Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục giới tính tại các trường THCS quận 4 TP HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




CAO THỊ TUYẾT MAI




THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TẠI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THUỘC QUẬN 4 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




Chuyên ngành : Quản lý Giáo Dục
Mã số : 60 14 05




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS BÙI NGỌC OÁNH









THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010
THƯ
VIỆN
LỜI CÁM ƠN

Luận văn được thực hiện tại các trường THCS thuộc Quận 4 Thành Phố Hồ Chí Minh, dưới sự
hướng dẫn của Thầy PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh.
Vô cùng biết ơn Ban giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ - Sau Đại học, Khoa Tâm lý Giáo
dục trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, các Thầy Cô đã truyền đạt kiến thức, giúp đỡ
và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện l
uận văn.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi hòan thành luận văn này.
Chân thành cám ơn lãnh đạo và chuyên viên Phòng Giáo Dục và Đào tạo Quận 4, Ban Giám
hiệu và các giáo viên, phụ huynh, học sinh các trường THCS Vân Đồn, Nguyễn Huệ, Chi Lăng, Quang
Trung, Khánh Hội A, Tăng Bạt Hổ A thuộc Quận 4 đã tạo điều kiện, cung cấp thông tin giúp tôi hòan
thành luận văn.
Cám ơn các thành viên trong gia đình, người thân đã luôn là nguồn động viên chia sẻ để tôi

hòa
n thành việc học tập và công tác.
Chân thành cám ơn các anh chị học viên lớp Cao học khóa 18, chuyên ngành Quản lý giáo dục,
các bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ tôi trong suốt thời gian qua.

TP.Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2010
Cao Thị Tuyết Mai
PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tình hình kinh tế - xã hội trong nước và thế giới hiện nay có nhiều biến động. Con người bận
rộn và lo toan nhiều hơn cho đời sống vật chất, sự chăm lo cho đời sống tinh thần cũng đã được quan
tâm nhưng chưa đồng đều.
Ở các trường phổ thông hiện nay, đặc biệt ở cấp lớp THCS, vấn đề giới tính và giáo dục giới
tính đã được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên hiệu quả đến đâu, các bước tiến
hành thế nà
o, hoạt động gồm những gì còn tùy thuộc vào sự quan tâm của lãnh đạo từng trường. Cho
đến hiện nay chưa có một nghiên cứu mang tính tổng kết hoạt động này ở cấp THCS.
Xã hội ngày càng phát triển, học sinh được tiếp cận với các phương tiện thông tin hiện đại.
Những thông tin, bài viết, bàn luận và phim ảnh đề cập hoặc có li
ên quan đến các vấn đề giới tính có
thể được tìm thấy một cách dễ dàng tại các nhà sách, trên mạng internet hoặc chương trình truyền hình.
Thế nhưng công tác giáo dục giới tính lại còn khá mới mẻ, mặc dù đã được đưa vào một số nội dung
học tập ở từng cấp học nhưng cũng chưa thật sự trở nên quen thuộc và gần gũi.
Quận 4 là một quận nội thành Thành phố Hồ C
hí Minh.Tổng diện tích 4181km
2
, dân số khoảng
200.000 người, trong đó phần lớn là người dân lao động với cuộc sống còn nhiều khó khăn. Trong gia
đình, lứa tuổi học sinh THCS chưa được cha mẹ quan tâm đúng mức. Trong quận có 6 trường THCS,

với chất lượng giáo dục và trang bị cơ sở vật chất chưa đồng đều. Công tác giáo dục giới tính thực hiện
chưa đồng bộ, có nhiều khó khăn. Vì những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng quản
lý hoạt độn
g giáo dục giới tính tại các trường THCS thuộc Quận 4 TPHCM”. Từ thực trạng nghiên
cứu được, đề xuất một số biện pháp và kiến nghị đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền nhằm tăng
cường hiệu quả của công tác quản lý hoạt động giáo dục giới tính của Quận 4 nói riêng, của TPHCM
nói chung, góp phần ngăn chặn tình trạng trẻ em phạm tội về lĩnh vực có liên qua
n đến đời sống giới
tính.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục giới tính tại các trường THCS thuộc
Quận 4 TPHCM và đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý hoạt động giáo dục giới
tính cho lứa tuổi học sinh THCS.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
- Hoạt động giáo dục giới tính ở các trường THCS.
- Các CBQL, giáo viên môn Sinh, môn GDCD đang công tác tại 6 trường THCS thuộc Quận 4
TPHCM.
- Một số phụ huynh và học sinh thuộc khối 9 ở 6 trường THCS trên.
3.2.Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở các trường THCS.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Khảo sát thực trạng quản lý công tác giáo dục giới tính tại các trường THCS thuộc Quận 4 TPHCM,
tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục giới tính tại các trường THCS
thuộc quận.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn các cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh, học sinh để thu nhận
thông tin về các biện pháp quản lý việc thưc hiện chương trình, nhận thức và giải quyết tình huống

trong quá trình GDGT.
- Phương pháp quan sát: qua quan sát tiết dạy có nội dung GDGT môn Sinh, môn GDCD) người
nghiên cứu rút ra kết luận về hiệu quả và việc thực hiện chương trình GDGT thông qua các bài dạy
GDGT .
- Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến các chuyên gia về lĩnh vực tâm lý, giáo dục để có được những ý
kiến khác
h quan về thực trạng của hoạt động giáo dục giới tính tại các trường THCS hiện nay.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu : đối tượng phát phiếu là cán bộ quản lý 6 trường THCS, giáo viên
các môn Sinh, Giáo dục công dân tòan Quận, học sinh lớp 9 và phụ huynh của các học sinh tham gia ý
kiến thuộc các trường THCS Quận 4.
+ Cỡ mẫu nghiên cứu:
Đối với BGH các trường THCS, giáo viên môn Sinh và môn Giáo dục công dân: cỡ mẫu nghiên
cứu là tòan bộ dân số nghiên cứu (15 người là BGH, 11 người là giáo viên G
DCD, 18 giáo viên
môn Sinh). Tổng số 44 người . Một số nội dung khảo sát việc thực hiện chương trình môn
GDCD thuộc chương trình khối 8 và 9 nên chỉ khảo sát đối với 6 giáo viên môn GDCD .
Đối với đối tượng là học sinh, phụ huynh học sinh: do đối tượng rộng và mục tiêu nghiên cứu
chỉ dừng lại ở mức định tính do đó chọn ngẫu nhiên mỗi trường 35 phụ huynh và 35 học sinh.
Tổng cộng dân số nghi
ên cứu là 198 phụ huynh và 200 học sinh.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê:
Số liệu được thu thập và phân lọai theo từng tiêu chí nghiên cứu.
Dùng phương pháp thống kê mô tả để tính tần số và độ lệch các tiêu chí, mối tương quan giữa
các yếu tố.
6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Chỉ tìm hiểu thực trạng quản lý công tác giáo dục giới tính hiện nay tại 6 trường THCS Công
lập và Công lập tự chủ tài chính thuộc Quận 4 TPHCM THCS Vân Đồn, THCS Tăng Bạt Hổ A, THCS
Khánh Hội A, THCS Nguyễn Huệ, THCS Chi Lăng. THCS Quang Trung)
7. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Công tác giáo dục giới tính ở các trường THCS tại Quận 4 đã được triển khai khá tốt song còn

một số thiếu sót về việc thực hiện chương trình giáo dục về hiệu quả, chất lượng, về nhân sự, về cơ sở
vật chất.
Cần có một số biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục giới tính tại các trường.


