MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, có đủ năng lực, trình độ, có bản lĩnh chính trị vững
vàng là yêu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của tổ chức Đoàn các cấp. Xây dựng đội ngũ cán
bộ Đoàn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong
giai đoạn mới, là nhân tố quyết định sự vững mạnh của các tổ chức Đoàn, Hội, Đội, đồng thời
tích cực tham
gia xây dựng Đảng và chính quyền trong thời kỳ mới. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
có vị trí rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng CBĐ; do đặc thù luân chuyển nhanh, là
cán bộ trẻ, kinh nghiệm thực tiễn và thời gian công tác còn ít, vì vậy CBĐ cần phải được đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên, kịp thời về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ công tác
thanh vận.
Trong quá
trình phát triển và lớn mạnh của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cả nước
nói chung và TP.HCM nói riêng có phần đóng góp rất quan trọng của công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ CBĐ các cấp của Trường Đoàn Lý Tự Trọng. Kể từ năm 1973 cho đến nay, qua
hơn 30 năm hoạt động và trưởng thành, Trường Đoàn Lý Tự Trọng đã đào tạo, bồi dưỡng hơn
70.000 CBĐ cho phong trào tha
nh thiếu nhi thành phố, cung cấp nhiều lớp cán bộ trẻ xuất sắc
cho Đảng và chính quyền các cấp. Những CBĐ được đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Đoàn Lý
Tự Trọng phần lớn đã phát huy vai trò hạt nhân nòng cốt trong công tác Đoàn và phong trào
thanh thiếu nhi thành phố.
Tuy nhiên, trước sự đổi thay của đất nước, trước sự chuyển biến và lớn mạnh của công
tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, chất lượng đào tạo của Trường Đoàn Lý Tự Trọng hiện
nay còn nhiều vấn đề cần phải xem
xét, đánh giá lại để có hướng điều chỉnh và nâng tầm cho
phù hợp với thực tế. Tính chất, phương thức hoạt động Đoàn trong thời kỳ mới thay đổi, đòi hỏi
nội dung đào tạo phải thay đổi, do đó phải đổi mới cách thức quản lý, cách thức tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng. Các chủ trương về công tác Đoà
n được phát triển và bổ sung, do đó cần nghiên
cứu thực trạng và tìm kiếm giải pháp mới để quản lý và tổ chức đào tạo hiệu quả hơn, thiết thực
hơn.
Nghiên cứu công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng để có
một
cái nhìn khách quan và tổng thể, tìm ra những mặt được và chưa được, qua đó giúp nhà trường
tiếp tục phát huy những thế mạnh, thành tích đạt được và tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc
phục những hạn chế, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ CBĐ tại trường thật sự quan
trọng và cấp thiết.
Bản thân đang công tác tại Thành Đoàn TP.HCM, cơ quan quản lý trực tiếp Trường
Đoàn Lý Tự Trọng, được trang bị những kiến thức cơ bản về phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu quản lý giáo dục, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực trạng quản lý hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng, TP.HCM”. Đề tài
này gắn liền với thực tiễn công tác của bản thân và gắn liền với quan điểm đổi mới đào tạo tại
Trường Đoàn Lý Tự Trọng của BTV Thành Đoàn TP.HCM.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý đào tạo, và thực tiễn về hoạt động đào tạo của
Trường Đoàn Lý Tự Trọng, tì
m ra các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội n
gũ CBĐ góp phần giúp Thành Đoàn TP.HCM và Trường Đoàn Lý Tự Trọng có cơ
sở tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng và thực trạng quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBĐ
tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng.
- Các giải pháp quản lý nhằm
nâng cao hiệu quả việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBĐ tại
Trường Đoàn Lý Tự Trọng
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Ban Giám hiệu (hiệu trưởng, các hiệu phó)
- Cán bộ, Giáo viên Trường Đoàn Lý Tự Trọng
- Cán bộ Thành Đoàn, Cán bộ các cơ sở Đoàn (Nơi sử dụng học viên trường Đoàn ra
trường)
- Học viên
đã và đang học tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng
Có 80 học viên và 80 cựu học viên được tham khảo ý kiến
Bảng 1: Khách thể chính
Khách thể Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Học vin 80 50.0 50.0 50.0
Cựu học vin 80 50.0 50.0 100.0
Valid
Total 160 100.0 100.0
4. Giả thuyết nghiên cứu
Trường Đoàn Lý Tự Trọng chậm được củng cố tổ chức lại, chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng chưa cao. Công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với tiêu chuẩn và quy hoạch sử
dụng; nội dung, chương trình, hình thức đào tạo chưa thật sự phù hợp với từng đối tượng. Đặc
biệt việc quản lý mục tiêu và quản lý nội
dung chương trình chưa được thực hiện đồng bộ và
hiệu quả chưa cao.
Nếu đánh giá đúng tình trạng, phân tích cặn kẽ và chính xác các nguyên nhân, tìm ra
được những giải pháp quản lý hợp lý và thực hiện nghiêm túc các giải pháp quản lý này hữu
hiệu, thì có thể nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBĐ, đáp ứng yêu cầu công tác
CBĐ trong thời kỳ mới.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận của đề tài.
- Tìm
hiểu thực trạng hoạt động đào tạo và quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBĐ tại
Trường Đoàn Lý Tự Trọng.
- Đề xuất những giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CBĐ tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi luận văn này chỉ nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ CBĐ tại Trường Đoàn Lý Tự Trọng trong 5 năm gần đây
. Qua đó, đề xuất một số giải pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBĐ tại Trường Đoàn Lý Tự
Trọng từ nay đến năm 2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các văn bản, tài liệu, sách, tham
khảo các vấn đề có liên quan đến đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp điều tra (Tham khảo ý kiến bằng Anket)
- Phương pháp chuyên gia (Hội thảo, tọa đàm khoa học)
- Phương pháp toán thống kê
8. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
- Tháng 4/2007: Chọn đề tài, thực hiện đề cương - Thông qua giáo viên hướng dẫn khoa
học - Bảo vệ đề cương
- Từ Tháng 5 – tháng 12/2007: Đọc sách, tài liệu, lên kế hoạch, địa bàn nghiên cứu,
chuẩn bị phiếu điều tra
- Từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2008: Tiếp xúc địa bàn, thu thập số liệu, phát phiếu điều
tra, lấy ý kiến.
- Tháng 7/2008: Hoàn thành phần nghiên cứu lý luận của đề tài
- Tháng 8/2008: Phân tích, xử lý các số liệu và tài liệu thu thập được.
- Từ Tháng 9 – tháng 12/2008: Hoàn thành cơ bản luận văn, thầy hướng dẫn chỉnh sửa,
góp ý.
