên tử nhưng chúng
tồn tại khách quan, có trước ý
thức và quyết định ý thức.
Thực tại khách quan, được đem
lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh. Vật chất
tồn tại khách quan nhưng không
phải tồn tại trừu tượng mà là sự
tồn tại hiện thực, cụ thể, cảm
ứng. Khi vật chất tác động đến
các giác quan của con người thì
gây ra cảm giác ở con người,
đem lại cho con người sự nhận
thức về chính nó. Như vậy, khả
năng nhận thức của con người
đối với vật chất chính là xuất phát

từ thuộc tính tồn tại cảm tính -
tức tồn tại có thể nhận thức được
của bản thân vật chất. Vật chất
đem lại cho con người trong cảm
giác, điều này nói lên rằng, thực
tại khách quan (vật chất) có
trước, cảm giác của con người có
sau. Cảm giác của con người có
thể chép lại, chụp lai, phản ánh
được thực tại khách quan. Thực
tại khách quan không tồn tain
trừu tượng mà tồn tại thông qua
các dạng tồn tại cụ thể của mình
và bằng cảm giác của có người
có thể nhận thức được. Điều này
cũng có nghĩa là, thực tại khách
quan là nội dung khách quan,
nguồn gốc hách quan của những
cảm giác của con người.
Như vậy định nghĩa vật chất của
Leenin đã giải quyết được cả 2
vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường duy vật biện chứng,
bao gồm những nội dung sau:
Vật chất là cái tồn tại khách quan
bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn
tại ấy con người đã nhận thức
được hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác

ở con người khi gián tiếp hoặc
trực tiếp tác động lên giác quan
của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự
phản ánh của vật chất.
• Ý nghĩa phương pháp
luận.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã
bỏ qua quan điểm của chủ nghĩa
2
duy tâm, bác bỏ thuyết không thể
biết, đã khắc phục được những
hạn chế trong các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật trước Mác về
vật chất. Đồng thời định nghĩa vật
chất của Lênin còn có ý nghĩa
định hướng đối với khoa học cụ
thể trong việc tìm kiếm các dạng
hoặc các hình thức mới của vật
thể trong thế giới.
Khi nhận thức các hiện tượng
thuộc đời sống xã hội, định nghĩa
vật chất của Lênin cho phép xác
định cái gì là vật chất trong lĩnh
vực xã hội. Từ đó giúp các nhà
khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối
cùng của các biến cố xã hội,
những nguyên nhân thuộc về sự
vận động của phương thức sản

xuất; trên cơ sở ấy, người ta có
thể tìm ra các phương án tối ưu
để hoạt động thúc đẩy xã hội phát
triển.
Nội dug định nghĩa vật chất của
Lênin đã khắc phục được tính
trực quan, siêu hình, máy móc
trong quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm
chủ nghĩa duy vật phát triển lên
một trình độ mới, trở thành chủ
nghĩa duy vật biện chứng tạo cơ
sở khoa học cho quan niệm duy
vật trong lĩnh vực xã hội, đó là
chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng
thời cũng tạo cơ sở khoa học cho
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy
vật biện chứng với chủ nghĩa duy
vật lịch sử.
Định nghĩa về vật chất của Lênin
là cơ sở của thế giới quan khoa
học và phương pháp luận đúng
đắn cho các nhà khoa học nghiên
cứu thế giới vật chất.
Chuong I.
3. Quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Ý nghĩa của phương
pháp luận.

• Mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức.
- Vật chất là 1 phậm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan,
được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.
- Về bản chất, ý thức là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người một cách
năng động, sáng tạo; ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Theo quan điểm duy vật biện
chứng: vật chất và ý thức tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông
qua hoạt động thực tiễn; trong
mối quan hệ đó vật chất giữ vai
trò quyết định đối với ý thức.
 Vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức.
Trong mối quan hệ đối với ý
thức, vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau; vật chất là
nguồn gốc của ý thức; vật chất
quyết định ý thức; ý thức là sự
phản ánh đối với vật chất.

Vật chất có trước, ý thức có sau.
Vật chất tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức vfa là nguồn gốc
sinh ra ý thức. Não người là dạng
vật chất cao có tổ chức của thế
giới vật chất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thức. Ý thức
tồn tại phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não trong qua
trình phản ánh thế giới khách
quan.
Ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào não người, là hình
ảnh của thế giới khách quan. Thế
giới khách quan là nguồn gốc của
ý thức, quyết định nội dung của ý
thức. Sự vận động và phát triển
của ý thức, hình thức biểu hiện
của ý thức bị các quy luật sinh
học, xã hội và sự tác động của
môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực
vật chất nên vật chất không
những quyết định nội dung mà
còn quyết định cả hình thức biểu
hiện cũng như mọi sự biến đổi
của ý thức.
 Ý thức có tính độc lập tương đối,
tác động trở lại vật chất.
Ý thức có tính năng động, sáng

tạo nên tác động trở lại vật chất,
góp phần cải biến thế giới khách
quan thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Ý thức phản
ánh đúng hiện thực khách quan,
có tác dụng thúc đẩy hoạt động
thực tiễn của con người trong quá
trình cải tạo thế giới vật chất.
Nhưng nếu ý thức không phản
ánh đúng hiện thực khách quan,
ở mức độ nhất định có thể kìm
hãm hoạt động thực tiễn của con
người trong quá trình cải tạo tự
nhiên và xã hội.
Sự tác động trở lại của ý thức
đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người dù
đến mức độ nào thì vẫn dựa trên
những tri thức của mình về thế
giới khách quan hiểu biết những
quy luật khách quan, từ đó đề ra
mục tiêu, phương hướng, biện
pháp thực hiện và ý chí thực hiện
mục tiêu đó.
Vai trò tích cực, chủ động, sáng
tạo của ý thức con người trong
quá trinhg cải tạo thế giới hiện
thực được phát triển đến mức độ
nào vẫn phải dựa trên sự phản
ánh thế giới khách quan và các

điều kiện khách quan.
Không bao giờ ý thức lại quyết
định vật chất. Trái lại, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định
nội dung và khả năng sáng tạo
của ý thức; là điều kiện tiên quyết
để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có
khả năng tác động trở lại vật chất,
sự tác động ấy không phải tự
thân mà phải thông qua hoạt
3
động thực tiễn của con người.
Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình
độ phản ánh của ý thức, mức độ
thâm nhập của ý thức vào những
hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật
chất, hoàn cảnh vật chất trong đó
con người hành động theo định
hướng của vật chất.
• Ý nghĩa phương pháp
luận.
Trên cơ sở quan điểm về bản
chất vật chất của thế giới, bản
chất năng động, sáng tạo của ý
thức và mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức, chủ
nghĩa duy vật biện chứng xây
dựng nên 1 nguyên tắc phương

pháp luận cơ bản, chung nhất đối
với mọi hoạt động nhận thức và
thực tiễn của con người. Nguyên
tắc đó là: trong mọi hoặt động
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi
phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng khách quan, đồng
thời phát huy tính năng động chủ
quan.
Xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng khách quan là
xuất phát từ khách quan của vật
chất, có thái độ tôn trọng đối với
hiện thực khách quan mà căn
bản là tôn trọng quy luật, nhận
thức và hành động theo quy luật;
tôn trọng vai trò quyết định của
đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần của con người, của xã
hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận
thức và hành động của con người
phải xuất phát từ thực tế khách
quan để xác định mục đích, đề ra
đường lối, chủ trường, chính
sách, kế hoạch; phải lấy thực tế
khách quan làm cơ sở, phương
tiện; phải tìm ra những nhân tố
vật chất, tổ chức những nhân tố
ấy thaanhf lực lượng vật chất để
hành động.