PHẦN 2. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Sơ lược lịch sử giáo dục giới tính trên thế giới
Vấn đề giới tính và giáo dục giới tính đã được xem xét từ lâu. Vào thời kỳ tiền khoa học người
ta xem xét giới tính và GDGT theo quan điểm tôn giáo và đạo đức thời đó. Vào thời kỳ này, việc
GDGT cho trẻ em ít nhiều được chính thức hóa, người ta đã chú ý dạy dỗ cho các em gái theo mô hình
giống bà và mẹ, còn dạy dỗ các em trai theo mô hình của ông và bố.Ở các nước phương Đông như
Trung Quốc và Nhật Bản, người ta dạy trẻ em gái phải phục tùng bố mẹ trong hôn nhân theo kiểu “áo
mặc sao qua khỏi đầu”, phải giữ gìn trinh tiết, quan hệ nam
nữ tuân thủ nghiêm nghặt theo lời dạy “
nam nữ thụ thụ bất thân”… Ở các nước phương Tây, người lớn hoàn toàn không nói đến cuộc sống
tình dục với trẻ em.
Ở thế kỷ XIX, tình yêu xác thịt và tình dục bị cấm kỵ một cách gay gắt. Đến đầu thế kỷ XX, nhu
cầu GDGT bắt đầu được chú ý và đề cao. Việc nghiên cứu giới tính lúc này bắt đầu đư
ợc nghiên cứu
một cách nghiêm túc và khoa học. Có thể kể đến “một số nhà khoa học như J. Bachocen (Thụy Sĩ),
J.Mac Lenan (Anh), E. Wetermach (Phần Lan), Lewis Henry Morgan (Mỹ), X.M. Kovalevxki (Nga)
…không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính dục với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn
cả với những yếu tố khác của chế độ xã hội và văn hóa” [26, 9]. Ngoài ra còn có thể kể đến một số
công trình nổi tiếng như: “Những rối loạn tì
nh dục” được coi là cuốn sách nghiên cứu về giới tính đầu
tiên của nhà tâm lý học người Áo Krapht Ebing, xuất bản năm 1886; ba bài thảo luận về “lý thuyết tính
dục” của nhà tâm lý học người Áo gốc Tiệp Sigmund Freud, xuất bản 1905, “ Ứng xử tình dục của đàn

ông” của Kingsey xuất bản 1948…
Năm 1921, tại Mỹ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu các vấn đề tính dục. Ủy
ban nà
y đã hỗ trợ cho H.Kingsey cùng các cộng sự của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa
học trên quy mô rộng về các định hướng tâm lý tính dục và hành vi của con người. “Bản phúc trình của
Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những tài liệu phong phú của trên 10 ngàn cuộc điều tra khoa học
khác nhau, đã được nhiều người biết đến.
Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công trình của W.Masters và V.Johnson, vào năm 1954.
Các tác giả này đã tập trung vào việc phá
t hiện các chuẩn mực trong tính dục. Công trình này đã được
công bố năm 1966 (sau 11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lý đáng tin cậy về đời
sống tính dục của con người.
Ở Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N. Zabanov và V.I.
Iakovenko mang tên “ Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến hành trong sự cấm đoán của Nga hoàng.
Trên 6000 bản điều tra được phát ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bản và công trình
nghiên cứu được công bố năm 1922.
Ngay từ những năm 1920 của thế kỷ XX, V.I. Lênin đã nói: “Cùng với việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình cũng được coi là cấp bách.”[26,11].
A.X.Makarenko viết: “ Đạo đức xã hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên.

Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia
đình tức là mối quan hệ giữa nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người,
không thể quên giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó về giới tính.”[26,12]. Các nhà khoa học cũng đã đưa
ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội dung, phương phá
p giáo dục giới tính. I.X.Kon khẳng định: “Chuẩn bị
cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức
và giáo dục giới tính”[15,19], A.X.Makarenko cho rằng, thanh niên cần phải “ học tập cách yêu đương,
phải học tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc, và như thế có nghĩa là học tập để
biết tự trọng, học tập để biết cái vinh hạnh được làm người” [26,
12].

Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ chức việc hướng dẫn và tổ
chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về giới tính, nhất là đời sống tình dục và quan hệ hôn
nhân. Việc nghiên cứu và điều trị những bệnh về tính dục đã được tiến hà
nh. Tầm quan trọng của việc
“ cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung, phương pháp giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã
được thừa nhận tại kỳ họp liên tịch giữa Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo
dục Liên Xô 1971, và tại cuộc “ Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hóa gia
đình, giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia đìn
h tại Varsava” năm 1977.Mục đích của việc nghiên cứu
về giới tính là nhằm tìm hiểu và cung cấp một cách khoa học các kiến thức vững chắc về khoa học giới
tính và giáo dục giới tính, từ đó giáo dục cho thế hệ trẻ quan niệm tiến bộ và có trách nhiệm về tình
yêu như Sukhomlinxki đã nêu: “Yêu là thời kỳ khởi đầu của việc làm cha làm mẹ. Yêu có nghĩa là cảm
thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người khá
c, với người mình yêu và với người mình sẽ tạo
ra”[26,12]
Theo đó, công tác giáo dục giới tính bắt đầu được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Cụ thể
có thế biết đến một số nước sau:
Ở Đức
: Vấn đề giáo dục giới tính được tiến hành rộng rãi từ những năm 1960. Từ năm 1974,
một chương trình giáo dục giới tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ
lớp 8, với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sách tham khảo được qui định .
Ở Mỹ
: ngay từ cấp 1, giáo dục giới tính với học sinh Mỹ đã quen thuộc như một môn học chính
thức . Những bài học đầu tiên là về cấu tạo, chức năng các “ cơ quan giới tính” của cả học sinh nam và
học sinh nữ, tiếp đến là những biến đổi của cơ thể khi lớn lên khi bước vào tuổi dậy thì. Các hiện tượng
đặc thù về giới tính của từng giai đọan phát triển tâm sinh lý cơ thể …đều được lý giải một cách tường
tận từ nguyên nhâ
n đến những trục trặc có thể xảy ra. Lớp 6, lớp 7 học sinh đã hiểu thế nào là “ tình
dục an tòan” và các biện pháp tránh thai hiệu quả. Học sinh hiểu khá rõ về cơ thể mình và những biến
đổi ngay cả khi nó chưa đến.

Ở Anh
: Theo một đạo luật mới được ban hành ở Anh Quốc, giáo dục giới tính sẽ trở thành môn
học bắt buộc trong giáo trình giảng dạy của tất cả các trường học trên tòan nước Anh. Hiện tại, chỉ có
học sinh 11 tuổi trở lên mới phải trau dồi môn học mới mẻ này. Thế nhưng từ năm 2010 trở đi, ngay cả
các em 5 tuổi cũng sẽ được giảng dạy những điều căn bản về khoa giải phẫu cũng như quan hệ nam
nữ.
Sở dĩ việc giáo dục giới tính được đưa vào giảng dạy sớm như vậy ở Anh là vì so với tất cả các nước
châu Âu, quốc gia này hiện phá kỷ lục về số thiếu nữ vị thành niên mang thai.
Ở Trung
Quốc: Hình thức giáo dục giới tính tại Trung Quốc là một bài học dài 45 phút, xen kẽ
vào môn vệ sinh thường thức trong năm thứ hai của cấp 2. Nhiều thầy giáo không biết giảng dạy bài
học này thế nào cho tốt nhất mà không bị phê là “ vẽ đường cho hươu chạy”. Bản thân một số giáo
viên cũng dị ứng với đề tài nhạy cảm này.
Ở Nhật Bản
: chính sách giáo dục giới tính truyền thống của Nhật Bản được gọi là “giáo dục
thuần khiết”. Năm 1947, Bộ Giáo Dục Nhật Bản ra văn bản “ Về việc thực thi giáo dục thuần
khiết”.Năm 1949, cho ra tiếp “ Những điều cơ bản về giáo dục thuần khiết”. Năm 1955, “Đề án thí
điểm thực thi giáo dục thuần khiết” ra đời. Đáng lưu ý rằng trong 3 lần liên tiếp, từ “giáo dục thuần
khiết” đư
ợc sử dụng lặp lại. Trong khi đó, từ “giáo dục giới tính” được sử dụng khá thận trọng. Nói
chung, tuy từ “giáo dục giới tính” chỉ bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ năm 1966, trong văn bản mới
nhất liên quan đến giáo dục giới tính lưu hành từ năm 1986 với tiêu đề “Về vấn đề giáo dục giới tính
cho học sinh” của Bộ Giáo Dục Nhật Bản, từ “ giáo dục giới tính” vẫn đư
ợc coi là có ý nghĩa tiêu cực.
Giáo dục kinh nguyệt (nếu kinh nguyệt dài hơn một thời kỳ nhất định có thể có thai) được phổ cập
rộng rãi. Giáo dục này được phổ biến cho học sinh tiểu học lớp 6 (tương đương lớp 6 ở Việt Nam) và
thậm chí tiến hành đối với học sinh nhỏ tuổi hơn. Học sinh nữ được đưa và
o phòng kín, tắt điện và
chiếu video. Tuy nhiên đây là giáo dục giới tính đầu tiên và cũng là giáo dục giới tính cuối cùng! Đối
với học sinh nam cũng có giáo dục giới tính tương tự. Gần đây, việc GDGT cho học sinh nam và học