- Tháng 1/2009: Viết lại trên cơ sở đã đư
ợc góp ý
- Tháng 2/2009: Báo cáo và chỉnh sửa lần chót. Nộp luận văn cho Phòng KHCN-SĐH
- Quý 1/2009: Bảo vệ luận văn theo kế hoạch của trường.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp, huy động các lực lượng giáo dục và
xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả công việc giáo dục. Việc quan tâm đến sự nghiệp giáo dục
không chỉ là vấn đề của các nhà trường, của ngành giáo dục - đào tạo mà là sự nghiệp chung
của toàn xã hội. Hệ thống giáo dục hiện nay được xây dựng và phân cấp theo chiều dọc và
chiều ngang; tạo thành mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục ngày càng đa dạng, phong phú. Số
lượng người dạy và người học ngày càng nhiều; các hình thức tổ chức dạy học và giáo dục
đang được xác định đúng đắn, phù hợp hơn.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục của quốc gia nói chung và
của các cơ sở GD-ĐT nói
riêng, hoạt động quản lý GD-ĐT không thể thiếu các công như: kế hoạch hóa công tác giáo
dục dài hạn, trung hạn, ngắn hạn; tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục và phát triển giáo dục;
chỉ đạo các lực lượng tham
gia quản lý và thực hiện công tác giáo dục; kiểm tra, đánh kết quả
hoạt động giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Chính vì thế khi nói đến việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một trường hay
một cơ sở giáo dục, một trong những nội dung quan trọng là các biện pháp QLGD. Đã có nhiều
đề tài nghiên cứu về các biện pháp quản lý nhằm n
âng cao chất lượng đào tạo trong các cơ sở đào
tạo. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, vấn đề sử dụng các biện pháp QLGD hiệu quả để nâng
cao chất lượng đào tạo ở trong nhà trường và trong các cơ sở giáo dục đã đư
ợc nhiều học giả
quan tâm đến. Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề
nâng cao chất lượng đào tạo. Các công trình nghiên cứu, các bài báo thường tập trung vào 3
khuynh hướng chính sau:
- Khuynh hướng thứ nhất: Về thực trạng công tác QLGD:
+ Đề tài “Thực trạng công tác quản lý đào tạo tại khoa Ngoại ngữ trường Cao đẳng Sư
phạm TP.HCM và một số giải phá
p” của thạc sĩ Lê Văn Việt.
+ Đề tài "Thực trạng và biện pháp quản lý chuyên môn của Hiệu trưởng trường THPT
miền núi Thanh Hóa nhằm nâng cao kết quả dạy - học" của thạc sĩ Lương Hữu Hồng (1999).
+ Đề tài "Biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của Hiệu trưởng ở các trường THPT
thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà Tây" của thạc sĩ Nguyễn Sỹ Khiêm
(2002).
+ Đề tài "Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng các trường THPT thành phố Thái
Nguyên" của thạc sĩ Trần Thị Minh Nguyệt (2002).
+ Đề tài “Chất lượng đào tạo cán bộ của trường chính trị Tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn
hiện nay” của thạc sĩ Võ Văn Lực (2000).
- Khuynh hướng thứ hai: Về các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ:
+ Đề tài “Một số giải pháp xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở
trường Cao đẳng Hải quan” của thạc sĩ Lê Diệu Hiền.
+ Đề tà
i “Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy của nữ cán
bộ giảng dạy trường ĐH Sư phạm TP.HCM” của thạc sĩ Tôn Thúy Hằng.
- Khuynh hướng thứ ba: Về các biện pháp giáo dục phối hợp:
+ Đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLGD huyện Thuận An, tỉnh Bình
Dương” của thạc sĩ Nguyễn Thị Hà.
+ Đề tà
i “Xây dựng quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhằm nâng cao kết quả giáo dục
đạo đức cho học sinh” của thạc sĩ Thiều Thị Hường.
+ Đề tài “Một số giải pháp phối hợp giữa Hiệu trưởng và Ban chấp hành Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường THPT tỉnh Bình Phước” của
thạc sĩ Lê Hồng Quảng (2003)
Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về việc đào tạo đội ngũ CBĐ (có các
cuộc hội thảo, tọa đàm
… về bồi dưỡng, đào tạo CBĐ – Hội – Đội nhưng chưa đúc kết thành đề
tài NCKH cụ thể) và chưa có đề tài nào nghiên cứu về thực tế hoạt động của Trường Đoàn Lý
Tự Trọng.
1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn nói riêng
Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngay
lúc còn ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1924 - 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung thời
gian mở những lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ, đào tạo họ trở thành những hạt giống chuẩn
bị cho
việc thành lập Đảng. Những lớp học trò do Người giảng dạy về sau này đ trở thành những
cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng. Không chỉ trực tiếp mở lớp đào tạo, Người còn viết thư khẩn
thiết đề nghị Quốc tế cộng sản tích cực giúp đỡ trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt cho
cách mạng Việt Nam, vì Người nhận thấy một thực tế sau ngày thành lập Đảng trong đội ngũ cán
bộ cách mạng tuy có nhiều người dũng cảm, dày dặn thực tiễn nhưng còn yếu về lý luận.
Cho
đến trước lúc đi xa Người còn căn dặn trong Di chúc: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [12, tr.46].
Quán triệt Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, qua các
thời kỳ hoạt động cũng như qua tổng kết lý luận và thực tiễn cách mạng, Đảng ta rút ra được
những kinh nghiệm về xây dựng, đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ. Vấn đề đào tạo cán bộ
trong mọi thời kỳ cách mạng có tầm quan trọng rất lớn. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, y
êu cầu đào tạo cán bộ càng được chú trọng. Đảng ta đã nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của công tác đào tạo cán bộ. Bước vào lãnh đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã khẳng định vai trò tầm quan
trọng của công tác đào tạo cán bộ. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhấn mạnh: “Dành kinh phí
thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ
sở, chú ý kiện toàn và tăng cường đội ngũ cốt cán” [16, tr.520]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2
BCH Trung ương Đảng (Khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong t
hời kỳ
CNH, HĐH (Số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996) coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba BCH Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã coi học tập là công việc không thể thiếu được của
cán bộ, đảng viên, Nghị quyết cho rằng: “Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, đảng
viên. Thực hiện chế độ học tập bắt buộc n
hằm nâng cao trình độ mọi mặt, bảo đảm sự thống
nhất về chính trị và tư tưởng trong toàn đội ngũ cán bộ” [18, tr.89] và “Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công
đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng” [20, tr.66].
Nghị quyết số 25 của Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” nêu rõ: “X
ây
dựng đội ngũ CBĐ, Hội, nhất là cán bộ chuyên trách có phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực,
gương mẫu, có khả năng vận động, đoàn kết, tập hợp thanh niên. Bảo đảm đủ số lượng CBĐ
chuyên trách theo quy định, ít nhất 70% đội ngũ CBĐ chuyên trách trong độ tuổi thanh niên”
[22, tr.6].
Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục được ghi r trong Chiến
lược phát triển giáo dục 2001 – 2010:
“Phát triển giáo dục không chính quy như là một hình
thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người,
ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Tạo cơ hội cho
đông đảo người lao động được tiếp tục học tập, được đào tạo lại, được bồi dưỡng ngắn hạn,
định kỳ và thường xuyên theo các chương trình giáo dục, các chương trình kỹ năng nghề
nghiệp phù hợp với nhu cầu nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập hoặc chuyển đổi nghề
nghiệp. Chú trọng phát triển các chương trình chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo,
quản lý, công chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương [25, tr.15]
.
Văn kiện Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ IX (2007 – 2012) nêu rõ: “Xây dựng
đội ngũ CBĐ đáp ứng yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong giai đoạn
hiện nay là quá trình tạo dựng đội ngũ cán bộ trẻ, giỏi, thực sự là những người bạn, có khả năng
hướng dẫn, tổ chức hoạt động thanh thiếu niên, tư vấn cho thanh niên và đối thoại với thanh
niên” [30, tr.100]
.