Phát huy tính năng động chủ
quan là phát huy vai trò tích cực,
năng động, sáng tạo của ý thức
và phát huy vai trò nhân tố con
người trong việc vật chất hóa tính
tích cực, năng động, sáng tạo đó.
Bản thân ý thức tự nó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Ý thức muốn tác động trở
lại đời sống hiện thực phải bằng
lực lượng vật chất. Để phát huy
tính năng động, sáng tạo
ddosddoif hỏi con người phải tôn
trọng tri thức khoa học; tích cực
học tập, nghiên cứu để làm chủ
tri thức khoa học và truyền bá
náo vào quần chúng để nó trở
thành tri thức, niềm tin của quần
chúng, hướng dẫn quần chúng
hành động. Mặt khác phải tự giác
tu dưỡng, tu dưỡng để hình
thành, củng cố nhân sinh quan
cách mạng, tình cảm, nghị lực
cách mạng để có sự thống nhất
hữu cơ giữa tính khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành
động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng
khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan trong nhận thức

đòi hỏi phải phòng chống và khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó
là những hành động lấy ý chí áp
đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực, lấy ý muốn chủ
quan thay cho chính sách, lấy
tính cách làm điểm xuất phát cho
chiến lược, sách lược,… Đây
cũng là quá trình chống chủ
nghĩa khinh nghiệm, xem thường
tri thức khoa học, xem thường lý
luận, thụ động…. trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
Chương II.
1. Hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật.(trang
1)
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến.
• Khái niệm
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm
chỉ mọi sự ràng buộc, tác động
ảnh hưởng lẫn nhau của các sự
vật hiện tượng và trong điều kiện
nhất định gây nên sự chuyển
hóa.
• Tính chất
 Tính khách quan.
Đó là mối liên hệ hiện thực của
bản thân thế giới vật chất chứ

không phải do thượng đế hay
người ta tự nghĩ ra.
Trong hiện thực có rất nhiều mối
liên hệ như giữa cái vật chất với
cái tinh thần, giữa những hiện
tượng tinh thần với nhau,… Tất
cả suy cho cùng đều là sự phản
ánh mối liên hệ phổ biến và sự
quy định lần nhau giữa cacsuwj
vật hiện tượng của thế giới khách
quan.
 Tính phổ biến
Đó là thể hiện sự liên hệ giữa các
sự vật hiện tượng với nhau, liên
hệ giữa các yếu tố, các thuộc
tính, đặc trưng… trong từng sự
vật, hiện tượng.
Mối liên hệ tồn tại trong mỗi sự
vật cả trong tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Ví dụ: + Liên hệ giữa mặt trời và
trái đất.
+ Liên hệ thực vật với
động vật.
+ Liên hệ con người – tự
nhiên – xã hội.
 Tính đa dạng của sự liên hệ qua
lại đó.
Có liên hệ bên ngoài, có mối liên
hệ bên trong.

Có mối liên hệ chủ yếu, có mối
liên hệ thứ yếu.
Có mối liên hệ chung bao quat
toàn bộ thế giới, có mối liên hệ
bao quát một số lĩnh vực hoặc
một lĩnh vực riêng biệt của thế
giới đó.
4
Có mối liên hệ trực tiếp, có mối
liên hệ gián tiếp mà trong đó có
sự tác động qua lại được thực
hiện thông qua một hay một số
khâu trung gian.
Có mối liên hệ bản chất và mối
liên hệ không bản chất, liên hệ tất
yếu và liên hệ ngẫu nhiên.
Có mỗi liên hệ giữa các sự vật
khác nhau, có mối liên hệ giữa
các mặt khác nhau của cùng 1 sự
vật.
Sự vật, hiện tượng nào cũng vận
động và phát triển qua nhiều giai
đoạn khác nhau, giữa các giai
đoạn đó cũng có mối liên hệ với
nhau tạo thành lịch sử phát triển
hiện thực của các sự vật và các
quá trình tương ứng…
Tính đa dạng của sự liên hệ do
tính đa dạng trong sự tồn tại, sự
vận động và phát triển của chính

các sự vật và hiện tượng quy
định.
1.2. Nguyên lý về sự phát triển của
phép BCDV.
• Khái niệm
Quan điểm siêu hình xem phát
triển chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi về chất, có thay đổi
về chất đi nữa thì nó cũng chỉ
diễn ra theo 1 vòng trong khép
kín.
Quan điểm duy vật biện chứng:
Phát triển là 1 phạm trù triết học
dùng để khái quát hóa quá trình
vận động tiến hóa từ thấp lên
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn.
Phân biệt giữa phát triển và vận
động: Theo quan điểm DVBC,
phát triển là 1 trường hợp đặc
biệt của sự vận động. Trong qua
trình phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới cao hơn về vật
chất, nhờ vậy làm tăng cường
tính phức tạp của sự vật và sự
liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ
chức, phương thức tồn tại và vận
động của sự vật cùng chức năng

vốn có của nó ngày càng hoàn
thiện hơn.
• Tính chất
 Tính khách quan.
Theo quan điểm DVBC, nguồn
gốc của sự phát triển nằm ngay
trong bản thân sự vật do mâu
thuẫn của sự vật quy định. Phát
triển trong quan điểm DVBC, là
quá trình tự thân của mọi sự vật
và hiện tượng. Do vậy, phát triển
là một quá trình khách quan độc
lập với ý thức con người.
 Tính phổ biến.
Tính phổ biến của sự phát triển
với nghĩa là sự phát triển diễn ra
ở tất cả mọi lĩnh vực – từ tự
nhiên đến xã hội đến tư duy, từ
hiện thực khách quan đến những
khái niệm, những phạm trù khách
quan phản ánh hiện thực ấy.
 Tính chất phức tạp của sự phát
triển.
Phát triển không đơn giản là chỉ
sự tăng hay giảm đơn thuần về
lượng, mà bao hàm cả sự nhảy
vọt về chất.
Phát triển không loại trừ sự lặp
lại hoặc thậm chí tạm thời đi
xuống trong trường hợp cá biệt,