sinh nữ được tiến hành chung. Cả học sinh nam và học sinh nữ được đưa vào phòng tối, chiếu video
hay slide hướng dẫn cách dùng các dụng cụ tránh thai. Giáo dục giới tính ớ Nhật biến chuyển từ nửa
đầu của những năm 1980. Do sự ảnh hưởng của AIDS, trường hợp đầu tiên đư
ợc xác định dương tính
là năm 1985. Từ đó đến nay, nhà nước và các tổ chức phi chính phủ khác đã phát hành nhiều tờ rơi liên
quan đến AIDS. Trong số đó, khá nhiều tờ rơi nhằm tới đối tượng trung học cơ sở. Bao cao su được
khuyến khích sử dụng vừa với mục đích tránh thai, giáo dục giới tính cũng nhấn mạnh rằng nó là công
cụ phòng chống AIDS.
Như vậy các vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ngà
y càng có nhiều quốc gia trên thế giới
quan tâm. Tuy cách thức tiến hành có khác nhau song đều hướng đến mục tiêu chung là kết hợp giáo
dục những hiểu biết về giới tính, tình yêu, tình dục với giáo dục ý thức trách nhiệm đối với tình yêu,
giáo dục đạo đức, xây dựng gia đình tốt đẹp, lành mạnh, phòng các loại bệnh liên quan đến giới tính
như A.X. Makarenko đã nói: “Chúng ta phải giáo dục con em chúng ta làm sao cho các em có thái độ
đối với tình yêu như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em sẽ được hưởng khoái
cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ gia đình”. Đó chính là nền
tảng của đạo đức xã hội và sự bền vững của xã hội trong tương lai.
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu GDGT ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những năm đầu của thập kỉ 1980, vấn đề GDGT cho lứa tuổi vị thành niên vẫn còn
bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lâu đời và bị coi là điều “cấm kị”. Rất nhiều người cảm thấy “
xấu hổ” khó khăn khi nói về tình dục, giới tính. Các thầy cô giáo, tổ chức Đoàn thanh niên và các tổ
chức xã hội gần như chưa được trang bị kiến t
hức đầy đủ để có thể tham gia giáo dục hay tư vấn về các
vấn đề giới tính cho học sinh, thậm chí lại có quan điểm là không nên nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ
những điều không tốt. Chính những quan niệm bảo thủ trên đã làm cho trẻ kém hiểu biết về giới tính,
phải đối mặt với những nguy cơ, rủi ro trong quan hệ tình dục không an toàn, về sự mang thai ngoài ý
muốn.
Từ năm
1984, khi chỉ thị 176A ngày 24 tháng 12 năm 1984 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
nêu rõ: “Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ

chức liên quan xây dựng chương trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những
kiến thức khoa học về giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái ” thì công tác GDGT cho học
sinh sinh viên được quan tâm hơn, tập trung cho đối tượng si
nh viên các trường Đại học.Từ năm 1985,
những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu
được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thủy, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan,
Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề,
nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính,
tình yê
u, hôn nhân gia đình, nhiều cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến
hành từ năm 1985 đến nay, bước đầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh niên và học sinh.
Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục
giới tính ở Việt Nam.[26,15].
Đến năm 1988, các dự án thử nghiệm VIE/ 88/P10 (giáo dục dân số ở các trường phổ thông và
sư phạm
) VIE/88/P09 (giáo dục đời sống gia đình và GDGT), rồi đến VIE/94/P01 nâng cao và hoàn
chỉnh chương trình nói trên. Các chương trình thử nghiệm về giáo dục đời sống gia đình và GDGT đã
được đại đa số học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh chấp nhận.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thủy và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, đề án đã
được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: qua
n niệm về
tình bạn, tình yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ
huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ
lớp 9 đến lớp 12.
Từ khoảng năm 1990, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các
nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức
khỏe sinh sản; giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; giáo dục đời sống gia đì
nh;giáo dục giới
tính cho học sinh…Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà
nước, Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh. Để hoạt động giáo

dục giới tính đạt được kết quả, PGS. TS Bùi Ngọc Oánh cho rằng: “Việc giáo dục giới tính cần phải
được thực hiện một cách khoa học hợp lý, có phương phá
p và hình thức giảng dạy thích hợp. Hoạt
động giáo dục này cũng phải được tiến hành bởi những người có chuyên môn, có trình độ, được đào
tạo một cách chu đáo và hệ thống, giống như việc giáo dục, giảng dạy những bộ môn khoa học khác
trong nhà trường [26,159].
Gần đây, ngày 4 tháng 8 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị Số 23/2008/ CT-TTg
“Về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình”. Trong đó xá
c định nhiệm vụ
của Bộ Giáo dục và Đào tạo là triển khai có hiệu quả hoạt động giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản,
giới và giới tính trong và ngoài nhà trường. Các chương trình, dự án nêu ra “đã xác lập các nguyên tắc
chỉ đạo việc tổ chức thực hiện giáo dục, đặc biệt đã chú trọng xây dựng nội dung, chương trình giáo
dục phù hợp với từng đối tượng giáo dục cụ thể, cũng như cần phải qua
n tâm đến đội ngũ giáo viên và
đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục…[14, 16].
Từ năm 1990 trở lại đây, công tác GDGT được sự quan tâm của toàn xã hội và được nghiên cứu
một cách nghiêm túc qua một số công trình sau:
- Năm 1991, đề tài nghiên cứu: “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận GDGT của thanh niên
học sinh” của PGS. TS Bùi Ngọc Oánh.
- Năm 1994, đề tài luận văn thạc sĩ : “Thực trạng nhận thức và thái độ của học sinh THP
T đối
với một số nội dung GDGT” của Huỳnh Văn Sơn.
- Năm 1994, đề tài luận văn tốt nghiệp : “Tìm hiểu sự nhận thức và quan tâm của học sinh
THPT về các vấn đề giới tính” của Nguyễn Văn Phương.
- Năm 1998, đề tài luận văn tốt nghiệp : “Khảo sát thực trạng nhận thức, thái độ của học sinh
TH
PT về một số vấn đề cơ bản của nội dung GDGT tại một số trường THPT thành phố Hồ Chí Minh”
của Lê Khắc Mỹ Phượng.
- Năm 1999, đề tài nghiên cứu: “Một số suy nghĩ về quan niệm tình dục của tuổi vị thành niên
hiện nay đối với vấn đề tình dục” của Nguyễn Bích Điểm.

- Năm 2007, đề tài luận văn thạc sĩ : “Thực trạng việc quản lý giá
o dục giới tính cho học sinh ở
các trường THCS tại huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương và một số giải pháp” của Đỗ Hà Thế Bình.
- Năm 2010, đề tài nghiên cứu của Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Đồng Nai: “Hệ thống giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục giới tính trong các trường THPT trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai” do
Hội Khoa học Tâm lý giáo dục chủ trì.
Điểm qua các đề tài nghiên cứu, có thể nhận thấy ở lứa tuổi THPT có khá nhiều đề tài được đề
cập đến.Còn ở lứa tuổi học sinh THCS, chỉ có một đề tài, địa điểm
nghiên cứu thuộc huyện Thuận An,
Tỉnh Bình Dương, chưa có đề tài nghiên cứu công tác quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở lứa tuổi
này với địa điểm thuộc Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1.3. Giáo dục giới tính cho học sinh THCS trong tình hình hiện nay
Hiện nay, vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh THCS vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống
nhất:
Một số ý kiến cho rằng nếu cung cấp cho học sinh những thông tin và giúp chúng phòng ngừa
thai cũng như các bệnh lây qua đường tình dục sẽ đẩy các học sinh này vào họat động tình dục sớm và
bừa bãi. Nhiều ý kiến khác không đồng ý việc đưa giáo dục giới tính vào học đường, nhất là các học
sinh có độ tuổi từ 12 đến 16 t
uổi. Quan điểm này cho rằng các em còn quá nhỏ, chưa đủ nhận thức để
hiểu được vấn đề một cách thấu đáo, không tránh khỏi việc “ vẽ đường cho hươu chạy”.
Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng các mặt của đời sống xã hội đã ảnh hưởng, làm thay đổi
một số quan điểm truyền thống. Nếu như trước đây, học sinh lớp 6 đư
ợc coi là “quá bé”, “ chưa biết
gì” và chưa thể nhồi nhét những kiến thức về giới tính thì những năm trở lại đây, với sự phát triển một
cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như đài, báo, tivi, internet, phim ảnh, chế độ dinh dưỡng
được cải thiện… đã làm ảnh hưởng đến những quan điểm cũng như sự trưởng thành sớm của các em
học sinh. Vì vậy cần thiết phải đưa chương trình giáo dục giới tính vào trường học. Vấn đề là nê
n đưa
vào từ lớp nào, gồm những nội dung gì ? Từ năm 2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp cùng Tổ
chức Unicef sọan thảo chương trình thực nghiệm Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng sống cho học