Văn kiện Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh TP.HCM lần thứ VII (2001 – 2007) nêu rõ:
“Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng cán bộ theo
hướng gắn liền với tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ; đào tạo theo chức danh, đào tạo cán bộ đặc
thù. Đa dạng hóa hình thức đào tạo để đội ngũ CBĐ có điều kiện học tập nâng cao trình độ
nghiệp vụ” [31, tr.68].
1.3. Lý luận về quản lý hoat động đào tạo, bồi dưỡng
1.3.1. Quản lý
Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động c
hung. Từ khi xã
hội hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng được hình thành. Cùng với sự phát triển
của xã hội loài người, trình độ tổ chức, điều hành cũng được nâng lên và phát triển theo. C.
Mác đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt
động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế
sản xuất... Một người độc tấu vĩ cầm tự m
ình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng” [10, tr.24].
Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức mạnh để đạt được mục
đích chung. Như vậy, trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện một dạng lao động mang tính
đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các hoạt động t
heo những yêu cầu nhất định; dạng
lao động đó được gọi là quản lý.
Thuật ngữ “Quản lý“ (Tiếng Việt gốc Hán) lột tả bản chất của hoạt động này trong thực
tiễn. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “Quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì
ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế “phát
triển”.
Suy cho cùng thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể và đối tượng quản lý trong một
tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đã đề
ra.
Có thể hiểu quản lý là làm cho mọi việc đư
ợc thực hiện.
Xét về tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực thì: quản lý là sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực.
Nếu nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất của quản lý là ra các quyết định thì: quản lý
là đưa ra những quyết định đúng.
Khi con người với tư cách là những cá nhân đơn lẻ không t
hể thực hiện để đạt được
những mục tiêu mà họ đề ra thì họ bắt đầu hình thành các tập thể, nhóm. Quản lý xuất hiện như
một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt tới những mục tiêu chung.
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý theo nhiều góc độ khác nhau:
- “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối
tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”
[9, tr.130].
- “Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó: quản lý được
hiểu là việc bảo đảm hoạt động của hệ thống t
rong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ
thống và môi trường, là chuyển động của hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh
mới” [7, tr.6].
- “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân
biến thành những thành tựu của xã hội” [ 5, tr.15].
- “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp,
sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức
(chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [ 5,
tr.15].
- “Quản lý là: phải biết đào tạo, bồi dưỡng, chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn và phải biết
ủy quyền” [8, tr.5
].
- “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người
quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức” [9, tr.9].
- “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp
hoạt động của họ trong quá trình lao động” [14, tr15].
Dù tiếp cận cách nào cũng cần xem xét bản chất của chức năng lao động đặc biệt này.
Bản chất của hoạt động quản lý là tổ chức, chỉ huy và điều khiển phù hợp quy luật của chủ thể
quản lý nhằm t
hực hiện có hiệu quả những mục tiêu của tổ chức (đơn vị) đã đề ra.
Từ những điểm chung của các định nghĩa trên, có thể hiểu quản lý là tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý (người quản lý) lên khách thể quản lý và đối tượng
quản lý trong một tổ chức nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ
chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức
vận hành (hoạt động) có hiệu quả.
Với định nghĩa trên, quản lý bao gồm các yếu tố sa
u: Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra
các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các
khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ chủ thể quản l
ý. Tác động có thể liên tục nhiều
lần.
Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và khách thể
quản lý. Điều này đòi hỏi phải biết định hướng đúng. Chủ thể quản lý phải thực hành việc tác
động và phải biết tác động. Vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách
có hiệu quả. Chủ thể có thể là một người,
một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người
(một hoặc nhiều người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật.
* Bản chất của hoạt động quản lý:
Từ khi con người biết hợp tác với nhau để tự vệ và mưu sinh thì đ xuất hiện những yếu tố
khách quan, những hoạt động tổ chức, phối hợp, điều hành... để thực hiện mục tiêu
, tạo nên sức
mạnh giúp con người đạt được những mục tiêu cần thiết. Như vậy, trong quá trình vận động, sự
phát triển của xã hội và quản lý không thể tách rời nhau; khi lao động đạt tới một trình độ nhất
định, có sự phân công xã hội thì quản lý như là một c
hức năng, là điều tất yếu khách quan.
Trong một tổ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định hướng, có chủ
đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Những tác động qua lại đó có tác động lan
tỏa. Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị, do
vậy hoạt động quản l
ý mang tính giai cấp rõ rệt.
Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù hợp với quy luật khách
quan thì mới đạt được hiệu quả.
Quản lý được coi là một nghề. Những kỹ năng nghề nghiệp của người quản lý để thực
hiện công việc đòi hỏi mang tính kỹ thuật, thể hiện ở những thao tác nghề nghiệp của người
quản lý.
Hoạt động quản lý vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của hoạt
động quản lý thể hiện những tác động hợp quy luật, hoàn cảnh.
Vậy, hoạt động quản lý vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan vì
được thực hiện
bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp lại vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính khoa
học vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật Nhà nước lại vừa có tính xã hội... Chúng là
những mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó là biện chứng, là bản chất của hoạt động quản
lý.
Quản lý là một hoạt động khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng của xã hội
loài người. Nhờ có quản lý mà có thể tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức (các thành viên
của tổ chức, giữa những người bị quản lý với nhau và giữa những người bị quản lý với người
quản lý), từ đó mới có thể đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất.
Quản lý còn có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức tr
ên cơ sở xác định mục
tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Tổ chức, điều
hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm
đạt mục tiêu quản lý đã xác định. Tạo ra động lực cho hoạt động bằng cách kích thích, đánh gi
á,
khen thưởng, trách phạt, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và tổ
chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả.
1.3.2. Giao dục, đào tạo, bồi dưỡng
1.3.2.1. Giáo dục
Thuật ngữ “giáo dục” được hiểu theo hai mức độ rộng, hẹp khác nhau và tùy nhận thức
của mỗi lĩnh vực khoa học.
Theo nghĩa chung nhất, rộng nhất, “giá
o dục” là dạy dỗ, bảo ban, nuôi nấng, chăm sóc
con người để con người khôn lớn, trưởng thành. Theo nghĩa này, giáo dục diễn ra trong suốt đời
người, và diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau: gia đình, nhà trường, xã hội.
Cũng theo nghĩa rộng, trong khi xã hội học coi giáo dục là quá trình truyền thụ kinh
nghiệm lịch sử, xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước v
ào cuộc sống xã hội, lao
động sản xuất, thì giáo dục học lại coi giáo dục là quá trình hình thành con người dưới ảnh hưởng
của những tác động bởi nhà giáo dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục chuyên biệt nhằm hình
thành con người phát triển toàn diện (có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp…)
Theo nghĩa hẹp, giáo dục học quan niệm, giáo dục là hoạt động chuyên biệt của nhà giáo
dục nhằm bồi dưỡng cho người được giáo dục (học sinh, học viên, sinh viên) những quan niệm,
phẩm chất, tri thức, hiểu biết về thế giới tự nhiên và xã hội loài người.
Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, thì giáo dục là một quá trình trang bị và nâng cao
hiểu biết, tri thức cho người học về thế giới khách quan, khoa học kỹ thuật, về xã hội loài người
và về kỹ năng trong hoạt động lao động, sản xuất. Giáo dục là một quá trì
nh diễn ra liên tục
trong đời sống con người, trong mọi môi trường hoạt động của con người, trong đó môi trường
học đường đóng vai trò quyết định.
