ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HOÀN THIỆN THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦATỔ
CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ (NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP CƠ SỞ NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN
KHAI CÓ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số: 60.34.70
Khóa: 2007 - 2010
Người thực hiện: Trần Ngọc Hoa
Hướng dẫn khoa học: TS. Mai Hà
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRẦN NGỌC HOA
HOÀN THIỆN THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦATỔ
CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ (NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP CƠ SỞ NGHIÊN CỨU TRIỂN
KHAI CÓ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số: 60.34.70
Khóa: 2007 - 2010
HÀ NỘI - 2010
5
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1
PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. Sự cần thiết của nghiên cứu 2
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Phạm vi nghiên cứu, mẫu khảo sát 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
6. Câu hỏi nghiên cứu 6
7. Giả thuyết nghiên cứu……………………….………………………… 6
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết 7
9. Đóng góp của luận văn 7
10. Bố cục của Luận văn 7
Chương 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦA TỔ CHỨC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU TRIỂNKHAI CÓ
SỬ DỤNG NGÂN SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC 8
1.1 Một số khái niệm cơ bản 9
1.1.1. Thiết chế 9
1.1.2. Tự chủ…………… …………………………………………………9
1.1.3. Tự chủ trong hoạt động KHCN 10
1.1.4. Thiết chế tự chủ 10
1.1.5. Thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN 10
1.1.6. Hoạt động khoa học và công nghệ 10
1.1.7. Nghiên cứu khoa học…………………… ……………………… 11
1.1.8. Phát triển công nghệ. 11
1.1.9.Triển khai thực nghiệm 11
1.1.10. Sản xuất thử nghiệm. 11
1.1.11. Dịch vụ KHCN 11
1.1.12. Tổ chức KHCN 12
1.1.13. Tổ chức nghiên cứu triển khai 12
1.1.14. Tổ chức nghiên cứu triển khai có sử dụng ngân sách nhà nước
…………………………………………………………………………… 12
1.2. Đặc điểm, vai trò thiết chế tự chủ trong hoạt động KHCN, thiết
chế tự chủ đối với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước 12
5
1.2.1. Đặc thù của hoạt động KHCN 12
1.2.2. Vai trò, yêu cầu đối với thiết chế tự chủ trong hoạt động KHCN 13
1. 3 Tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong nền kinh tế
thị trường 14
1.3.1 Vai trò của tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong nền
kinh tế thị trường 14
1.3.2 Một số vấn đề đặt ra đối với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà
nước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường 16
1.4 Các mặt tự chủ của các tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà
nước 20
1.4.1. Tự chủ về nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu: . 20
1.4.2 Tự chủ về sử dụng nhân lực 21
1.4.3. Tự chủ quản lý tài chính………………… ………………………23
1.4.4 Tự chủ về sở hữu, sử dụng, công bố kết quả nghiên cứu. 23
1.5 Kinh nghiệm tự chủ trong hoạt động R-D của một số nước trên
thế giới 24
1.5.1 Cộng hoà Liên bang Đức 24
1.5.2. Trung Quốc 26
1.5.3 CHLB Nga 29
1.5.4 Hàn Quốc 31
1.6 Đầu tư cho R-D của một số nước trên thế giới 33
1.6.1. Xu hướng đầu tư cho R-D 33
1.6.2 Tỷ lệ đầu tư cho R-D (xem phụ lục I) 35
1.7. Kết luận Chương I……………………………………………………39
Chương 2.THỰC THI THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦA TỔ CHỨC KHCN, TỔ
CHỨC R - D CÓ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 40
2.1. Thực trạng tổ chức KHCN, tổ chức R-D có sử dụng ngân sách
nhà nước 40
2.1.1. Về tổ chức và hoạt động của tổ chức R-D có sử dụng ngân sách
nhà nước 40
2.1.2. Về cơ chế hoạt động 43
2.1.3 Đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN giai đoạn 2000 –
2009 44
2.1.4 Về nguồn nhân lực trong tổ chức KHCN 45
5
2.2 Việc thực thi thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN, tổ chức R-D có
sử dụng ngân sách nhà nước 47
2.2.1. Hành lang pháp lý về thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN, tổ chức
R-D có sử dụng ngân sách nhà nước 47
2.2.2 Việc thực thi các thiết chế tự chủ đối với các tổ chức R-D có sử
dụng ngân sách nhà nước 49
Việc thực hiện thiết chế tự chủ của tổ chức R-D có sử dụng ngân
sách nhà nước trước giai đoạn trước khi ban hành Luật KHCN 49
2.3. Đánh giá việc thực thi thiết chế tự chủ đối với tổ chức R-D có sử
dụng ngân sách nhà nước 63
2.3.1 Những mặt được 63
2.3.2. Một số hạn chế 69
2.4. Phân tích nguyên nhân 71
2.4.1. Nguyên nhân khách quan 71
4.2.2 Nguyên nhân chủ quan 71
2.5 Kết luận Chương 2 74
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦA
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, TỔ CHỨC R-D CÓ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 76