cụ thể. Nhưng xu hướng chung là
đi lên, tiến bộ.
Phát triển bao hàm cả sự phủ
định cái cũ và cả sự nảy sinh cái
mới. sự lặp lại dường như cái cũ
nhưng trên cơ sở cao hơn. Do
vậy, phát triển là con đường xoáy
ốc từ thấp đến cao.
5
Chương II.
1. Hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật.
(trang 2)
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của
2 nguyên lý trên.
• Quan điểm toàn diện.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến của các sự
vật hiện tượng, chúng ta cần rút
ra quan điểm toàn diện trong việc
nhận thức, xem xét các sự vật và
hiện tượng cũng như trong hoạt
động thực tiễn.
Với tư cách là một nguyên tắc
phương pháp luận trong việc
nhận thức các sự vật và hiện
tượng, quan điểm toàn diện đòi
hỏi để có được nhận thức đúng
đắn về sự vật, chúng ta phải xem
xét nó:

• Một là, trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố. các thuộc tính khác nhau của
chính sự vật đó.
• Hai là, trong mối liên hệ qua lại
giữa các sự vật đó với các sự vật
khác.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn
diện còn đòi hỏi để nhận thức
được sự vật, chúng ta cần xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu
cầu thực tiễn của con người.
Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ
tránh được việc tuyệt đối hóa
những tri thức đã có về sự vật,
tránh xem đó là những chân lý
bất biến, tuyệt đối không thể bổ
sung, không thể phát triển.
Quan điểm toàn diện đối lập với
quan điểm phiến diện và khác với
chủ nghĩa chiết trung và thuật
ngụy biện.
Từ những điều vừa trình bày, có
thể rút ra rằng, quá trình hình
thành quan điểm toàn diện đúng
đắn với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận để nhận thức
sự vật sẽ phải trải qua các giai
đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban
đầu về cái toàn thể đến nhận

thức một mặt, một mối liên hệ
nào đó của sự vật đó; cuối cũng
khái quát những tri thức phong
phú đó để rút ra tri thức về bản
chất của sự vật.
1.4. Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến.
Với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận trong hoạt
động thực tiễn phải sử dụng đồng
bộ nhiều biện pháp, nhiều
phương tiện khác nhau để tác
động nhằm thay đổi những liên
hệ tương ứng.
Vận dụng quan điểm toàn diện
vào hoạt động thực tiễn Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng cũng đồng thời coi đổi mới
tư duy lý luận, tư duy chính trị về
CNXH là khâu đột phá; trong khi
nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi
mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh
vực chính trị, Đảng ta cũng xem
đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Cần lưu ý rằng mọi sự vật đều
tồn tại trong không gian – thời
gian nhất định mang dấu ấn của
không gian – thời gian đó. Do
vậy, chúng ta cần có quan điểm
lịch sử - cụ thể khi xem xét và giải

quyết moi vấn đề do thực tiễn đặt
ra.
 Quan điểm lịch sử - cụ thể.
Khi xem xét và giải quyết các
vấn đề do thực tiễn đặt ra đồi hỏi
chúng ta phải chú ý đúng mức tới
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm
phát sinh vẫn đề đó tới sự ra đời
và phát triển của nó, tới bối cảnh
hiện thực- cả khách quan lẫn chủ
quan. Khi quan sat một quan
điểm, một luận thuyết cũng phải
đặt nó trong những mối quan hệ
như vậy. Chân lý sẽ trở thành sai
lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới
hạn tồn tại của nó.
 Quan điểm phát triển.
Quan điểm duy vật biện chứng vè
sự phát triển cung cấp cho chúng
ta phương pháp luận khoa học để
nhận thức và cải tạo thế giới là:
khi xem xét các sự vật và hiện
tượng phải đặt nó trong sự vận
động, trong sự phát triển, phải
phát hiện ra các xu hướng biến
đổi, chuyển hóa của chúng.
Quan điểm phát triển với tư cách
là nguyên tắc phương pháp luận
để nhận thức sự vật hoàn toàn
đối lập với quan điểm bảo thủ, trì

trệ, định kiến.
Hơn nữa, quan điểm phát triển
cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự
vật như là cái đang có mà còn
phải nắm được khuynh hướng
phát triển trong tương lai của nó.
Trong quá trình phát triển, sự vật
thường đồng thời có những sự
biến đổi tiến lên và có cả những
biến đổi thụt lùi.
Sự phát triển của các sự vật và
hiện tượng thực tế là quá trình
biện chứng đầy mâu thuẫn. Do
vậy, quan điểm phát triển được
vận dụng vào quá trình nhận thức
cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ
tính phức tạp của quá trình phát
triển như là một hiện tượng phổ
biến.
Vận dụng quan điểm phát triển
với tư cách là nguyên tắc phương
pháp luận của hoạt động thực
tiễn nhằm thúc đẩy sự phát triển
theo quy luật vốn có của nó đòi
hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của chính sự vật, và bằng
hoạt động thực tiễn mà giải quyết
mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó,
chúng ta mới góp phần tích cực
vào sự phát triển.

Sự phát triển biện chứng của các
quá trình hiện thực và của tư duy
được thực hiện bằng con đường
thông qua những sự tích lũy về
lượng mà tạo ra sự thay đổi về
chất, thông qua phủ định của phủ
định. Do vậy, việc vận dụng quan
điểm phát triển vào hoạt động
thực tiễn nhằm cải tạo sự vật đòi
hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực
của mình trong việc hiện thực
hóa 2 quá trình nêu trên.
6
Chương II.
2. Thực tiễn – vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức
 Thực tiễn là toàn bộ hoạt động
vật chất có mục đích , mang tính
lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
Khác với hoạt động khác , hoạt
động thực tiễn là loại hoạt động
mà con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động vào
những đối tượng vật chất nhất
định , làm biến dổi chúng theo
mục đích của mình . Đó là những
hoạt động đặc trưng và bản chất
của con người .Nó được thực
hiện một cách tất yếu khách quan

và không ngừng phát triển bởi
con người qua các thời kỳ lịch
sử . Chính vì vậy , hoạt động
thực tiễn bao giờ cũng là hoạt
động vật chất mang tính chất
sáng tạo và có tính mục đích ,
tính lịch sử- xã hội
 Vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức
- Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở,
động lực , mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn của chân
lý , kiểm tra tính chân lý của quá
trình nhận thức .
Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm
xuất phát trực tiếp của nhận
thức ; nó đề ra nhu cầu ,nhiệm vụ
, cách thức , khuynh hướng vận
động và phát triển của nhận
thức . Chính con người có nhu
cầu tất yếu khách quan là phải
giải thích thế giới và cải tạo thế
giới nên con người tất yếu phải
tác động vào các sự vật , hiện
tượng bằng hoạt động thực tiễn
của mình . Sự tác động đó làm
cho sự vật , hiện tượng bộc lộ
những thuộc tính , những mối liên
hệ và quan hệ khác nhau giữa
chúng , đem lại những tài liệu cho