Trong mối quan hệ với đào tạo, theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm giáo dục phổ thông
và đào tạo chuyên môn sau phổ thông (tức đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp, đào tạo cao
đẳng, đại học, trên đại học); theo nghĩa hẹp, giáo dục chỉ bó hẹp ở giáo dục phổ thông.
1.3.2.2. Đào tạo
Đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để hình thành chuyên m
ôn, nghề
nghiệp cho người lao động. Đào tạo có nhiều mức độ, nhiều cấp khác nhau tùy theo trình độ tri
thức được trang bị cho người học: đào tạo công nhân kỹ thuật, đào tạo trung học chuyên
nghiệp, đào tạo cao đẳng, đại học, đào tạo t
rên đại học.
1.3.2.3. Bồi dưỡng
Gắn liền với giáo dục, đào tạo là bồi dưỡng. Bồi dưỡng là quá trình cung cấp kiến thức
bổ sung trên cơ sở nền tảng kiến thức đã có. Khi hoàn tất quá trình đào tạo, người học được cấp
bằng tốt nghiệp, còn hoàn tất quá trình bồi dưỡng, người học được cấp giấy chứng nhận (chứng
chỉ) về phần kiến thức bổ sung. Việc bồi dưỡng không m
ang tính đồng loạt mà chỉ giới hạn ở
một số đối tượng nào đó.
1.3.3. Quản lý giáo dục
Như đã phân tích ở trên, có nhiều tác giả đưa ra khái niệm quản lý theo nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Ở tầm vĩ m
ô, nói đến quản lý xã hội thì: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối
tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ,
các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [3, tr.7
].
QLGD là việc đảm bảo sự hoạt động của tổ chức trong điều kiện có sự biến đổi liên tục
của hệ thống giáo dục và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn
cảnh mới.
QLGD là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau
trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu giáo dục đã định.
QLGD là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể QLGD đến khách thể quản lý
trong một tổ chức, làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
QLGD là quá trình đạt đến mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục bằng cách vận dụng
các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
* Quản lý giáo dục gồm:
-
Chủ thể quản lý: Bộ máy QLGD các cấp, trong đó vai trò quan trọng là các cán bộ quản
lý, những người điều hành toàn bộ hoạt động giáo dục.
- Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học, người dạy, người học.
- Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy; quan hệ giữa
người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy - người học
; quan hệ giữa giáo giới
- cộng đồng... Các mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động
của nhà trường, của toàn bộ hệ thống giáo dục.
QLGD bao giờ cũng phải được định hướng tới những mục đích, mục tiêu nhất định.
Người quản lý phải trả lời được câu hỏi: Quản lý để làm gì? Đạt đến cái đích nào? Đích phải
đến của từng chặng đường là mục tiêu; đích ở xa hoặc cuối cùng gọi là mục đích. Mục đích
tổng quát của sự nghiệp giáo dục chính là mục đích tổng quát nhất của QLGD. QLGD trong xã
hội ta hiện nay là hướng tới việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ở cấp
độ nhân cách, QLGD là quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách.
Mục tiêu quản lý là trạng thái được xác định trong tương lai của đối tượng quản lý hoặc của một số yếu
tố cấu thành của nó.
Sơ đồ 1.1: Mô hình về quản lý giáo dục
CƠNG CỤ
CHỦ THỂ
QUẢN LÝ GD
ĐỐI TƯỢNG VÀ
KHÁCH THỂ
QUẢN LÝ GD
MỤC
TIU
PHƯƠNG
PHP
Tóm lại: QLGD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách
thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống gi
áo dục đạt được kết quả mong
muốn (mục tiêu) một cách có hiệu quả nhất.
1.3.4. Quản lý nhà trường
Trường học là bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ thống giáo dục quốc
dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm
của nhà trường, mọi hoạt động đa dạng, phức
tạp khác đều hướng vào hoạt động trung tâm này. Do vậy, quản lý trường học thực chất là:
Quản lý hoạt động dạy - học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng t
hái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục.
Quản lý, lãnh đạo nhà trường là quản lý, lãnh đạo hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động
học của học sinh, hoạt động phục vụ việc dạy và việc học của cán bộ, nhân viên trong trường.
Mục tiêu của công tác quản lý nhà trường:
- Bảo đảm kế hoạch phát triển giáo dục:
- Bảo đảm chất lượng và hiệu quả giảng dạy, giáo dục
- Xây dựng đội ngũ giáo viên của trường c
ó đủ phẩm chất, năng lực để đảm bảo giảng
dạy, giáo dục học viên đạt chất lượng cao. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ thích hợp, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ GD-ĐT của nhà trường.
- Từng bước hoàn thiện CSVC-KT phục vụ thiết thực cho giảng dạy và giáo dục.
- Thường xuyên cải tiến công tác quản lý, lãnh đạo nhà trường theo tinh thần dân chủ hóa
nhà trường, tạo hoạt động đồng bộ, có trọng điểm, có hiệu quả các hoạt động dạy học và giáo
dục.
1.3.5. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, bồi dưỡng là cách thức nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý,
điều hành và thực thi nhiệm vụ, công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Nội dung và hình thức
đào tạo, bồi dưỡng phải kết hợp được các yêu cầu vừa nâng cao, cập nhật kiến thức, vừa phục
vụ cho tiêu chuẩn hóa, nghĩa là, kết hợp đào tạo cơ bản, hệ thống với bồi dưỡng kiến thức mới;
kết hợp đào
tạo tập trung, dài hạn với đào tạo, bồi dưỡng tại chức, ngắn hạn; kết hợp đào tạo,
bồi dưỡng theo diện rộng với đào tạo theo địa chỉ, đào tạo theo yêu cầu của từng chức danh mà
cán bộ sẽ đảm
nhiệm; kết hợp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị với nghiệp vụ, kiến thức
quản lý nhà nước và kiến thức về kinh tế…
Quản lý đào tạo, bồi dưỡng là quản lý các hoạt động giảng dạy, NCKH, và các hoạt động
hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng khác. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng là quản lý một hệ thống toàn vẹn
bao gồm các yếu tố: Mục tiêu, nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức, người dạy, người
học, CSVC-KT phục vụ cho người dạy, người học, môi trường GD-ĐT... Quản lý đào tạo, bồi
dưỡng vừa phải làm sao mỗi yếu tố của quản lý đào tạo, bồi dưỡng có được lực tác động đủ
mạnh, lại vừa phải đảm bảo sự vận động nhịp nhàng, hài hòa và thống nhất của toàn bộ quá
trình, không để yếu tố nào vận động yếu làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của quá trình.
Qua những khái niệm quản lý đã nêu ở phần quản lý và quá trình đào tạo, chúng ta có thể
thấy rõ quản lý đào tạo, bồi dưỡng có 2 chức năng sau:
- Duy trì, ổn định quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm đảm bảo chất lượng, sản phẩm đào
tạo đạt được các chuẩn mực đã xác định trước.
- Đổi mới, phát triển quá trình đào tạo, bồi dưỡng, đón đầu xu hướng phát triển kinh tế –
xã hội.
Để thực hiện những chức năng trên, cơ sở quản lý, nhà quản lý đào tạo cần:
- Phân tích thông tin, nắm được xu hướng phát triển xác lập chính xác mục tiêu chiến
lược GD-ĐT.
- Xác lập các chuẩn mực, quy trình theo mục tiêu đào tạo, tạo điều kiện và duy trì các cơ
chế thực h
iện các chuẩn mực đã đề ra.