3.1. Định hướng phát triển KHCN 76
3.1.1. Định hướng phát triển 76
3.1.2. Mục tiêu hoạt động KHCN trong giai đoạn 2011- 2015 77
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN,
của tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước 78
3.2.1 Về giải pháp vĩ mô 78
3.2.2 Một số giải pháp cụ thể 83
3.3 Kết luận Chương 3 90
Phần III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 91
1.1 Kết luận 91
1.2. Khuyến nghị 92
1.2.1 Đối với các cơ quan quản lý nhà nước 92
1.2.2 Đối với các tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước 93
1.2.3 Đối với các doanh nghiệp 94
Phần IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ PHỤ LỤC 95
1.1 Tài liệu tham khảo 95
5
2.2 Phụ lục 98
Phụ lục 1: Đầu tư ngân sách cho R-D của một số nước trên thế giới 98
2.2.2 . Phụ lục II: Một số văn bản pháp luật có liên quan quy định về tự
chủ trong hoạt động KHCN 103
2.2.3 Phụ lục III. NIS và kinh nghiệm của một sô nước phát triển trong
thực thi NIS 105
2.2.4. Phụ lục IV: Tiêu chí chất lượng nghiên cứu R-D của một số nước
trên thế giới 131
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1
KHCN
Khoa học và công nghệ
2
R-D
Nghiên cứu triển khai
3
CHLB
Cộng hòa liên bang
4
SX-KD
Sản xuất, kinh doanh
5
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
6
GERD
Đầu tư cho R-D
7
GBAORD
Phân bổ ngân sách của Chính phủ cho R-D
8
KT-XH
Kinh tế - xã hội
9
NIS
Hệ thống đổi mới quốc gia
10
NN-PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
11
IMI
Viện máy và dụng cụ công nghiệp
12
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
13
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
KHCN đóng vai trò quan trọng trong phát triển vào tăng trưởng KT-XH,
quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân. Kinh nghiệm của nhiều nước đã và đang phát triển
cho thấy: đầu tư cho KHCN là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất cho phát
triển của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, cùng với giáo dục, KHCN được Nhà nước coi là quốc sách
hàng đầu, điều này đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001). Do vậy, hoạt động KHCN trong những năm qua đã có
những bước chuyển biến, đạt được một số tiến bộ và kết quả nhất định, đóng
góp đáng kể cho tăng trưởng KT-XH của đất nước.
Nhằm tạo điều kiện cho phát triển hoạt động KHCN của Việt Nam, nhiều
văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển
KHCN đã được Đảng và Nhà nước ban hành như: Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 2 khoá VIII ngày 24 tháng 12 năm 1996 của Ban chấp hành trung ương
Đảng về định hướng chiến lược phát triển KHCN trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 khoá IX (2002); Luật KHCN năm 2000; Chiến lược phát triển KHCN
Việt Nam đến năm 2010 (2003); Luật Sở hữu trí tuệ (2004), Luật Chuyển giao
công nghệ (2005), Luật Công nghệ cao (2008) và nhiều văn bản quan trọng
khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý KHCN cũng đã không
ngừng được ban hành, bổ sung và hoàn thiện nhằm phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong hoạt động KHCN.
Mặc dù KHCN đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể như góp phần tăng
trưởng kinh tế, giữ vững an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường…Tuy nhiên
hoạt động KHCN còn bộc lộ một số hạn chế cơ bản như: "Chưa thực sự gắn kết
3
với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng
dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ KHCN của ta còn thấp nhiều
so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn.
Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân
tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh
nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ KHCN
có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt."
1
Nghiên cứu lịch sử hình thành các tổ chức KHCN ở nước ta trong những
năm qua, chúng ta thấy phần lớn tổ chức KHCN của Việt Nam là do nhà nước
thành lập và quản lý, hoạt động theo chỉ đạo của cơ quan nhà nước là cơ quan
chủ quản vì vậy mà tính năng động, thích ứng với cơ chế thị trường chưa cao,
có thể thấy rõ qua các mặt sau:
- Hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN còn chưa đồng đều; kết quả
nghiên cứu của cơ sở nghiên cứu KHCN tính ứng dụng chưa cao; mức thu nhập
của cán bộ khoa học còn thấp
- Số phát minh, sáng chế đăng ký bản quyền, số công trình nghiên cứu
đăng trên các tạp chí chuyên ngành về khoa học của thế giới và khu vực chưa
nhiều.
- Nhiều tổ chức R-D của Nhà nước còn chưa thích ứng với hoạt động trong
cơ chế thị trường, nguồn kinh phí nghiên cứu chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách
của Nhà nước.
- Hành lang pháp lý về tổ chức và hoạt động của tổ chức KHCN, tổ chức
R-D đã có nhưng việc thực hiện còn gặp nhiều bất cập.