sinh THCS với 9 chủ đề : Phòng tránh HIV/AIDS; Phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em; Phòng tránh
và ứng phó với tình huống căng thẳng; Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành ni
ên; Quyền trẻ em; Bệnh
lây qua đường tình dục; Phòng tránh ma túy; Phòng tránh thuốc lá rượu bia và sống khỏe mạnh.
Chương trình thực nghiệm này được giảng dạy thí điểm ở một số trường THCS, thường sử dụng các
tiết học ngọai khóa, ngòai giờ, hầu hết đều dạy lồng ghép vào các tiết dạy thuộc môn GDCD hoặc môn
Sinh. Theo chương trình mới bắt đầu thực hiện từ năm học 2002-
2003, các bài về giáo dục giới tính bắt
đầu giảng dạy từ lớp 8 đến lớp 9.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Do trong thực tiễn một số khái niệm liên quan đến giáo dục giới tính còn thiếu thống nhất, nên
đề tài đã sử dụng các khái niệm giới, giới tính, giáo dục giới tính với nội dung như sau:
1.2.1. Khái niệm giới và giới tính
1.2.1.1. Giới
Theo Tâm lý học và giáo dục học giới tính [26], Giới có thể được hiểu là giới sinh học hay giới
xã hội.
- Giới sinh học: Giới là một tập hợp những đặc điểm sinh lý cơ thể đặc trưng ở con người như
hình dáng, cấu tạo các hệ cơ quan sinh lý, nhưng điển hình là hệ cơ quan sinh dục. Ở loài người
chủ yếu có hai loại hệ cơ quan sinh dục : hệ cơ quan sinh dục nam và hệ cơ q
uan sinh dục
nữ.Tuy nhiên trong thực tế vẫn có một số ít người không thuộc hai giới trên, người ta thường
gọi là giới thứ ba (những người có sự lệch lạc trong sự hình thành và phát triển của hệ cơ quan
sinh dục). [26,24]
- Giới xã hội: Giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những qui định, luật lệ, đòi hỏi….của
xã hội đối với con người nam
hay nữ. Khi nói đến giới xã hội có những vấn đề được quan tâm
như: Vai trò của người nam, người nữ trong xã hội; Sự phân công lao động trong xã hội cho
người nam và người nữ; Sự bình đẳng giữa giới nam và giới nữ (vấn đề bình đẳng giới); Những
quan điểm đánh giá về vai trò của người nam và của người nữ trong xã hội; Sự phát triển, sự
tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội; Mối qua

n hệ xã hội và sự cư xử giữa hai
giới.[26,26]
1.2.1.2. Giới tính
Theo Tâm lý học và giáo dục học giới tính, giới tính là toàn bộ những đặc điểm ở con người tạo
nên sự khác biệt giữa nam và nữ. Trong đời sống con người, hai giới không thể tồn tại độc lập mà luôn
luôn tác động đến nhau, có quan hệ qua lại mật thiết với nhau.Ở đây ta cần hiểu khái niệm giới tính
một cách đầy đủ toàn diện về nhiều mặt sinh lý và tâm lý, cá nhân và xã hội, hôn nhâ
n và gia đình, tình
yêu và tình bạn, sự giao tiếp nam nữ [26, 30].
1.2.1.3. Một số vấn đề giới tính cần chú ý ở tuổi thanh niên, học sinh nói chung và học
sinh THCS nói riêng
Vấn đề giới tính ở thanh niên
Tuổi thanh niên, học sinh là lứa tuổi từ khoảng 14, 15 đến 17, 18 tuổi. Đây là lứa tuổi học sinh ở
cuối cấp phổ thông cơ sở và trung học phổ thông, đó là lứa tuổi bước vào thời kỳ ch
ín muồi tính dục,
từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc thời kỳ này. Bởi vậy đời sống giới tính của lứa tuổi này rất phức
tạp, bao gồm cả sự khủng hoảng mất cân bằng của giai đoạn phát dục, và cả những nét đặc trưng của
hoạt động giới tính, tính dục của giai đoạn trưởng thành sinh dục. Do đó ở lứa tuổi này, những đặc
trưng cơ bản của đời sống giới tính đều được biểu hiện khá rõ nét.
- Thực ra, sự phát dục bắt đầu diễn ra ở lứa tuổi sớm hơn (12 -13 t
uổi). Chính sự phát triển này
đã đưa các em vào đời sống tính dục và thúc đẩy hoạt động tâm lý tính dục. Giáo sư A. V. Petrovxki đã
khẳng định sự phát dục kích thích , phát triển sự qua
n tâm đến người khác giới, làm xuất hiện những
cảm xúc, tình cảm mới. Ông cũng cho rằng “ Mức độ bận tâm và tập trung vào nội tâm, vào những
cảm giác và rung động mới”[ 27,132].Ngay từ tuổi thiếu niên các em đã có thể quan tâm tới những
quan hệ bạn khác giới, tình yêu, đến việc đọc sách báo, tranh ảnh khiêu dâm, thậm chí đã có thể quan
tâm đến những vấn đề về sinh dục, tình dục. Do vậy, cần chú ý tránh “ ảnh hưởng xấu có thể có do
việc đọc những sách báo không phù hợp với lứa tuổi, do xem những phim ảnh dành cho người lớn
”[26,53]. Các nhà tâm lí học Việt nam : Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Lê Khanh… cũng khẳng

định, “ở lứa tuổi thiếu niên đã xuất hiện sự quan tâm đến bạn khác giới ” [26, 54]

- Đến tuổi thanh niên, học sinh, đời sống tính dục và quan hệ yêu đương còn thể hiện rõ ràng,
phong phú và phát triển ở mức cao hơn. Ở giai đoạn này, ngoài những biểu hiện về sinh lí tính dục như
biến đổi hình dáng cơ thể, nhu cầu về tình bạn khác giới ngày càng tăng. Đặc biệt là quan hệ yêu
đương, những nhu cầu thực sự về tình yêu và sự kích thích tò mò trước những rung động thầm
kín.
Hiện tượng này thậm chí, có thể có ngay cả ở các em học sinh ở lớp 7 trở đi.
- Tình yêu ở tuổi thanh niên, học sinh cũng đã rất phức tạp và ở mức độ phát triển mạnh mẽ.
Nhiều nhà tâm lí học trên thế giới trong những công trình nghiên cứu của mình đều thừa nhận rằng,
trong các em có tình yêu thật sự, mạnh mẽ, sâu sắc. Tình yêu, với các em “ tình yêu bằng tâm hồn,
bằng rung động của tình cảm
, tình yêu thanh cao, thuần khiết, trong sáng đến trước và là chủ yếu trong
quan hệ yêu đương của các em ”[25, 152]. Tình yêu ở lứa tuổi thanh niên, học sinh về cơ bản là một
tình cảm đẹp đẽ, lành mạnh, trong sáng, là bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con người.
Tuy nhiên, nếu các em sống trong một môi trường không được “ lành mạnh ” bị ảnh hưởng nhiều bởi
văn hóa phẩm đồi trụy, hoăc bởi những nếp sống ăn c
hơi đua đòi… tình yêu của các em dễ đưa các em
đến sự sa ngã, tan vỡ, đau khổ.
- Do đó, “các em rất cần sự giúp đỡ của người lớn, trước hết là của cha mẹ và thầy cô giáo” [15,
187]. Người lớn cần biết cách giúp đỡ, hướng dẫn các em. Người lớn không nên can thiệp thô bạo, cấm
đoán, phá hoại những tình cảm thiêng liêng này của các em. “Bất luận trong trường hợp nào đều không
đư
ợc phỉ báng, chế nhạo, bất bình với sự xuất hiện của nó”. V. A. Sukhomlinxki cũng yêu cầu “ Loại
trừ khỏi nhà trường câu chuyện ồn ào và không cần thiết về tình yêu của các em học sinh ” .Việc can
thiệp vào chuyện tâm tình là “đôi bàn tay sắt” [26,56].
Cần phải có thái độ tôn trọng và tế nhị, đồng thời cũng không được thờ ơ, lãnh đạm với những
diễn biến tâm sinh lý của thanh niên, học sinh. Cần có sự hướng dẫn, gi
úp đỡ để sự phát triển của các
em đi đúng hướng, giúp các em hoàn thiện về nhân cách, đạo đức.