- Đưa mọi hoạt động GD-ĐT vào kế hoạch với mục tiêu, biện pháp, bước đi rõ ràng.
- Hình thành và phát triển tổ chức tương xứng với sứ mệnh, phù hợp với nhiệm vụ chính
trị và thực hiện một quy trình đào tạo thích ứng với khả năng và nguồn lực của mình.
Quản lý q
uá trình đào tạo là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố, có mối liên hệ tương tác
khá phức tạp. Nội dung quản lý quá trình đào tạo vì thế cũng rất đa dạng và rộng lớn. Có 2 cách
tiếp cận nội dung quản lý đào tạo, bồi dưỡng; đó là: theo chức năng quản lý và theo cơ cấu của
hoạt động quản lý.
1.3.5.1. Theo chức năng quản lý
Chức năng của quản lý là các dạng khác nhau, các hoạt động khác nhau của hoạt động
quản lý thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện mục tiêu
quản lý. Quản lý có các chức năng chính sau:
* Kế hoạch hóa trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng
Một tập thể lao động, trong đó mọi người liên kết với nhau hoạt động thực hiện nhiệm vụ
của tập thể m
ình và của bản thân mình. Nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý là làm thế nào để
mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu của tổ chức. Kế hoạch hóa bao gồm việc xây dựng mục tiêu, chương trình hành động,
xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của
cả hệ thống quản lý và bị quản lý.
* Tổ chức trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng:
Để giúp cho mọi người cùng làm việc với nhau nhằm t
hực hiện có hiệu quả mục tiêu cần
phải xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí công tác, đó
là chức năng tổ chức trong quản lý.
Tổ chức là một khâu trong chu trình quản lý, là một chuỗi hoạt động diễn ra trong một
giai đoạn của quá trình quản lý.
Hoạt động tổ chức trước hết và chủ yếu là xây dựng cơ cấu tổ chức: xác định các bộ phận
cần có, thiết lập mối quan hệ ngang và dọc của các bộ phận, xác định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng bộ phận, xây dựng quy chế hoạt động…
* Điều khiển (chỉ đạo thực hiện) trong quản lý đào tạo, bồi dưỡng:
Chỉ đạo là thể hiện tính tích cực của người chỉ huy trong hoạt động của mình. Đây l
à chức
năng thể hiện năng lực của người quản lý. Sau khi hoạch định kế hoạch và sắp xếp tổ chức, người
cán bộ quản lý phải điều khiển cho hệ thống hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra. Đây là
quá trình sử dụng quyền lực quản lý để tác động đến các đối tượng bị quản lý (con người, các bộ
phận) một cách có chủ đích
nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục tiêu
chung của hệ thống. Người điều khiển hệ thống phải là người có tri thức và kỹ năng ra quyết định và
tổ chức thực hiện quyết định.
Chỉ đạo thực hiện kế hoạch là có sự theo dõi và gi
ám sát công việc để chỉ huy, ra lệnh
cho các bộ phận và các hoạt động của nhà trường diễn ra đúng hướng, đúng kế hoạch, tập hợp
được các lực lượng giáo dục trong một tổ chức và phối hợp tối ưu với nhau.
Chỉ đạo là quá trình liên kết, liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động
viên và hướng dẫn, điều hành họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu
của tổ chức.
Trong khi thực hiện kế hoạch có thể có một số vấn đề chưa phù hợp với thực tiễn cần
phải điều chỉnh cho hợp lý hơn. Người quản lý (Hiệu trưởng) bám
sát hiện trường, phân tích
nhanh chóng các vấn đề thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa, bù đắp, chỉnh lý kế hoạch để
hoạt động giáo dục đạt hiệu quả tối ưu.
Muốn chỉ đạo tốt Hiệu trưởng cần thu thập thông tin chính xác, biết phân tích, xử lý các
nguồn thông tin và đưa ra các quyết định đúng đắn. Điều đó nếu thực hiện tốt sẽ nâng cao uy tín
của người lãnh đạo, còn ngược lại thì sẽ làm
giảm uy tín. Nguồn thu thập thông tin quan trọng
đó là kiểm tra, kiểm kê, thanh tra, đánh giá.
* Kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng:
Kiểm tra là một chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý. Lãnh đạo mà không kiểm
tra thì coi như không lãnh đạo. Theo lý thuyết hệ thống kiểm tra chính là thiết lập mối quan hệ
ngược trong quản lý. Kiểm tra trong quản lý là một nỗ lực có hệ thống nhằm t
hực hiện ba chức
năng: phát hiện, điều chỉnh và khuyến khích. Nhờ có kiểm tra mà người cán bộ quản lý có được
thông tin để đánh giá được thành tựu công việc và uốn nắn, điều chỉnh hoạt động một cách
đúng hướng nhằm đạt mục tiêu.
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoá
n về kết quả của công việc trên
cơ sở những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất
những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công việc.
Các chức năng trên của quản lý đào tạo, bồi dưỡng có mối quan hệ mật thiết trong chu
trình quản lý.
1.3.5.2. Theo cơ cấu hoạt động quản lý
* Quản lý mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng
Nhiệm vụ của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tà
i, góp
phần tạo ra động lực thúc đẩy và điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện CNH, HĐH đất nước
nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn m
inh.
Vậy quản lý mục tiêu giáo dục là quản lý việc đào tạo con người, hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những con người lao động phát
triển toàn diện, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, sức
khỏe, học vấn và nghề nghiệp, có ý thức cộng đồng, năng động và sáng tạo, có ý thức giữ gì
n
và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại, có tính tổ chức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc ngày càng văn minh và
hiện đại và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quản lý mục ti
êu đào tạo, bồi dưỡng là quản lý việc đào tạo, trang bị, nâng cao kiến thức,
năng lực quản lý, điều hành và thực thi cô
ng vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận
tụy phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Quản lý việc thực hiện mục tiêu là tổ chức sao cho các
kế hoạch, nội dung chương trình giảng dạy được thực hiện một cách đầy đủ, đúng nội dung và
thời gian, quán triệt được các yêu cầu của mục tiêu đào
tạo.
* Quản lý nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
Nội dung đào tạo,
bồi dưỡng phải cơ bản, thiết thực, hiện đại, toàn diện; phù hợp với sự
phát triển về tâm sinh lý của người học; đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng nhân tố con người phục vụ
phát triển kinh tế – xã
hội và tiến bộ khoa học – công nghệ. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải
được cụ thể hóa thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng, giáo trình phù hợp với mục tiêu của từng
bậc học. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng phải phù hợp với đối tượng
và có mục tiêu cụ thể. Nội dung chương trình, khối lượng kiến thức, thời g
ian đào tạo, bồi dưỡng
đối với các đối tượng áp dụng được xác định căn cứ vào chức danh, nhiệm vụ và tiêu chuẩn quy
định về trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của đối tượng đào tạo, bồi dưỡng.
Chương trình dạy học là văn bản quy định mục tiêu cụ thể, cấu trúc nội dung, chuẩn kiến
thức, kỹ năng, phương pháp giáo dục của các môn học, ngành nghề đào
tạo ở mỗi cấp học, bậc
học. Chương trình dạy học phải phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng bậc học. Giáo trình đào
tạo bồi dưỡng dùng trong trường học là tài liệu được Hiệu trưởng duyệt trên cơ sở thẩm định
của Hội đồng chuyên môn, Hội đồng khoa học có thẩm quyền để sử dụng chính t
hức trong việc
giảng dạy và học tập.