nhận thức, giúp cho nhận thức
nắm bắt được bản chất , các quy
luật vận động và phát triển của
thế giới .
Thực tiễn là cơ sở , động lực vầ
mục đích của nhận thức còn là vì
nhờ có hoạt động thực tiễn mà
các giác quan của con người
ngày càng hoàn thiện ; năng lực
tư duy logic không ngừng được
củng cố và phát triển
Thực tiễn đóng vai trò là tiêu
chuẩn của chân lý , kiểm tra tính
chân lý của quá trình nhận thức .
Điều này có nghĩa thực tiễn là
thước đo giá trị của những tri
thức đã đạt được trong nhận thức
. Đồng thời , thực tiễn không
ngừng bổ xung , điều chình ,
chỉnh sửa , phát triển và hoàn
thiện nhận thức
Thực tiễn chẳng những là điểm
xuất phát của nhận thức , là yếu
tố đóng vai trò quyết định đối với
sự hình thành và phát triển của
nhân thức mà còn là nơi nhân
thức phải luôn luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của
mình
=>Vai trò của thực tiễn đối với

nhận thức đòi hỏi chúng ta phải
luôn luôn quán triệt quan điểm
thực tiễn Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải luôn xuất
phát từ thực tiễn , dựa trên cơ sở
thực tiễn , đi sâu vào thực tiễn ,
phải coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn.
7
Chương I.
2. Quan điểm của chủ nghĩa
DVBC về ý thức? Ý nghĩa
phương pháp luận.
• Nguồn gốc của ý thức.
Theo triết học duy vật biện
chứng, ý thức của con người là
sản phẩm của quá trình phát triển
của cả tự nhiên và lịch sử xã hội.
Vì vậy để hiểu đúng nguồn gốc
và bản chất của ý thức cần phải
xem xét nguồn gốc của ý thức
trên cả hai mặt tự nhiên của xã
hội.
 Nguồn gốc tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng ý thức không phải có
nguồn gốc siêu tự nhiên, không
phải ý thức sản sinh ra vật chất
mà khẳng định ý thức là một
thuộc tính của vật chất nhưng

không phải là của mọi dạng vật
chất, mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là
bộ óc con người. Bộ óc người là
cơ quan vật chất của ý thức. Ý
thức là chức năng của bộ óc con
người. Ya thức phụ thuộc vào
hoạt động của bộ óc con người.
Ý thức là hình thức phản ánh đặc
trưng riêng của con người, được
phát triển từ thuộc tính phản ánh
có ở mọi dang vật chất. Đó là
năng lực giữ lại, tái hiện lại của
một hệ thống vật chất này, những
đặc điểm của hệ thống vật chất
khác khi hia hệ thống vật chất đó
tác động lẫn nhau.
Nội dung và hình thức phản ánh
phụ thuộc vào trình độ tổ chức
của vật phản ánh và vật được
phản ánh. Vì vậy cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất,
thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao. Như
vậy ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất
nhưng ý thức lại là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ não người, là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ não

người. Bộ não người và sự tác
động của thế giới vật chất xung
quanh lên bộ não người là nguồn
gốc tự nhiên của ý thức.
 Nguồn gốc xã hội.
Triết học duy vật biện chứng chỉ
ra chính lao động và ngôn ngữ là
2 nguồn gốc xã hội quyết định
trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển của ý thức.
Lao động là quá trình con người
tác động vào giới tự nhiên nhằm
tạo ra những sản phẩm phục vụ
cho các nhu cầu của mình, là một
quá trình trong đó bản thân con
người đóng góp vai trò môi giới,
điều tiết và giám sát trong sự trao
đổi vật chất giữa con người và tự
nhiên. Lao động là điều kiện tự
nhiên và chủ yếu để con người
tồn tại. Nhờ có lao động, con
người tác động vào thế giới
khách quan, bắt khách quan bộc
lộ những thuộc tính. Như vậy, ý
thức được hình thành chủ yếu do
hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của con người, làm biến đổi
thế giới đó Ý thức với tư cách là
hoạt động phản ánh sang tạo
không thể có được bên ngoài quá

trình lao động của con người làm
biến đổi thế giới xung quanh. Vì
thế có thể nói rằng lao động tạo
ra ý thức tư tưởng hoặc nguồn
gốc cơ bản của ý thức tư tưởng
là sự phản ánh thế giới khách
quan vào đầu óc con người trong
quá trình lao động của con người.
Lao động là cơ sở hình thành,
phát triển của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu mang nội
dung ý thức. Nhờ ngôn ngữ mà
con người tổng kết được thực
tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Ý thức không phải thuần
túy là hiện tượng cá nhân mà là
hiện tượng xã hội, do đó không
có phương tiện trao đổi xã hội về
mặt ngôn ngữ thì ý thức không
thể hình thành và phát triển được.
• Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học, triết học
duy tâm quan niệm ý thức như 1
thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, là cái có trước từ đó sinh ra
vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tầm
thường coi ý thức là một dạng vật
chất hoặc coi ý thức là sự phán
ánh đơn giản, thụ động thế giới

vật chất. Cả 2 quan niệm đó đều
sai lầm. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng dựa trên cơ sở lý luận
phản ánh: về bản chất, coi ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người
một cách năng động, sang tạo; ý
thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan.
Ý thưức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, lấy cái
khách quan làm tiền đề, bị cái
khách quan quy định, nó không
có tính vật chất. Ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.
Phản ánh ý thức là sáng tạo, do
nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu
cầu thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải
nhận thức cái phản ánh. Sự sáng
tạo của ý thức là sự sáng tạo của
phản ánh, dựa trên cơ sở phán
ánh.
8
Phản ánh ý thức là tích cực, chủ
động.
Ý thức là 1 hiện tượng xã hội.
Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn
liền với hoạt động thực tiễn, chịu
sự chi phối không chỉ các quy luật

sinh học mà chủ yếu là quy luật
xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã
hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của con người quy
định. Ý thức mang bản chất xã
hội.
• Kết cấu của ý thức.
Ý thức là 1 hiện tượng tâm lý –
xã hôi có kết cấu rất phức tạp
bao gồm nhiều thành tố khác
nhau có quan hệ với nhau. Có
thể chia cấu trúc của ý thức theo
2 chiều:
 Theo chiều ngang: Bao gồm các
yếu tố như tri thức, tình cảm,
niềm tin, lý trí,… trong đó trí thức
là yếu tố cơ bản và cốt lõi.
 Theo chiều dọc: Bao gồm các
yếu tố như tự ý thức, tiềm thức,
vô thức.
Chương II:
3. Các cặp phạm trù. (trang 1)
Nguyên nhân và kết quả.
• Khái niệm
Phạm trù nguyên nhân dùng để
chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau từ đó tạo nên sự biến
đổi nhất định. Phạm trù kết quả