Vấn đề giới tính với học sinh THCS
Học sinh THCS bước vào độ tuổi có những “biến cố” đặc biệt: các em không hoàn toàn là trẻ
con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Đây là giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, là giai đoạn
đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam
và nữ. Đời sống xúc cảm của các em bị chi phối bởi
hai yếu tố cơ bản. Đó là: sự cải tổ về mặt giải phẫu sinh lý dẫn đến sự phát dục (dậy thì), hoạt động
giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi và với người lớn. Học sinh khối 7, 8 (độ tuổi 14, 15) đã có thể nảy
sinh những xúc cảm
yêu đương đầu đời. Do đó phải giáo dục định hướng đúng đắn cho học sinh thông
qua GDGT. Khi tiến hành GDGT, giáo viên phải nắm được các đặc điểm tâm sinh lý diễn ra phức tạp
của học sinh THCS, có sự quan tâm đúng mức đến tâm tư, nguyện vọng của các em nhằm điều chỉnh
kịp thời những hành vi lệch lạc.
1.2.2. Giáo dục giới tính
1.2.2.1. Giáo dục giới tính là gì?
“Giáo dục giới tính là một quá trình hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm chất, những
đặc trưng cũng như khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết của con
người đối với người khác” [16,21]
“Giáo dục giới tính là hình thành tiêu chuẩn đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực
thầm kín của đời sống con người, hình thành những quan niệm đạo đức lành mạnh giữa em trai và em

gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những sự kiềm chế có đạo đức, sự thuần khiết và tươi mát về đạo
đức trong tình cảm của các em” [30].
Vậy “Giáo dục giới tính là quá trình giáo dục con người (thanh thiếu niên), nhằm làm cho họ có
nhận thức đầy đủ, có thái độ đúng đắn về giới tính và quan hệ giới tính, có nếp sống văn hóa giới tính,
hướng hoạt động của họ vào việc rèn luyện để phát triển nhân cách toàn diện, phù hợp với giới tính,
giúp cho họ biết tổ chức tốt nhất cuộc sống r
iêng cũng như xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát
triển” [26, 41].

1.2.2.2. Nhiệm vụ, nội dung, nguyên tắc, mục đích, đối tượng của giáo dục giới tính

Nhiệm vụ của giáo dục giới tính
Theo “Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính”, Giáo dục giới tính có các nhiệm vụ sau:
- Hình thành và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học, thái độ và quan niệm đúng đắn
về những hiện tượng của đời sống giới tính, sinh lí tính dục, về cấu trúc và chức năng của các hệ cơ
qua
n của cơ thể, nhất là hệ cơ quan sinh dục ; về sự cư xử đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ
với mọi người, với người khác giới, về những vấn đề đạo đức giới tính, thẩm mỹ giới tính, tình yêu,
hôn nhân và đời sống gia đình.
- Giúp cho các em có bản lĩnh vững vàng bước vào đời sống xã hội, biết bảo vệ, giữ gìn sức
khỏe cho người bạn và cho chí
nh mình, có khả năng chống chọi với những cạm bẫy, quyến rũ của lối
sống ăn chơi đồi trụy, biết phê phán, bác bỏ những quan niệm không đúng về tình yêu, tình dục, quan
hệ tình dục quá sớm hoặc buông xuôi, cả nể, dẫn tới quan hệ tình dục bừa bãi, yêu nhau, bỏ nhau quá
dễ dàng.
- Giúp các em biết trân trọng và bảo vệ những giá trị cao cả và thiêng liêng của tình bạn t
hân
thiết và gắn bó, của tình yêu sâu nặng và chung thủy, biết được cái hay cái đẹp của nếp sống văn hóa
văn minh.
- Chuẩn bị về tinh thần và khả năng thực tiễn cho thế hệ trẻ, giúp họ phát triển nhân cách toàn
diện, biết cách tổ chức và xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp
phần xây dựng và thúc đẩy xã hội phát triển giàu mạnh. [26, 150-151]
Nội dung của giáo dục giới tính
Nội dung của giáo dục giới tính phải giúp cho việc thực hiện những nhiệm vụ của GDGT, đồng
thời phải gắn liền với giáo dục đạo đức, phù hợp với điều kiện xã hội, đời sống đạo đức và phong tục
tập quá
n. Nội dung GDGT gồm các nội dung chung của GDGT và tùy theo lứa tuổi.Nội dung của
GDGT gồm:
+ Đặc điểm tâm sinh lí con người có những đặc điểm về sinh lí tính dục, với những hiện tượng
điển hình như : sự phát triển sinh lí cơ thể, chiều cao, c
ân nặng, cấu trúc và chức năng của hệ cơ quan

sinh dục, đời sống tình dục, kinh nguyệt, sinh nở, cho con bú, những kiến thức về sức khỏe, sinh đẻ có
kế hoạch, các bệnh thông thường và bệnh liên quan đến đường tình dục (sức khỏe sinh sản)…
+ Đặc điểm giới tính về đạo đức, xã hội, thẩm mỹ như : Cách cư xử với mọi người, với bạn
khác giới, tác phong tư thế, phẩm chất đạo đức theo giới tính, quan niệm về cái đẹp, sự rèn luyện để
tạo nên cái đẹp châ
n chính và vững bền, vấn đề chọn nghề, những vấn đề quan hệ xã hội, pháp luật liên
quan đến cuộc sống gia đình như luật hôn nhân gia đình, trách nhiệm của con người trong gia đình và
xã hội, phương hướng con người rèn luyện về mặt giới
tính, những đặc điểm về đời sống tâm lí con
người, tâm lí giới tính theo lứa tuổi…
+ Những vấn đề về quan hệ bạn khác giới và tình yêu nam nữ như : Bản chất của tình yêu, sự cư
xử trong tình yêu, quy luật của tình yêu, xây dựng tình bạn, tình yêu chân chính…
+ Những vấn đề hôn nhân và đời sống gia đình như bản chất của hôn nhân, điều kiện để có hôn
nhân hạnh phúc, cuộc sống gia đì
nh, sự chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, cách xây dựng một gia đình
hạnh phúc…
Hiện nay, nhiều nhà giáo dục thường quan tâm nhấn mạnh đến việc giáo dục sức khỏe sinh sản,
giáo dục tình dục, giáo dục tình yêu và hôn nhân… Đó là những biểu hiện cơ bản của đời sống giới
tính được kết hợp hoặc tích hợp theo một định hướng, một trọng tâm cơ bản, một mục
tiêu giáo dục
nào đó. Và đó cũng là những nội dung nhất định, điển hình của đời sống giới tính.
Những nội dung trên cần được thực hiện theo hình thức tổ chức giáo dục thích hợp, cho những
đối tượng thích hợp và theo từng điều kiện hoàn cảnh thích hợp.[26,155-156]. Với lứa tuổi học sinh
phổ thông, đặc biệt là lứa tuổi học sinh THCS, việc lựa chọn nội dung cho từng khối lớp luôn phải đáp

ứng cho các câu hỏi: Dạy cho khối nào (lứa tuổi nào), dạy những nội dung gì? Dạy như thế nào? (thành
môn riêng hay lồng ghép vào môn khác, dạy ngoại khóa hay chính khóa …) trong đó cần phải thận
trọng khi giảng dạy các chủ đề như tình dục, tình yêu … bên cạnh đó chú ý thêm đến dư luận phụ
huynh, tình hình xã hội của từng vùng, từng địa phương…
Nguyên tắc của giáo dục giới tính