Quản lý nội dung đào tạo, bồi dưỡng là quản lý việc lập kế hoạch đào tạo và nội dung
chương trình giảng dạy.
* Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý tổ chức đào tạo, quản lý hoạt động dạy học là quản lý quá trình dạy của giáo
viên và quá trình học của học viên. Đây là hai quá trình gắn bó hữu cơ. Quá trình dạy và học là
tập hợp những hành động liên tiếp của giáo viên và của học viên được giáo vi
ên hướng dẫn.
Những hành động này nhằm làm cho học viên tự giác nắm vững hệ thống kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo và trong quá trình đó phát triển năng lực nhận thức, nắm được các yếu tố của văn hóa
lao động trí óc và chân tay, hình thành cơ sở của những thế giới quan đúng đắn.
Hành động quản lý (điều khiển hoạt động dạy và học) của Hiệu trưởng, của cán bộ quản
lý các đơn vị đào tạo chủ yếu tập trung vào hoạt động dạy của thầy, và là trực tiếp với thầy,
gián tiếp với trò; thông qua hoạt động dạy của thầy, quản lý hoạt động của trò.
- Quản lý hoạt đong dạy của giáo viên
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên trước hết là quản lý việc thực hiện chương t
rình đào
tạo, bồi dưỡng, tức là quản lý việc thực hiện kế hoạch đào tạo theo mục tiêu đào tạo của trường.
Hiệu trưởng, cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo điều khiển hoạt động dạy và học theo chương
trình. Do đó, việc nắm vững chương trình đào tạo, bồi dưỡng là một tiền đề đảm bảo cho hiệu
quả quản lý dạy và học. Về lý thuyết, Hiệu trưởng hay cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo càng
nắm vững, nắm chắc, nắm s
âu, nắm rộng chương trình đào tạo càng tốt. Tuy nhiên, trong thực
tế điều này chưa có được. Do đó, chỉ yêu cầu Hiệu trưởng, cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo
nắm vững chương trình ở mức độ giới hạn cần thiết như: những nguyê
n tắc cấu tạo chương
trình dạy học của từng hệ đào tạo, bồi dưỡng; những nguyên tắc cấu tạo chương trình dạy học
môn học, nội dung phạm vi kiến thức của từng môn học; phương pháp dạy học đặc trưng của
từng m
ôn học; kế hoạch dạy học từng môn học…
Quản lý việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên là quản lý việc dạy đúng và
đủ chương trình đã quy định. Thực hiện yêu cầu này, người Hiệu trưởng, cán bộ quản lý đơn vị
đào tạo cần:
+ Yêu cầu giáo viên lập kế hoạch giảng dạy môn học. Đây là kế hoạch chủ yếu của giáo
viên và phải được trao đổi trong tổ chuyên m
ôn.
+ Bảo đảm thời gian quy định cho chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
+ Hiệu trưởng, Hiệu phó hay cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo phải theo dõi việc thực
hiện chương trình hàng tuần, hàng tháng, từng học kỳ của giáo viên.
+ Sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho việc theo dõi: biểu bảng, sổ sách, phiếu báo giảng
bài, sổ dự giờ, lịch kiểm t
ra học tập, sổ ghi đầu bài…
- Quản lý việc soạn bài, việc chuẩn bị lên lớp
Soạn bài và việc chuẩn bị lên lớp của giáo viên là rất quan trọng trong quá trình dạy học,
vì vậy, để quản lý tốt việc này, cần:
+ Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch soạn bài
+ Chỉ đạo tổ chuyên môn tổ chức trao đổi phương hướng giảng dạy từng bài, những bài
khó, những tư liệu mới cần bổ sung và
o bài giảng, những điều kiện CSVC-KT cần cho bài
giảng.
+ Cố gắng xây dựng tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp cho từng loại bài học đối với từng
môn học. Đây là công trình chung của tập thể sư phạm nhà trường, nhất là tổ chuyên môn. Có
tiêu chuẩn cụ thể, vừa giúp cho việc đánh giá giờ học, vừa giúp cho việc nâng cao tay nghề giáo
viên.
+ Để góp phần nâng cao trình độ chuyên môn của giáo viên, Hiệu trưởng hay cán bộ
quản lý các đơn vị đào tạo cần chỉ đạo việc tổ chức các chuyên đề về giờ lên lớp.
+ Tổ chức và hướng dẫn học viên học tập cũng nằm trong công tác chỉ đạo của Hiệu
trưởng. Thực chất đây là nhiệm vụ của gi
áo viên bộ môn, song rất cần có sự quan tâm chỉ đạo
của Hiệu trưởng để đảm bảo có sự hiệp đồng thống nhất trong các giáo viên. Hiệu trưởng cần
kết hợp với các đoàn thể trong trường như Công đoàn, Đoàn thanh niên nhằm tạo phong trào
quần chúng rộng rãi trong nhà trường.
- Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên
Hiệu trưởng hay cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo cần phải nắm được tình hình của giáo
viên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh với những nội dung sau:
+ Có lịch kiểm tra hàng tháng và cả học kỳ.
+ Thực hiện đúng chế độ kiểm tra, cho điểm theo quy định.
+ Chấm và trả bài đúng thời hạn.
+ Báo cáo tình hình kiểm tra theo quy định của nhà trường.
- Quản lý hoạt động học tập của học viên
Thông qua giáo viên, Hiệu trưởng hay cán bộ quản lý các đơn vị đào tạo quản lý hoạt
động học tập của học viên. Hoạt động đó xảy ra ở lớp, ngoài lớp, ngoài trường… và được thể
hiện qua nhiều hình thức: học trên lớp, thực hành, lao động, tự học ở nhà…
Hoạt động học tập là quá trì
nh hoạt động tự giác, tích cực của học viên nhằm lĩnh hội tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ, thể chất và hình thành nhân cách của bản thân. Như
vậy, học tập là nhằm biến đổi những yêu cầu của xã hội thành những phẩm chất và năng lực
của cá nhân. Học tập là một hình thức cá thể muốn đạt được kết quả trước hết phải phát huy va
i
trò chủ thể của học viên.
Tính tự giác của học viên phải dựa trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục đích và nhiệm vụ
học tập. Tính tích cực là thước đo trình độ tự giác của học viên, được biểu hiện ở sự say mê
hứng thú học tập, tinh thần chịu khó miệt mài, khắc phục khó khăn để tìm kiếm tri thức, nỗ lực
rèn luyện nhằm nắm vững kỹ năng, kỹ xảo. Tính chủ động học tập là
phát huy vai trò năng
động của học viên tự mình làm chủ đối với việc học tập của mình.
Quản lý hoạt động học tập của học viên là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập,
nghiên cứu, rèn luyện của học viên, nhằm nắm bắt các biểu hiện tích cực và tiêu cực trong việc
thực hiện các nhiệm vụ học tập cũng như những biến đổi về nhân cách của học vi
ên; thúc đẩy
và khuyến khích học viên phát huy yếu tố tích cực vươn lên đạt hiệu quả cao trong học tập.
Để giúp cho hoạt động học tập của học viên được tốt, Hiệu trưởng hay cán bộ quản lý
các đơn vị đào tạo cần chú ý:
+ Cần cho học viên nắm rõ mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.
+ Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập đúng đắn trong học viên.