dùng để chỉ những sự biến đổi
xuất hiện do sự tác động giữa
các mặt, các yếu tố trong một sự
vật , hiện tượng hoặc giữa các sự
vật hiện tượng với nhau.
• Mối liên hệ biện chứng
Nguyên nhân sinh ra kết quả,
xuất hiện trước kết quả.Tuy nhiên
không phải hiện tượng nào nối
tiếp nhau về mặt thời gian cũng là
quan hệ nguyên nhân.Ví dụ như
ngày kế đêm, mùa hè kế tiếp mùa
xuân… cái quan hệ nhân quả
phân biệt với quan hệ kế tiếp là ở
chỗ nguyên nhân và kết quả có
quan hệ sản sinh ra nhau.
Sự tác động trở lại của kết quả
đối với nguyên nhân : kết quả do
nguyên nhân sinh ra, nhưng khi
xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên
nhân. Sự ảnh hưởng đó thể hiện
theo hai hướng : thúc đẩy sự
hoạt động của nguyên nhân hoặc
cản trở sự hoạt động của nguyên
nhân
Nguyên nhân và kết quả có thể
thay đổi vị trí cho nhau: điều này
có nghĩa là sự vật , hiện tượng
nào trong mối quan hệ này là

nguyên nhân và trong mối quan
hệ khác là kết quả và ngược lại
• Ý nghĩa phương pháp
luận
Mối liên hệ nhân ủa có tính khách
quan và phổ biến nghĩa là không
có sự vật hiện tượng nào trong
thế giới vật chất là không có
nguyên nhân. Nhưng không phải
con người nhận thức ngay được
trong mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ
của nhận thức khoa học là phải
tìm ra nguyên nhân của những
hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư
duy để giải thích được những
hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên
nhân phải tìm trong thế giới hiện
thực, trong bản thân sự vật hiện
tượng tồn tại trong thế giới vật
chất chứ không được tưởng
tượng ra từ đầu óc của con người
, tách rời thế giới hiện thực.
Vì nguyên nhân luôn có trước kết
quả nên muốn tìm nguyên nhân
của một sự vật hiện tượng nào đó
cần tìm trong những sự kiện
Một kết quả có thể có do nhiều
nguyên nhân sinh ra. Những
nguyên nhân này có vai trò khác
nhau đối với việc hình thành kết

quả. Vì vậy trong hoạt động thực
tiễn chúng ta cần phải loại bỏ các
nguyên nhân thứ yếu để tìm ra
nguyên nhân cơ bản chủ yếu ;
nguyên nhân bên trong nguyên
nhân bên ngoài; nguyên nhân
chủ quan nguyên nhân khách
quan… đồng thời phải nắm được
chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho
nguyên nhân tác động tích cực
đến hoạt động và hạn chế sự
hoạt động của nguyên nhân có
tác động tiêu cực . do kết quả có
tác động trở lại nguyên nhân. Vì
vậy trong hoạt động thực tiễn
chúng ta cần phải khai thác tận
dụng các kết quả đã đạt được để
tạo điều kiện thúc đẩy nguyên
nhân phát huy tác dụng nhằm đạt
được mục đích.
• Liên hệ:
Cách mạng tháng tám nổ ra và
thành công là kết quả tổng hợp
giữa các nguyên nhân khách
quan (Pháp bị Nhật đảo chính,
Nhật đầu hàng các đồng minh…)
và nguyên nhân chủ quan là có
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng

tạo của Đảng, có khối đại đoàn
kết toàn dân, tinh thần yêu nước
và cách mạng của quần chúng
nhân dân.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ
biện chứng giữa nguyên nhân kết
9
quả , rút kinh nghiệm từ những
sai lầm chủ quan, Đại hội VI của
Đảng(1986) Đảng đã chỉ rõ bài
học kinh nghiệm và đề ra phương
hướng , biện pháp khắc phục
nhằm từng bước sữa chữa
những sai lầm , đưa đất nước ra
khỏi cuộc khủng hoảng bằng việc
khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống. cũng từ những sai lầm
khuyết điểm chủ quan, ĐH VI của
Đảng đã rút ra 4 bài học kinh
nghiệm :
Một là : toàn bộ hành động của
mình Đảng ta phải có những tư
tưởng “lấy dân làm gốc” xây
dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động.
Hai là : Đảng phải luôn xuất phát
từ thực tế tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan , năng

lực nhận thức và hành động theo
quy luật là điều kiện cho sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là : phải biết kết hợp sức
mạnh của dân tộc và sức mạnh
của thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là: phải xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của
một Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc CM-
XHCN
Từ sau khi bắt đầu công cuộc đổi
mới đến nay ,qua quá trình thực
hiện nước ta đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng. Đến ĐH
VIII đất nước ta đã khắc phục
được tình trạng khủng hoảng KT-
XH và chuyển sang thời kì mới-
thời kì CNH-HĐH đất nước .văn
kiện Đại hội VIII của Đảng(tháng
6-1996) nhận định : “Nước ta đã
rút khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội, tuy còn một số mặt chưa
vững chắc”.
Dựa trên việc tổng kết
những nguyên nhân chủ quan và
khách quan từ nguyên nhân của
những thành tựu khởi đầu, những
yếu kém và khuyết điểm sau hơn
15 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra

những bài học kinh nghiệm quý
báu là:
Một là : trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH trên nền tảng chủ
nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Hai là : đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân
phù hợp với thực tiễn luôn sáng
tạo .
Ba là : đổi mới phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại
Bốn là : đường lối đúng dadwnss
của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp đổi
mới.
Tóm lại, việc nhận thức đúng đắn
mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả , xác
định được mức độ vai trò của
những nguyên nhân ấy đối với
những thất bại cùng những thành
tựu trong công cuộc đổi mới xây
dưng đất nước để có những biện
pháp khắc phục những tác động
thích hợp nhằm đạt được những
mục tiêu mong muốn là những
nguyên tắc đảm bảo sự thành

công của Đảng và nhà nước ta
cũng như từng Đảng viên , công
nhân viên chức.
Chương III
1. Mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng?
 Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng của xã hội, trong
sự vận động của nó,được tạo nên
bởi cả ba loại hình quan hệ sản
xuất: Quan hệ sản xuất thống trị,
quan hệ sản xuất tàn dư và quan
hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình
thức mầm mống, đại biểu cho sự
phát triển của xã hội tương lai,
trong đó quan hệ sản xuất thống
trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối
các quan hệ sản xuất khác, định
hướng sự phát triển của đời sống
kinh tế xã hội và giữ vai trò là đặc
trưng cho chế độ kinh tế của một
xã hội nhất định. Sự tồn tại của
ba loại hình quan hệ sản xuất cấu
thành cơ sở hạ tầng của một xã
hội phản ánh tính chất vận động,
phát triển liên tục của lực lượng