Việc giáo dục giới tính cho thanh niên, học sinh là vấn đề quan trọng, cần thiết, tuy nhiên cũng
là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Vì vậy, ngoài việc phải đảm bảo những nguyên tắc chung như: Tính
khoa học, tính giáo dục, tính thực tiễn… như các môn học khác, cần phải chú ý thêm những vấn đề sau
đây :
- Giáo dục giới tính phải gắn liền với giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách, hình thành thế giới
qua
n khoa học, giáo dục giới tính phải gắn liền với việc giáo dục và hình thành nếp sống sinh hoạt lành
mạnh, lối sống văn hoá văn minh. Cần phải xác định rằng, đó là một trong những mục tiêu cơ bản của
giáo dục giới tính.
- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách toàn diện cả về sinh lí giới tính, tâm lí giới
tính, thẩm mỹ giới tính, xã hội giới tính. Không nên chỉ tập trung vào những vấn đề sinh l
í tính dục mà
coi nhẹ các vấn đề tâm lí xã hội giới tính.
- Phải kết hợp việc giảng dạy tri thức khoa học với việc hình thành thái độ đúng đắn. Khi giảng
dạy những “ vấn đề nhạy cảm ” không nên chỉ tập trung miêu tả các sự kiện, hiện tượng một cách “
trần trụi” “ sống sượng ”, mà cần chú ý kết hợp việc hình thành ý thức đạo đức, phê phá
n những biểu
hiện sai trái.
- Phải kết hợp việc truyền thụ những tri thức lí luận với những kiến thức thực tiễn nhất là những
vấn đề thực tiễn trong đời sống sinh hoạt của thanh niên, học sinh.
- Giáo dục giới tính phải được thực hiện một cách phù hợp với đăc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi,
của lớp học, p
hải phù hợp với phong tục tập quán của mỗi nơi.
Mục đích của giáo dục giới tính
Tác giả J. P. Ma-sơ-lô-va (Tiệp Khắc) đã nghiên cứu các vấn đề về giới tính cho rằng “Mục
đích của toàn bộ chương trình giáo dục tình dục từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành không chỉ là trang
bị kiến thức, xây dựng ý thức tình dục mà điều quan trọng là xây dựng những qua
n niệm đúng đắn về
vai trò, trách nhiệm của người đàn ông và phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng, trong gia đình và trong xã
hội”.[ 22, 38- 48]

Nói một cách khác, mục đích của GDGT là góp phần làm nhân cách phát triển toàn diện, làm
con người có điều kiện xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh. GDGT có ý nghĩa to lớn trong việc thực
hiện mục tiêu giáo dục nói chung, đào tạo con người mới phát triển toàn diện.
Đối tượng của
GDGT
Tác giả Bùi Ngọc Oánh đã nêu lên 4 loại đối tượng của GDGT trong tình hình hiện nay của
nước ta như sau:
Loại thứ nhất: lứa tuổi mới lớn, bao gồm thanh niên, học sinh từ THCS trở lên (từ khoảng
13,14 tuổi đến 20,22 tuổi).
Loại thứ hai: tuổi trưởng thành chuẩn bị lập gia đình (đối với người chuẩn bị lập gia đình: từ
khoảng 18,20 tuổi trở lên).
Loại thứ ba: thanh niên đã có gia đình bao gồm tất cả những thanh niên đã kết hôn.
Loại thứ tư: giáo viên và những người làm công tác GDGT.
Với đối tượng loại thứ nhất, GDGT đáp ứng những quy luật phát triển về tâm lý, sinh lý cơ thể,
đặc biệt là sự phát triển về đời sống tính dục và sự trưởng thành nhân cách của thanh thiếu niên trong
xã hội.
Trong quy luật phát triển cơ thể con người, từ khoảng 12,13 tuổi trở lên đến 15,16 tuổi (lứa tuổi
học sinh THC
S), sự dậy thì làm cho thiếu niên bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới tính và tình dục.
I.X. Kon cho rằng đến tuổi dậy thì “ mối quan tâm của thiếu niên đến các vấn đề giới tính trở nên căng
thẳng và riêng tư”, nó trở nên “ một nhu cầu cơ bản của con người”[10]. Những nhu cầu ấy ngày càng
tăng và ngày càng cấp thiết đối với các em. GDGT đáp ứng những nhu cầu này của các em, giúp các
em có định hướng đúng đắn và phù hợp đối với đời sống giới tính và đời sống xã hội. Dự án
VIE/
97/P12 cho rằng: “ Vị thành niên và thanh niên là một giai đoạn trong cuộc đời con người. Lớp
thanh niên này được thông tin giáo dục về SKSS- vị thành niên sẽ trưởng thành lên người lớn. Lại một
lớp vị thành niên mới cần được thông tin giáo dục về SKSS- vị thành niên. Và vì vậy, nhu cầu về thôn
g
tin giáo dục SKSS cho vị thành niên là một nhu cầu thường xuyên, liên tục [6,192].
Với đối tượng học sinh THCS, công tác GDGT cần phải có những nội dung và hình thức tiến

hành theo đặc điểm lứa tuổi phù hợp.

1.2.3. Hoạt động quản lý
1.2.3.1. Khái niệm hoạt động quản lý
- Hoạt động quản lý là hoạt động tổ chức, hoạch định, chỉ đạo, hướng dẫn, sử dụng điều khiển, đánh
giá con người để làm cho toàn thể các thành viên hoạt động theo kế hoạch chung nhằm đạt tới mục tiêu
nhất định.
- Nội dung cơ bản của hoạt động quản lý :
+ Hoạt động hoạch định, xây dựng kế hoạch chung.
+ Tổ chức phâ
n công phân việc, sắp xếp tổ chức con người thành một nhóm theo một hệ thống
nhất định.
+ Hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo con người, điều khiển con người.
+ Kiểm tra, đánh giá hoạt động của con người, kết quả hoạt động của đơn vị và điều chỉnh hoạt
động.
+ Hoạt động quản l
ý được tiến hành trong một tổ chức, một đơn vị diễn ra với những nội dung
thực hiện đa dạng, phong phú trên nền tảng chung chính là những tác động có tính hướng đích,
nhằm thực hiện hoàn thiện mục tiêu đã được các cấp, xã hội giao phó.
1.2.3.2. Quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở cấp THCS
Như các hoạt động quản lý khác trong nhà trường, việc quản lý hoạt động giáo dục giới tính
thường bao gồm các nội dung sau:

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các lực lượng sư phạm trong nhà trường, phụ huynh và
học sinh về công tác giáo dục giới tính

GDGT là một công việc khó khăn phải tiến hành thường xuyên, liên tục và muốn đạt được hiệu
quả phải nâng cao nhận thức cho các lực lượng trực tiếp làm công tác GDGT bởi vì “ một trong những
nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng GDGT ở nước ta thời gian qua chính là nhận thức của
xã hội, các lực lượng trực tiếp làm công tác GDGT chưa đúng đắn, nhất là chưa hoàn toàn nhất trí với

việc tiến hành GDGT cho học sinh, sinh viên, cho rằng làm
như thế là vẽ đường cho hưu chạy, là làm
hoen ố tâm hồn trong trắng của tuổi học trò” [14,33] . Do vậy, muốn quản lý đạt hiệu quả phải bắt đầu
từ nâng cao nhận thức, nêu cao ý thức trách nhiệm cho đội ngũ giáo viên, trách nhiệm của phụ huynh
và trách nhiệm tự rèn luyện cho học sinh.