+ Xây dựng và thực hiện nề nếp học tập.
+ Áp dụng các hình thức động viên khuyến khích học viên học tập
+ Phối hợp và chỉ đạo các lực lượng trong xã hội cũng như các cán bộ giáo viên, giảng
viên trong nhà trường để giáo dục và quản lý học viên. Thường xuyên xây dựng mối quan hệ
giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
* Quản lý đội ngũ gi
áo viên
Đội ngũ giáo viên với tiềm lực và khả năng của mỗi trường sẽ quyết định chất lượng đào
tạo của trường đó. Trước yêu cầu đổi mới mục ti
êu đào tạo, đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp giảng dạy, những yếu kém của đội ngũ giáo viên càng trầm trọng. Đã xuất hiện sự
bất cập về trình độ học vấn và năng lực của đa số giáo viên, sự hụt hẫng về số lượng, nhất là
thiếu nhiều cán bộ kế cận, đầu đàn của các bộ m
ôn. Sự khống chế về chỉ tiêu biên chế lao động
của mỗi trường vẫn là cản trở cho việc bổ sung vào đội ngũ giáo viên những sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi sau khi ra trường.
Để quản lý đội ngũ giáo viên có hiệu quả, cần phải duy trì, quyết tâm thực hiện chủ
trương tích cực bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên. Hiện nay, nhiều trường đã phấn
đấu thực hiện chuẩn hóa giáo viên, và đề ra chỉ tiêu phấn đấu tin học hóa, ngoại ngữ hóa, và cao
học hóa. Việc sắp xếp cán bộ giảng dạy theo chức danh (giáo viên chính, trợ giảng…) cũng tạo
ra động lực kích thích sự phấn đấu vươn lên của đội ngũ giáo viên: về cập nhật kiến thức nâng
cao trình độ, về bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, về học tập trau dồi kiến thức ngoại ngữ…
Để quản lý tốt đội ngũ giáo vi
ên, cần phải có chính sách chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần của đội ngũ giáo viên, tôn vinh nghề dạy học và các giáo viên dạy giỏi, nhà giáo nhân
dân, nhà giáo ưu tú,
Thực hiện chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần đối với giáo viên, khuyến khích
người giỏi làm nghề dạy học. Kết hợp đào tạo giáo viên mới và bồi dưỡng thường xuyên những
giáo viên đang giảng dạy.
* Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cưu thực tiễn của giáo viên
Nhiệm vụ chủ yếu của các trường là giảng dạy và NCKH, hai nhiệm vụ này có tác động
tương hỗ cho nhau và cùng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo. Có thể nói rằng không
thể có chất lượng đào tạo nếu không tăng cường NCKH (NCKH là đòn bẩy, là động lực để
nâng cao chất lượng đào tạo). Chính vì vậy, nhà trường cần phải tạo những điều kiện cho giáo
viên và học viên được rèn luyện và phát triển tư duy sáng tạo.
Với ý nghĩa chung thì NCKH là hoạt động nhận thức thế giới khách quan, đó là quá trình
sáng tạo, phát hiện chân lý, phát hiện những quy luật của thế giới, nhằm vận dụng những hiểu
biết ấy vào cuộc sống. Mục đích của NCKH là tìm
tòi, khám phá bản chất và các qui luật vận
động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất vật chất hay tạo ra
những giá trị tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống con người. NCKH không chỉ là nhận
thức thế giới mà còn cải tạo thế giới, khoa học đích thực luôn vì cuộc sống của con người.
Cuộc cách mạng công nghệ thông ti
n, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh
mẽ làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của cuộc sống. Giáo dục càng được khẳng định là chìa khóa
để mở cửa tiến vào tương lai, nguồn lực con người là tài sản quý báu nhất của xã hội, của đất
nước, là động lực của sự phát triển thì sự nghiệp và vai trò của nhà giáo cũng được đặt trước
những t
hách thức và áp lực lớn. Nhà giáo phải trực tiếp đối diện với xã hội thông tin đầy biến
động. Muốn đào tạo được những người công dân tương lai có khả năng thích ứng và sáng tạo
để tham gia cuộc sống xã hội, thì trước hết đòi hỏi bản thân nhà giáo phải biết tự thích ứng và
có khả năng sáng tạo, để tránh sự tụt hậu, người thầy giáo phải luôn tự đổi mới m
ình. Con
đường, phương tiện tối ưu để nhà giáo thích ứng và sáng tạo, tự đổi mới chính bản thân mình,
để có tay nghề vững vàng, để có thể tham gia một cách có hiệu quả vào cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, đó là con đường tự học, tự NCKH. Nếu thiếu ý thức học tập và kỹ năng NCKH,
người thầy giáo sẽ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục học viên trong điều
kiện xã hội thông t
in đầy biến động. Hiệu quả giáo dục của nhà trường cũng chẳng đi đến đâu
nếu như chỉ học mà không đi đôi với hành (lý thuyết suông), "hành” trong lao động sáng tạo có
phần chủ yếu là NCKH. Đặc trưng của lao động sư phạm đòi hỏi người thầy phải thường xuyên
nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học,... cho phù hợp với đối tượng
và với thực tiễn giáo dục, kết quả nghiên cứu sẽ làm
giàu thêm nguồn tri thức và kinh nghiệm
giáo dục của người thầy.
Giảng dạy và NCKH là hai hoạt động cơ bản của người giáo viên trong trường. Người
giáo viên không chỉ có nhiệm vụ dạy học, trang bị kiến thức và phương pháp luận khoa học cho
học viên mà còn có nhiệm vụ trực tiếp tham
gia vào các hoạt động NCKH và hướng dẫn học viên
NCKH.
Quản lý hoạt động NCKH là một bộ phận của QLGD nói chung, một nội dung của công
tác quản lý nhà trường. Quản lý hoạt động NCKH là những tác động có mục đích của chủ thể
quản lý đến hoạt động NCKH nhằm đem lại hiệu quả thiết thực, phù hợp với nhiệm vụ và mục
đích đào tạo. Trong những điều kiện tác động đến hoạt động NCKH của giáo viên, cơ chế quản
lý của nhà trường có vai trò rất quan trọng. Cơ chế quản lý thể hiện ở những quy định của Bộ
GD-ĐT về hoạt động NCKH của giáo viên, mọi chủ trương chính sách của Nhà nước,... được
thể hiện qua việc thực hiện của nhà trường. Sự linh hoạt hay trì trệ trong hoạt động của bộ máy
quản lý sẽ dẫn đến sự thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động NCKH
của giáo viên.
Nội dung quản lý hoạt động NCKH, nghiên cứu thực tiễn của giáo viên chủ yếu như sau:
+ Quản lý kế hoạch NCKH của giáo viên: Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo, nhà
trường xác định phương hướng, mục tiêu NCKH của đơn vị mình. Đồng thời phải xem xét điều
kiện về nguồn lực hiện có của trường (đội ngũ giáo viên, CSVC-KT, kinh phí,...) đảm bảo cho
hoạt động NCKH
có hiệu quả cao. Muốn vậy, chủ thể quản lý cần xác định nội dung và biện
pháp cụ thể để từng bước thực hiện mục tiêu NCKH của trường.