sản xuất với các tính chất: kế
thừa, và phát triển.
VD1: Về xây dựng khu dân cư
hoặc nơi sinh sống thì cơ sở hạ
tầng chính là đường sá, cầu
cống, trường học, bệnh viện,
Cơ sở hạ tầng mang ý nghĩa là
những sự vật, sự việc mang tính
chất cơ bản nhất của 1 vấn đề
hay 1 lĩnh vực nào đó
VD2: Trong xã hội phong kiến
ngoài quan hệ sản xuất phong
kiến chiếm địa vị thống trị, nó còn
có quan hệ sản xuất tàn dư của
xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm
mống của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa và chính 3 yếu tố
đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng
phong kiến.
 Kiến thúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ
những hệ thống kế cấu các hình
thái ý thức (pháp luật, tôn giáo,
…) cùng các thể chế chính trị xã
hội tương ứng (nhà nước, giáo
phái, …) được hình thành trên 1
cơ sở hạ tầng nhất định
 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng:

10
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là hai phương diện
cơ bản của đời sống xã hội đó là
phương diện kinh tế và phương
diện chính trị - xã hội, chúng có
quan hệ thống nhất biện chứng
với nhau, tác động lẫn nhau trong
đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc
thượng tầng; kiến trúc thượng
tầng có sự tác động trở lại cơ sở
hạ tầng đã sản sinh ra nó.
 Vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng
tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng
được thể hiện trên nhiều phương
diện:
 Một CSHT sinh ra một KTTT
tương ứng.
 Mọi biến đổi của CSHT đến dẫn
đến sự biến đồi của KTTT
 Mâu thuẫn của CSHT được phản
ánh thành sự mẫu thuẫn trong
KTTT
 Sự đấu tranh giành quyền lợi về
cơ sở kinh tế là nguyên nhân của
sự đấu tranh giành quyền lợi về

chính trị xã hội.
 Giai cấp nắm giữ tư liệu sx là
giac cấp nắm giữ quyền lực
 Các chính sách, pháp luật của
nhà nược suy cho cùng cũng chỉ
phản ánh nhu cầu thống trị về
kinh tế của giai cấp nắm giữ, sở
hữu các tư liệu xuât.
VD: Cơ chế bao cấp tương ứng
với nó là nhà nước xơ cứng,
Mệnh lệnh quan liêu.
Cơ chế thị trường tương ứng với
nó là nhà nước năng động, hoạt
động có hiệu quả.
 Vai trò tác động trở lại của kiến
trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng.
Sự tác động của KTTT lên CSHT
thông qua nhiều phương thức:
phụ thuộc vào bản chất của các
nhân tố trong KTTT, phụ thuộc
vào vị trí, vai trò của nó trong
những đk cụ thể, Nếu có yếu tố
nhà nc thì nhà nc đóng vai trò tác
động chính
Tác động của KTTT lên CSHT
theo hai hướng, tích cực và tiêu
cực:
+ Tích cực: các yếu tổ của KTTT
phù hợp với nhu cầu khách quan

của sự phát triển kinh tế -> thúc
đẩy kinh tế phát triển
+ Tiêu cực: Các yếu tổ của KTTT
không phù hợp với nhu cầu
khách quan của sự phát triển kinh
tế -> kìm hãm sự phát triển kinh
tế
Phản ánh mâu thuẫn giai cấp
theo 2 hướng:
+ Duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, duy
trì xã hội hiện tại.
+ Xóa bỏ nền kinh tế cũ, đấu tranh
xác lập một nền kinh tế mới, xây
dựng một thể chế XH khác.
Tuy nhiên, dù kiến trúc thượng
tầng có tác động như thế nào tới
cơ sở hạ tầng thì nó cũng không
thể giữ vai trò quyết định cơ sở
hạ tầng của xã hội.
Ví dụ: Nhà nước tư sản hiện dại
củng cố, bảo vệ, phát triển sở
hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Còn
nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát
triển sở hữu xã hội(Tập thể).
Chương III:
câu 2. Tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội (trang 2)
Như vậy, nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật lịch sử về tính
độc lập tương đối của ý thức

xã hội chỉ ra bức tranh phức
tạp của lịch sử phát triển ý
thức xã hội, nó bác bỏ quan
điểm siêu hình, máy móc, tầm
thường về mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Tồn tại tại xã hội và ý thức xã
hội là hai phương diện thống
nhất biện chứng của đời sống
xã hội. Vì vậy công cuộc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới phải được tiến hành đồng
thời trên cả hai mặt tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Cần thấy
rằng, thay đổi tồn tại xã hội là
điều kiện cơ bản nhất để thay
đổi ý thưc xã hội;mặt khác
cũng cần thấy rằng không chỉ
những biến đổi trong tồn tại xã
hội mới tất yếu dẫn đến những
thay đổi to lớn trong đời sống
tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời
sống tinh thần xã hội, với
những điều kiện xác định cũng
có thể tạo ra những bến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại
xã hội.
*Liên hệ

Trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay trên lĩnh vực
văn hóa, tư tưởng, Đảng ta
khẳng định, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng
XHCN và mở rộng giao lưu
quốc tế song song với việc
quan tâm giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, kế
thừa và phát huy truyền thống
đạo đức, tập quán tốt đẹp và
lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu
tinh hoa các dân tộc trên thế
giới, làm giàu đẹp thêm nền
văn hóa Việt Nam.
11
12
13
Chương III
2. Tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội
quyết định nhưng ý thức xã hội
cũng có tính độc lập tương đối
thể hiện ở:
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn
tồn tại xã hội:
Lịch sử cho thấy rằng, nhiều khi
xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã
mất rất lâu nhưng ý thức xã hội

do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại
dai dẳng, đăc biệt trong lĩnh vực
tâm lý xã hội (truyền thống, tập
quán, thói quen…). Trong xã hội
XHCN, nhiều hiện tượng ý thức
có nguồn gốc sâu xa trong xã hội
cũ vẫn tồn tại như lối sống ăn
bám, lười lao động, tệ tham
nhũng, v. v. .
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn
so với tồn tại xã hội là do những
nguyên nhân sau:
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do
tác động mạnh mẽ, thường xuyên
và trực tiếp của những hoạt động
thực tiễn của con người, thường
diễn ra với tốc độ nhanh mà ý
thức xã hội có thể không phản
ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Do sức mạnh của thói quen,
truyền thống, tập quán cũng như
do tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái ý thức xã hội.
Ý thức xã hội luôn gắn với những
nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định vì vậy
những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng phản
tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống lại các lực lượng xã hội

tiến bộ.
Vì vậy mà trong sự nghiệp xây
dưng xã hội mới chúng ta phải
thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động
phá hoại của các lực lượng thù
địch đồng thời ra sưc phat huy
những truyền thống tốt đẹp.
Ý thức xã hội có thể vượt trội
trước tồn tại xã hội.
Trong những điều kiện nhất định,
tư tưởng của con người đặc biệt
là những tư tưởng khoa học tiến
bộ có thể vượt trước sự phát triển
của tồn tại xã hội, dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của
con người, hướng hoạt động đó
vào việc giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra.
VD:Ngày nay con người đã có ý
thức tìm ra những hành tinh mới
có sự sống ngoài Trái đất như
Sao hoả.
Ý thức xã hội có tính kế thừa
trong sự phát triển của mình.
Ý thức xã hội mới có tính kế thừa