Quản lý việc thực hiện chương trình theo qui định của Bộ Giáo Dục

Nội dung chương trình của giáo dục giới tính cấp THCS hiện nay chủ yếu thực hiện lồng ghép ở
hai môn GDCD và Sinh học . Ngoài ra theo chỉ đạo của Bộ Giáo Dục và Đào tạo, GDGT cần được
lồng ghép trong các hoạt động khác nhau của nhà trường như thông qua dạy học, sinh hoạt tập thể,
hoạt động ngoại khóa và các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Thông qua việc triển khai chương trình đầy đủ, đúng chương trình các tiết thuộc 2 m
ôn GDCD
và Sinh học các bài có nội dung giáo dục giới tính, cung cấp kiến thức đồng thời giáo dục thái độ, rèn
kỹ năng sống cho học sinh .
Với môn Sinh học: mục tiêu lồng ghép GDGT với trọng tâm là giáo dục SKSS được xác định
là: giúp học sinh có hiểu biết chính xác, khoa học về cơ quan sinh dục nam, cơ quan sinh dục nữ, sự
thụ tinh, thụ thai và phát triển của thai, nêu được cơ sở khoa học của biện pháp tránh thai, cơ chế xá
c
định giới tính, phát sinh giao tử và thụ thai, các loại bệnh lây qua đường tình dục, đại dịch AIDS. Từ
những hiểu biết trên, học sinh có ý thức tự tìm hiểu thông tin về SKSS vị thành niên, có ý thức phòng
tránh thai, phòng tránh bệnh lây qua đường tình dục.
Với môn GDCD: các bài học lồng ghép về giáo dục pháp luật, học sinh có những hiểu biết về
tình bạn trong sáng (nam- nữ), phòng chống tệ nạn xã hội, phòng chống nhiễm HIV-AIDS, biết được
quyền và nghĩa vụ trong hôn nhân, sống có đạo đức và tuân theo pháp luật. Nhờ đó m
à có thái độ sống
đúng đắn, có trách nhiệm với bạn bè, xây dựng tình bạn tốt đẹp, có ý thức phòng tránh tiêm nhiễm tệ
nạn xã hội, tránh thái độ kỳ thị với người bị nhiễm HIV và gia đình họ, có trách nhiệm với bản thân,
gia đình, xã hội trong tương lai, tuân thủ pháp luật.

Từ việc học lồng ghép vào môn Sinh và môn GDCD, học sinh có những kiến thức và thái độ
sống đúng đắn, có sự chuẩn bị để bước và
o tuổi trưởng thành một cách nghiêm túc, phù hợp với chuẩn
mực đạo đức và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Công tác quản lý việc thực hiện chương trình không chỉ nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
mà còn góp phần giáo dục đạo đức lối sống, góp phần giúp học sinh phát triển nhân cách toàn diện.
Quản lý việc giảng dạy của giáo viên
Quản lý việc phân công giáo viê
n giảng dạy
Lực lượng giáo viên tham gia giảng dạy các bài, các nội dung giáo dục giới tính thuộc những
môn Sinh học, Giáo dục công dân .Ngoài ra còn phải kể đến lực lượng giáo viên chủ nhiệm, giáo viên
phụ trách các đoàn thể như Chi Đoàn, Tổng phụ trách Đội. Khi tham gia công tác GDGT, các lực
lượng này cần được tập huấn (theo chuyên đề) nhằm được trang bị một cách cơ bản kiến thức và
phương pháp GDGT. Việc phân công giáo viên giảng dạy cần đúng trình độ đào tạo theo chuẩn, hạn
chế phân công
giáo viên không đúng chuyên môn đào tạo sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy
Quản lý việc chuẩn bị bài lên lớp
và giờ lên lớp của giáo viên
- Chỉ đạo cho giáo viên chuẩn bị giáo án, lên lớp đầy đủ các tiết theo qui định của phân phối
chương trình đặc biệt là các bài lồng ghép giáo dục giới tính
- Thư viện cung cấp SGK, tài liệu bộ môn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham
khảo chuẩn bị bài.
- Việc giáo viên thiết kế bài dạy để vừa cung cấp được lượng kiến thức phù hợp lứa tuổi đồng
thời rèn luyện kỹ năng ứng xử, giao tiếp.
- Công tác duyệt giáo án định kỳ và kiểm tra
định kỳ phải tiến hành thường xuyên, tránh qua loa
chiếu lệ.
Quản lý giờ lên lớp của giáo vi
ên
Quản lý thông qua thời khóa biểu, sổ đầu bài, sổ báo giảng của từng giáo viên bộ môn. Do các bài

dạy có nội dung giáo dục giới tính nằm ở cuối chương trình lớp 8, cần có kế họach kiểm tra giáo viên
bộ môn thực hiện chương trình đầy đủ, không cắt xén chương trình. Ban giám hiệu dự giờ, rút kinh
nghiệm về nội dung và phương pháp giảng dạy. Đặc biệt lưu ý xem các tiết học này có nét riêng về
phương pháp giảng dạy, phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với học sinh,đem đến cho học sinh sự
hứng thú học tập hướng đến sự tự học, tự rèn luyện kỹ năng sống. Thái độ giảng dạy của giáo viên đối
với các bài có nội dung giáo dục g
iới tính: giảng dạy có được tự nhiên để truyền đạt kiến thức khoa
học, kết hợp dạy tri thức với giáo dục, hì
nh thành thái độ đúng đắn, văn hóa với các vấn đề giới tính.
Kết hợp việc giảng dạy với việc phê phán những biểu hiện không tốt trong nếp sống, sinh họat có liên
quan tới tri thức các bài về nội dung đã đề cập trên.
Quản lý c
ông tác bồi dưỡng giáo viên
Qua việc quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên, nâng cao nhận thức cho giáo viên về tầm quan
trọng của công tác giáo dục giới tính, tham gia tập huấn đầy đủ theo các chương trình bồi dưỡng giáo
viên của Bộ, Sở, nhất là các đợt tập huấn riêng về giáo dục giới tính. Ngoài các đợt tập huấn chung,
bản thân giáo viên có tự học, tự bồi dưỡng kiến thức, cập nhật kiến thức thường xuyên để giảng dạy
đạt chất lượng tốt nhất các bài có nội dung GDGT.
Quản lý công tác tổ chức giáo dục giới tính
Các hoạt động
chính khóa: quản lý thông qua chương trình SGK tài liệu đã được Bộ Giáo Dục
ban hành, nhà trường có kết hợp với các tổ chức, các lực lượng sư phạm trong nhà trường nhằm thực
hiện tốt giáo dục giới tính, đổi mới phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục giới tính, đẩy mạnh
họat động tự giáo dục của học sinh, tích cực xây dựng và cải tạo môi trường giáo dục trong các nhà
trường, bồi dưỡng tri thức giới tính và nhân cách cho học sinh, tổ chức các họat động phù hợp c
ho sự
phát triển của lứa tuổi học sinh THCS.
Các họat động
ngọai khóa: quản lý việc tổ chức các chuyên đề về tình bạn, tình yêu, tuổi dậy
thì, nâng cao hiểu biết về tri thức giới tính, việc định hướng lối sống lành mạnh như giáo dục phòng

chống ma túy, chống HIV/ AIDS, phòng chống xâm hại tình dục, trang bị cho học sinh những thông
tin, kiến thức, kỹ năng và phương tiện để đưa ra những quyết định, quan niệm đúng đắn về giới tính,
góp phần hạn chế tối đa những hậu quả đá
ng tiếc do thiếu hiểu biết.
Quản lý việc tổ chức hoạt động của phòng tư vấn học đường
: phòng tư vấn học đường nhằm
kịp thời tư vấn cho học sinh những vấn đề về tâm lý, về giới tính, tình bạn, tình yêu, tình dục, giải đáp
thắc mắc về lứa tuổi dây thì . Phòng cần đặt ở vị trí thuận lợi cho học sinh, bố trí nhân sự đủ trình độ,
am hiểu về tâm lý giới tính để sẵn sàng chia sẻ, tâm tình. Quản lý tốt hoạt động của phòng tư vấn học
đường, tổ chức phong phú các hình thức tư vấn, nội dung tư vấn phù hợp sẽ góp phần to lớn giải tỏa
tâm lý cho
học sinh, hạn chế những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc trong tâm sinh lý học sinh.
Quản lý cơ sở vật chất
Đầu tư trang thiết bị, sách, tài liệu, cơ sở vật chất thiết yếu cho dạy học giáo dục giới tính như
tivi, đầu máy, băng đĩa, tranh ảnh trực qua
n, phòng học…để đảm bảo cho công tác GDGT diễn ra
trong điều kiện thuận lợi nhất.
Quản lý việc phối hợp với PHHS trong công tác giáo dục giới tính

Qua các hoạt động tư vấn nâng cao nhận thức cho PHHS về công tác GDGT, nhà trường sẽ phối
hợp với PHHS để hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tìm hiểu các kiến thức về giới tính, từ đó giúp cac em
phát triển đúng hướng, chủ động trong tình cảm, trong quan hệ giới tính.Phụ huynh phải là “người bạn
lớn” với con trong mọi hoàn cảnh, giúp con lớn lên một cách khỏe mạnh, trong sáng.
Quản lý việc học, tự bồi dưỡng, tự giáo dục giới tính của học sinh