+ Quản lý việc tổ chức triển khai kế hoạch NCKH: Kế hoạch NCKH phải được hiện thực
hóa thông qua việc tổ chức, triển khai. Tổ chức, triển khai kế hoạch NCKH bao gồm việc xây
dựng bộ máy quản lý hợp lý, ban hành Quy chế hoạt động của bộ máy quản lý, quy định rõ
chức năng của các bộ phận trong trường có liên quan đến hoạt động NCKH và mối quan hệ
công tác giữa các đơn vị trong trường tham gia quản lý (các Phòng, các Khoa, các Tổ bộ
môn...). Điều phối có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, tạo sự phối
hợp đồng bộ, thống nhất trong hoạt động của bộ m
áy quản lý nhằm đạt được mục tiêu NCKH
đã•đề ra.
+ Quản lý việc thực hiện chỉ đạo hoạt động NCKH trong giáo viên: Chỉ đạo hoạt động
NCKH bao gồm việc liên kết, tập hợp, hướng dẫn, điều hành, tác động đến các cá nhân, các
đơn vị tham gia quản lý (các tổ chức đoàn thể, các phòng, khoa, tổ bộ môn…) và giáo viên là
người trực tiếp thực hiện hoạt động NCKH. Công tác chỉ đạo không chỉ được thực hiện sau quá
trình lập kế hoạch và thiết kế bộ m
áy quản lý mà còn phải theo dõi, giám sát và tạo điều kiện
giúp đỡ, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình NCKH.
+ Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả NCKH của giáo viên. Kiểm tra, đánh giá sẽ
giúp cho giáo viên hệ thống, khái quát hóa những tri thức đã có, giúp phát triển tư duy và trí
nhớ, nâng cao tinh thần trách nhiệm của m
ình với hoạt động NCKH. Như vậy, việc quản lý,
theo dõi, chỉ đạo đánh giá kết quả NCKH của giáo viên là không thể thiếu được. Tuy nhiên, đây
là công việc khó khăn, đòi hỏi người quản lý phải kết hợp nhiều yếu tố, nhiều hình thức mềm
dẻo và linh hoạt thì mới đánh giá đúng, chính xác kết quả nghiên cứu của họ.
* Quản lý cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, bồi dưỡng
CSVC-KT trường học là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật khác nhau được
sử dụng để phục vụ việc giáo dục trong nhà trường. CSVC-KT phục vụ cho việc dạy và học
bao gồm
nhiều loại như: phòng học, lớp học, bàn ghế, bảng, cơ sở thực hành, dụng cụ thí
nghiệm và các trang thiết bị kỹ thuật, sách báo tư liệu, đồ dùng dạy học… Đổi mới để mỗi
phòng học trở thành một môi trường học tập thuận lợi là bộ phận khởi đầu của quá trình chuẩn
hóa CSVC-KT ở các trường học.
CSVC-KT là một trong những điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình giáo dục. Th
iếu
điều kiện này thì quá trình đó không diễn ra hoặc diễn ra không toàn vẹn. Hiệu trưởng phải coi
CSVC-KT là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo hiệu quả việc dạy học. CSVC-KT là nội
dung, phương tiện chuyển tải thông tin, giúp giáo viên tổ chức v
à điều khiển hoạt động nhận
thức của học sinh từ đó giúp học sinh hứng thú học tập, hình thành phương pháp học tập chủ
động, tích cực. Người Hiệu trưởng phải có những biện pháp thích hợp để quản lý cũng như phát
triển CSVC-KT đáp ứng cho việc nâng cao chất lượng dạy học.
Tổ chức quản lý hệ thống CSVC-KT trường học bao gồm các khâu:
- Tổ chức xây dựng CSVC-KT trường học đáp ứng các yêu cầu của quá trình dạy học v
à
giáo dục.
- Tổ chức sử dụng CSVC-KT vào quá trình dạy học và giáo dục.
- Tổ chức bảo quản hệ thống CSVC-KT trường học.
Cơ cấu quản lý hệ thống CSVC-KT trường học bao gồm:
- Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chung, thông qua các Hiệu phó, lập kế hoạch về xây dựng,
trang bị, sử dụng và bảo quản hệ thống CSVC-KT trường học trong phạm vi to
àn trường; tổ chức
thực hiện kế hoạch và kiểm tra kết quả.
- Phó Hiệu trưởng giúp Hiệu trưởng trực tiếp quản lý một mặt nào đó trong hệ thống
CSVC-KT trường học, lập kế hoạch về xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, sửa chữa hệ thống
CSVC-KT trường học thuộc bộ phận mình quản lý...
- Mỗi đơn vị trong hệ thống CSVC-KT trường học có
một cán bộ phụ trách, chịu trách
nhiệm quản lý và bảo quản.
- Hiệu trưởng cần có nhiều biện pháp để tổ chức, quản lý và động viên thi đua để nâng cao
hiệu quả sử dụng hệ thống CSVC-KT trường học, như:
+ Yêu cầu các giáo viên sử dụng hệ thống CSVC-KT trường học vào quá trình dạy học
và giáo dục;
+ Phát động thi đua sử dụng hệ thống CSVC-KT trường học, kết hợp với các phương
pháp dạy học tiên tiến, hiện đại;
+ Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ thuật sử dụng hệ thống CSVC-
KT trường học cho giáo viên qua nhiều hình thức;
+ Xây dựng những quy trình sử dụng hệ thống C
SVC-KT trường học và yêu cầu mọi
người phải thực hiện.
- Hiệu trưởng cần đưa ra quy chế sử dụng hệ thống CSVC-KT trường học, và cần phải xử
phạt những ai không theo đúng quy định.
- Hiệu trưởng cần nắm các thông tin phản hồi từ các báo cáo định kỳ hay đột xuất của các
cán bộ trong cơ cấu quản lý, kiểm tra sổ sách, dự giờ lên lớp và các hoạt động ngoài giờ học,
phỏng vấn học sinh và giáo vi
ên, trực tiếp kiểm tra hệ thống CSVC-KT trường học thường
xuyên và giám sát việc kiểm kê tài sản định kỳ.
Hệ thống CSVC-KT trường học cần phải được thường xuyên đổi mới và hoàn thiện trong
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, cần phải có ý thức sử dụng tích cực
hệ thống CSVC-KT trường học vào quá trình giáo dục học sinh.
Hiệu trưởng phải chỉ đạo bộ phận có trách nhiệm t
hường xuyên nắm vững tình hình số
lượng tình trạng cơ sở vật chất, thiết bị mà nhà trường có. Trường phải có mục lục tài sản từng
khoản cụ thể và mục lục này phải được ghi đầy đủ, kịp thời và thường xuyên cập nhật mỗi khi có
sự thêm bớt.
Hằng năm, Hiệu trưởng chỉ đạo t
iến hành kiểm kê vào một thời điểm nhất định. Sau mỗi
lần kiểm kê phải xác nhận rõ thực trạng từng loại. Xây dựng nội quy bảo quản, sử dụng đối với
từng loại cơ sở vật chất. Quy định rõ trách nhiệm của từng người với tài sản mà họ phụ trách
hoặc mượn. Mỗi khi có hư hỏng, mất m
át phải quy rõ trách nhiệm và xử lý minh bạch.
Hằng năm, nhà trường tiến hành kịp thời những yêu cầu bổ sung, sửa chữa thay thế
những thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết.
* Quản lý các mối quan hệ giữa nhà trường và các đối tác:
Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau
thực hiện một công việc chung. Khi nói: Hiệu trưởng phối hợp với các lực lượng giáo dục là ta
nói đến hoạt động của Hiệu trưởng, của nhà trường trong việc tổ chức các lực lượng xã
hội thực