ý thức xã hội cũ sau đó bổ sung
hoàn chỉnh cho phù hợp với tồn
tại xã hội đang phát triển. Lịch sử
phát triển của tư tưởng cho thấy
những giai đoạn hưng thịnh hoăc
suy tàn của triết học, văn học,
nghệ thuật. v. v. . nhiều khi không
phù hợp hoàn toàn với những giai
đoạn hưng thịnh hay suy tàn của
kinh tế, bởi vậy mà chúng ta cũng
có thể giải thích được một nước
tuy có trình độ kinh tế phát triển
14
kém nhưng tư tưởng lại phát triển
ở trình độ cao.
VD: Ở nửa đầu thế kỷ XIX so với
nước Pháp thì Đức có trình độ
kinh tế lạc hậu hơn nhưng đứng
ở trình độ cao về triết học.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất
kế thừa của ý thức xã hội gắn với
tính chất giai cấp của nó. Một khi
giai cấp nào lên cầm quyền thì xã
hội đó chỉ kế thừa những gì phục
vụ cho quyền lợi của giai cấp đó
và những giai cấp tiên tiến sẽ tiếp
nhận những di sản tư tưởng tiến
bộ của xã hội cũ để lại. VD:Khi
tiến lên xã hội chủ nghĩa chúng ta
cũng vẫn kế thừa những tư

tưởng tốt đẹp của xã hội phong
kiến như truyền thống tôn sư
trọng đạo, tinh thần yêu nước,
những phong tục cưới xin mang
đậm bản sắc dân tộc. v. v. .
nhưng bên cạnh đó thì những tư
tưởng lac hậu như “nhất nam viết
hữu thập nữ viết vô” hoặc những
hủ tục lạc hậu sẽ dần dần bị bài
trừ.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin về tính kế thừa của ý thức
xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa. Văn hoá xã hội
chủ nghĩa cần phải phát huy
những thành tựu và truyền thống
tốt đẹp nhất của nền văn hoá
nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở
thế giới quan mác xít. Bởi vậy,
trong công cuộc xây dựng đất
nước, Đảng ta luôn quán triệt tư
tưởng xây dựng nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, luôn
luôn tiếp thu những tinh hoa văn
hoá của nhân loại, làm giàu thêm
cho nền văn hoá Việt Nam nhưng
phải trên tinh thần hoà nhập
nhưng không hoà tan.
Sự tác động qua lại giữa các hình

thái ý thức xã hội trong sự phát
triển của chúng.
Ý thức xã hội bao gồm nhiều
bộ phận, nhiều hình thái khác
nhau, theo nguyên lý mối liên
hệ thì giữa các bộ phận không
tách rời nhau, mà thường
xuyên tác động qua lại lẫn
nhau. Sự tác động qua lại giữa
các hình thái ý thức xã hội làm
cho ở mỗi hình thái ý thức có
những mặt, những tính chất
không thể giải thích được một
cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội
hay bằng các điều kiện vật chất.
Các hình thái ý thức xã hội như
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật có tác động qua lại với
nhau, trong đó ý thức chính trị có
vai trò quan trọng nhất. Thông
thường ở mỗi thời đại, tuỳ theo
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể
có những hình thái ý thức nào đó
nổi lên hàng đầu và tác động
mạnh đến các hình thái ý thức
khác.
Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây
Âu thì triết học và nghệ thuật
đóng vai trò đặc biệt. Thời
Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo

ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết
học, nghệ thuật, pháp quyền. .
. Ngày nay thì hệ tư tưởng
chính trị và khoa học đang tác
động đến các lĩnh vực của đời
sống tinh thần xã hội.
Ý thức xã hội tác động trở lại
tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
không những chống lại quan
điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai
trò của ý thức xã hội mà còn
bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường khi phủ nhận tác động
tích cực của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội. Ph. Ăng
ghen viết: “Sự phát triển về
mặt chính trị, pháp luật, triết
học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật v. v đều dựa vào sự phát
triển kinh tế. Nhưng tất cả
chúng cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở
kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng
của tư tưởng đối với sự phát
triển xã hội phụ thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể; vào tính
chất của các mối quan hệ kinh
tế mà trên đó tư tưởng nảy
sinh; vào vai trò lịch sử của

giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng và vào mức độ mở rộng
của tư tưởng trong quần
chúng. Chẳng hạn hệ tư
tưởng tư sản đã tác động
mạnh mẽ đến xã hội các nước
Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ
tư tưởng vô sản trở thành vũ
khí về mặt tư tưởng của giai
cấp vô sản đấu tranh để xoá
bỏ xã hội tư bản. Sự tác động
của ý thức xã hội tới tồn tại xã
hội biểu hiện qua hai chiều
hướng. Nếu ý thức xã hội tiến
bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại
xã hội phát triển, nếu ý thức
xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự
phát triển của tồn tại xã hội. Ý
thức xã hội nếu phản ánh sai
tồn tại xã hội thì sẽ kim hãm
sự phát triển của tồn tại xã hội
thông qua hoạt động của con
người, trong đó thực tiễn đóng
vai trò quyết định.
Chương II:
2. Các cặp phạm trù. (trang 2)
 Khái niệm chất và khái niệm
lượng
a. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học chỉ tính

quy định khách quan vốn có của
các sự vật, hiện tượng, là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính
làm cho sự vật là nó mà không
phải cái khác; ví dụ, cái bàn, cái
ghế, v.v
Chất của sự vật là khách quan, vì
đó là chất của sự vật, không do ai
gán cho sự vật. Nó do thuộc tính
của sự vật quy định.
b. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học chỉ
tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng về mặt
quy mô, trình độ phát triển, biểu
thị con số các thuộc tính, các yếu
tố cấu thành sự vật.
Lượng được thể hiện thành số
lượng, đại lượng, trình độ, quy
mô, nhịp điệu của sự vận động và
phát triển. Chẳng hạn chỉ kích
15
thước dài hay ngắn, quy mô to
hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,
tốc độ nhanh hay chậm v.v. Ví dụ,
khi nói sinh viên năm thứ hai, thì
sinh viên là chất để phân biệt với
công nhân, bộ đội, còn năm thứ
hai chính là lượng, chỉ trình độ
của sinh viên.