Qua các nội dung GDGT được cung cấp, học sinh có ý thức tự bồi dưỡng, tự tìm hiểu kiến thức
về giới tính một cách khoa học, tự hoàn thiện nhân cách mà theo quan điểm của giáo dục học: “thành
công trong công tác giáo dục chính là làm cho người được giáo dục ý thức được và chấp hành những
yêu cầu của nhà giáo dục và của tập thể, làm cho họ biết tự đề ra cho mình những mục tiêu phấn đấu
trong cuộc sống, tự bồi dưỡng và tự rèn luyện những phẩm chất và năng lực mới cho bản thân”. [13,

43]
Tìm hiểu những vấn đề lý luận về giới, giới tính, giáo dục giới tính, quản lý hoạt động GDGT
chính là nền tảng lý luận vững chắc, từ đó, tác giả sẽ tìm hiểu thực trạng quản lý hoạt động GDGT tại
các trường THCS thuộc Quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao c
hất lượng giáo dục toàn
diện tại các trường THCS thuộc Quận 4 nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TẠI CÁC
TRƯỜNG THCS THUỘC QUẬN 4, TP. HCM

2.1. VÀI NÉT TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI ĐỊA BÀN QUẬN 4
2.1.1. Về địa lý
Quận 4 là một Quận giáp ranh với trung tâm Thành phố, có hình dạng như một cù lao tam giác
với tổng diện tích 4.181km
2
. Tỷ lệ diện tích so với Thành phố là 0,1995% (nhỏ nhất trong 24 Quận
huyện). Tổng số dân khoảng 200.000 người. Dân tộc Kinh chiếm khoảng 92,91%, dân tộc Hoa chiếm
4,08%, còn lại là các dân tộc khác. Mật độ dân số 48.791 người/km
2
, đứng thứ hai trong toàn thành
phố. Địa giới hành chính được chia thành 15 phường, 51 khu phố và 666 tổ dân phố.

Hình 2.1. Bản đồ Quận 4 – Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.2. Tình hình giáo dục
2.1.2.1. Số trường, số giáo viên, học sinh
Tình hình nhân lực giáo dục khối THCS trên địa bàn quận được trình bày trong bảng 2.1.
Bảng 2.1. Tình hình nhân lực các trường THCS tại Quận 4
Loại hình nhân lực Số trường CBQL GV Học sinh
Số lượng 6 15 271 6889


Như vậy có thể thấy so với toàn thành phố, tỉ lệ giữa cơ sở vật chất và nhân lực ngành giáo dục
THCS của quận 4 là chưa tương xứng và chưa đồng đều ở các hạng mục.
Về chi tiết, phân tích tình hình giáo viên các môn trình bày trong bảng 2.2
Bảng 2.2. Tình hình giáo viên dạy các môn Sinh, GDCD và tình hình học sinh khối 8, 9 tại các trường
THCS thuộc Quận 4
Giáo viên Học sinh

Sinh GDCD Tổng GV Lớp 8,9 Tổng HS
Số lượng 18 11 271 3488 6889
Tỉ lệ/tổng 6.65% 4.06% - 50.6% -
Tỉ lệ GV/HS 1/383 1/626 1/25 - -

2.1.2.2. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ dạy học các trường THCS
- Số phòng học : 161
- Diện tích các trường nhỏ hẹp, chưa có trường nào có phòng tư vấn tâm lý.
- Trang thiết bị đồ dùng dạy học phục vụ tốt cho giảng dạy.
2.1.2.3. Kết quả xếp loại học lực- hạnh kiểm NH 2009-2010
Thống kê xếp loại học lực và hạnh kiểm được
trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.3. Thống kê xếp loại học lực và hạnh kiểm

Học lực Hạnh kiểm
Giỏi / tốt 28.16% 71.27%
Khá 38.42% 22.35%
Trung bình 26.29% 6.38%
Yếu 6.27% -
Kém 0.86% -
Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở thuộc Quận 4 trong nhiều năm liền đạt 100 %.
Phân tích cho thấy, phong trào dạy và học đạt kết quả khá tốt, các trường THCS đều có quan
tâm đến công tác giáo dục toàn diện cho học sinh song chất lượng hoạt động chưa đồng đều. Về mặt

học lực, tỉ lệ học sinh giỏi còn chưa cao so với học sinh khá và xấp xỉ học sinh trung bình (28.16% so
với 26.29%). Đây là một trong những thực trạng đáng quan tâm
trong công tác quản lý giáo dục và
nâng cao chất lượng giảng dạy hơn nữa tại địa bàn quận.

Biểu đồ 2.1. Phần trăm xếp loại học lực và hạnh kiểm

Trong 3 năm trở lại đây Quận 4 được công nhận là Quận nội thành của TP.HCM, tốc độ đô thị
hóa nhanh, khoa học công nghệ phát triển, học sinh các trường THCS được tiếp cận với các hoạt động
giao lưu văn hóa, tiếp cận tốt với phương tiện thông tin đại chúng như sách báo, internet, truyền hình
cáp, các đài phát thanh …. Môi trường sư phạm lành mạnh là điều kiện tốt để học sinh phát triển nhân
cách một cách đúng hướng.


2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TẠI CÁC
TRƯỜNG THCS THUỘC QUẬN 4, TP.HCM
2.2.1. Thực trạng quản lý việc thực hiện chương trình theo qui định của Bộ Giáo
Dục và đào tạo (chương trình lồng ghép ở 2 môn GDCD và môn Sinh)
Việc thực hiện lồng ghép chương trình ở môn GDCD và môn Sinh hiện đã và đang được triển
khai trên địa bàn quận. Tuy nhiên chưa có một sự đánh giá nào về hiệu quả của việc quản lý vấn đề
này. Nhóm nghiên cứu khảo sát nhằm làm rõ đồng thời giúp cung cấp thêm dữ kiện để đánh giá nội
dung giáo dục giới tính trong học đường. Kết quả khảo sát được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 2.4 Khảo sát việc thực hiện chương trì
nh môn GDCD (các bài có nội dung GDGT)
Học sinh
Giáo viên
Tên bài
TS SL TL
TS SL TL
Sig

Xây dựng tình bạn trong sáng 200 145 72.5% 6 6 100% 0.178
Phòng chống tệ nạn xã hội 200 169 84.5% 6 6 100% 0.178
Phòng chống nhiễm
HIV/AIDS
200 156 78% 6 6 100% 0.374
Quyền và nghĩa vụ của công
dân trong hôn nhân
200 102 51% 6 6 100% 0.001
*
Sống có đạo đức và tuân theo
pháp luật
200 131 65.5% 6 6 100% 0.075
TRUNG BÌNH
200 141 70.3% 6 6 100%

Chú thích: α ≤ 0.05 : Sự khác biệt có ý nghĩa
α > 0.05 : Sự khác biệt không có ý nghĩa
Việc lồng ghép thể hiện trong 5 bài có nội dung tương ứng ở bảng trên. Qua khảo sát, giáo viên
GDCD đã thực hiện đầy đủ 100% các bài theo quy định. Để xem xét nội dung giảng dạy đạt hiệu quả
đến đâu, người nghiên cứu đã trực tiếp dự giờ và nhận thấy tiết dạy cũng không khác gì so với tiết dạy
bình t
hường về các bước lên lớp, nội dung giảng dạy không thoát ly khỏi sách giáo khoa, không chú
trọng nội dung giáo dục giới tính – quan hệ nam nữ để phòng tránh bệnh tật, tệ nạn xã hội, HIV/AIDS.
Nhìn chung việc thực hiện chương trình lồng ghép ở môn GDCD trên bình diện của giáo viên đứng lớp
là khá tốt và nghiêm túc.

Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ phần trăm thực hiện chương trình môn GDCD
(các bài có nội dung GDGT)
Qua biểu đồ 2.2, so sánh sự nhận xét của học sinh với giáo viên có sự khác biệt về tỉ lệ phần
trăm, trung bình chỉ đạt 70.3% ở các bài trong khi tỉ lệ này ở giáo viên là 100%, Quan sát ở cột Sig, ta

thấy sự khác biệt không có ý nghĩa ở các bài 1,2,3,5 (Sig > 0.05) sự khác biệt có ý nghĩa ở nội dung
bài “ Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân” (Sig = 0.001 < 0.05).Trên thực tế, bài này c
ó
được giảng dạy trên lớp nhưng kết quả khảo sát trong học sinh cho biết rằng các em gần như không
nắm bắt được vấn đề, các nội dung giảng dạy không còn nằm trong kiến thức của các em. Học sinh sau

×