Lượng là cái khách quan vốn có
của sự vật. Đối với những sự vật
liên quan tới tình cảm khi nhận
thức lượng không thể xác định
bằng các đại lượng con số mà
phải trừu tượng hoá bằng định
tính. Ví dụ, lòng tốt, tình yêu, v.v.
 Mối quan hệ giữa sự thay đổi
về lượng và thay đổi về chất
a. Những thay đổi về lượng
dẫn đến những thay đổi về
chất
Mỗi sự vật đều có lượng, chất và
chúng thay đổi trong quan hệ
chặt chẽ với nhau. Lượng thay
đổi nhanh hơn chất, nhưng không
phải mọi thay đổi của lượng đều
ngay lập tức làm thay đổi căn bản
về chất.
Sự thay đổi về lượng chưa làm
thay đổi về chất chỉ trong giới hạn
nhất định. Vượt quá giới hạn đó
sẽ làm cho sự vật không còn là
nó, chất cũ mất đi, chất mới ra
đời.
Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi
về lượng (tăng lên hoặc giảm đi)
chưa làm thay đổi về chất được
gọi là độ. Nói cách khác, độ là
phạm trù triết học chỉ sự thống

nhất giữa lượng và chất, là
khoảng giới hạn mà trong đó sự
thay đổi về lượng (tăng lên hoặc
giảm đi) chưa làm cho sự thay
đổi căn bản về chất của sự vật
diễn ra. Ví dụ, độ của chất sinh
viên là từ khi nhập học tới trước
khi bảo vệ thành công đồ án, luận
văn tốt nghiệp
Những điểm giới hạn mà khi sự
thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ
làm cho sự thay đổi về chất của
vật diễn ra được gọi là điểm nút.
Thời điểm bảo vệ thành công đồ
án, hoặc luận văn tốt nghiệp của
sinh viên là điểm nút để chuyển
từ chất sinh viên lên chất cử
nhân.
Sự thay đổi về chất do những
thay đổi về lượng trước đó gây ra
gọi là bước nhảy. Bước nhảy là
sự kết thúc một giai đoạn phát
triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển
mới. Bước nhảy vọt làm cho sự
vật phát triển bị gián đoạn.
b. Những thay đổi về chất dẫn
đến những thay đổi về lượng
Chất mới ra đời sẽ tác động trở
lại tới sự thay đổi của lượng mới

(làm thay đổi quy mô, nhịp điệu,
tốc độ v.v phát triển của sự vật).
Ví dụ, khi trở thành cử nhân thì
tốc độ đọc, hiểu vấn đề tốt hơn
khi còn là sinh viên, v.v. Như vậy,
không chỉ sự thay đổi về lượng
gây nên những thay đổi về chất
mà cả sự thay đổi về chất cũng
gây nên những thay đổi về lượng.
c. Các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy để chuyển hoá về
chất của sự vật hết sức đa dạng,
phong phú với nhiều hình thức
khác nhau. Dựa trên nhịp điệu
thực hiện bước nhảy, người ta
chia bước nhảy thành bước nhảy
đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến, chất của sự
vật biến đổi một cách nhanh
chóng ở tất cả các bộ phận cơ
bản, cấu thành sự vật. Ví dụ,
phản ứng hạt nhân (Ur 235 đạt
đến khối lượng nhất định sẽ xảy
ra vụ nổ hạt nhân) rất nhanh và
làm thay đổi chất của sự vật
nhanh chóng.
Bước nhảy dần dần là quá trình
thay đổi về chất diễn ra bằng con
đường tích luỹ dần dần những
nhân tố của chất mới và mất đi

dần dần những nhân tố của chất
cũ. Ví dụ, quá trình chuyển biến
vượn người thành người diễn ra
hàng vạn năm, hết sức lâu dài.
Cần lưu ý, bước nhảy dần dần (là
sự chuyển hoá dần dần sang
chất mới) khác sự thay đổi dần
dần về lượng (tích luỹ liên tục về
lượng, ví dụ như sự tích luỹ tiền
gửi tiết kiệm) của sự vật.
Căn cứ vào quy mô thực hiện
bước nhảy của sự vật, người ta
chia thành bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy
làm thay đổi về chất tất cả các
mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu
thành sự vật. Ví dụ, khi thực hiện
cách mạng Tháng Tám năm
1945, chúng ta đã thực hiện bước
nhảy toàn bộ trên tất cả các mặt
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội
- văn hoá - đạo đức, v.v.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy
làm thay đổi một số mặt, một số
yếu tố, bộ phận của sự vật đó. Ví
dụ, quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay đang
hàng ngày, hàng giờ làm thay đổi
từng mặt đời sống kinh tế - xã hội

- văn hoá theo hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về
lượng được gọi là “tiến hoá”, thay
đổi về chất được gọi là “cách
mạng”.
Tóm lại, sự thống nhất giữa
lượng và chất trong sự vật tạo
thành độ của sự vật. Những thay
đổi về lượng dần dần đến giới
hạn nhất định thì xảy ra bước
nhảy, chất cũ bị phá vỡ, chất mới
ra đời cùng với độ mới. Đó chính
là cách thức phát triển của sự
vật. Quá trình này diễn ra liên tục
làm cho sự vật không ngừng vận
động, biến đổi
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn, muốn
có thay đổi về chất của sự vật
phải tích luỹ về lượng, không
được nóng vội chủ quan.
Trong hoạt động thực tiễn cần
tránh rơi vào “tả khuynh” - nhấn
mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự
tích luỹ về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất
dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm.
Đồng thời, phải tránh “hữu
khuynh” - tuyệt đối hoá sự tích luỹ
về lượng, không dám thực hiện

bước nhảy khi đã đủ sự tích luỹ
16
về lượng; khi ấy dễ rơi vào bảo
thủ, trì trệ, ngại khó.
Khi tích luỹ về lượng đã đủ cần
thực hiện bước nhảy, tránh bảo
thủ, trì trệ, ngại khó.
Trong hoạt động thực tiễn cần
phân biệt đúng các hình thức của
bước nhảy và vận dụng sáng tạo
bước nhảy.
Để sự vật còn là nó phải nhận
thức được độ của nó và không để
cho lượng thay đổi vượt quá giới
hạn độ. Ví dụ, khi sử dụng đồ
điện phải chú ý tới công xuất,
điện áp của nó, nếu không sẽ
cháy, v.v.

×