- Các hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng trong đó
nguyên nhân là do cơ chế quản lý KHCN hiện nay chưa phù hợp. Nâng cao tính
tự chủ của tổ chức KHCN nói chung và của cơ sở nghiên cứu triển khai (R-D)
có sử dụng ngân sách nhà nước là vấn đề quan trọng và cấp thiết để các tổ chức
(
1
) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX.
4
này hoạt động có hiệu quả, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, góp phần thiết
thực cho phát triển KT-XH.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức,
ứng phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu và diễn biến bất thường của thời tiết,
biến đổi khí hậu thì vai trò của KHCN hơn bao giờ hết cần phải tiên phong
trong việc giải quyết các vấn đề như dự báo xu hướng phát triển kinh tế; dự báo,
ứng phó với các biến động về thời tiết như biến đổi khí hậu; nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm, hàng hóa, chất lượng cuộc sống người dân…Ở nước ta, các
cơ sở R-D có sử dụng ngân sách nhà nước có thể coi là những hạt nhân nòng
cốt trong hoạt động nghiên cứu KHCN. Do vậy, việc nghiên cứu để các cơ sở
này có môi trường thuận lợi, phát huy tính chủ động, tạo ra nhiều kết quả
nghiên cứu có chất lượng cao, đóng góp thiết thực cho quá trình CNH - HĐH
đất nước là vấn đề hết sức cấp thiết. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều chính
sách lớn như đầu tư cho KHCN, thị trường KHCN, chính sách đào tạo nguồn
nhân lực, chính sách tài chính, năng lực, trình độ KHCN trong nước… Do vậy,
trong khuôn khổ một luận văn cao học, với thời gian có hạn, kinh nghiệm
nghiên cứu còn hạn chế, tác giả chỉ xin tập trung nghiên cứu về “Hoàn thiện
thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN (nghiên cứu trường hợp cơ sở nghiên
cứu triển khai có sử dụng ngân sách nhà nước)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu về tự chủ đối với tổ chức KHCN nói chung và cơ sở R-
D nói riêng đã được nhiều công trình khoa học trong nước nghiên cứu. Có thể
điểm qua một số công trình nghiên cứu quan trọng sau:
- Đề tài cấp bộ về “Phương pháp luận đánh giá hiệu quả hoạt động của
các tổ chức R-D của Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi”, 2002
- Đề tài cấp bộ về “Nghiên cứu luận cứ khoa học cho việc xây dựng các cơ
chế, chính sách về vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R-D”
năm 2002.
5
- Đề tài cấp bộ về “Nghiên cứu sự chuyển đổi một số tổ chức R-D sang
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và sự hình thành và phát triển doanh
nghiệp KHCN ở Việt Nam”, 2005.
- Đề tài cấp bộ về “Nghiên cứu sự phát triển của tổ chức R-D ở một số
nước chọn lọc và Việt Nam”, năm 2007.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
về tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức R-D, điều kiện chuyển đổi tổ chức R-
D sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; về sự phát triển của tổ chức R-D,
kinh nghiệm đổi mới quản lý KHCN của một số nước trên thế giới chưa có
nghiên cứu chuyên sâu việc thực thi tự chủ trong tổ chức KHCN nói chung và
tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng trong điều kiện Việt Nam
hiện nay. Do vậy, trong phạm vi luận văn này, ngoài việc kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các công trình đã nêu trên, luận văn sẽ nghiên cứu về thực thi
thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN, trọng tâm là tổ chức R-D có sử dụng ngân
sách nhà nước và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện thiết chế tự chủ đối
với loại hình tổ chức này ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện thiết chế tự chủ của tổ chức
KHCN, trọng tâm là tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước ở Việt Nam
để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này.
4. Phạm vi nghiên cứu, mẫu khảo sát
Trong phạm vi một luận văn cao học và với khả năng cho phép, tác giả tập
trung nghiên cứu về thiết chế tự chủ đối với tổ chức KHCN, trường hợp cơ sở
R-D có sử dụng ngân sách nhà nước (không bao gồm các tổ chức nghiên cứu cơ
bản, tổ chức giáo dục đào tạo; dịch vụ KHCN và tổ chức R-D khu vực tư nhân);
tự chủ của tổ chức R-D của một số nước như Hàn quốc, Trung Quốc, Đức,
Mỹ) để so sánh tương quan.
Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu thiết chế tự chủ đối với tổ chức
R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong khoảng thời gian 10 năm trở lại
6
đây để thấy được sự chuyển biến cũng như tác động của thiết chế tự chủ đối
với hoạt động của tổ chức này.
Mẫu khảo sát: Các báo cáo của các viện R-D có sử dụng ngân sách nhà
nước, các báo cáo tổng hợp các đề tài, các báo cáo giám sát của Ủy ban Khoa
học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội có liên quan đến nội dung
nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thiết chế tự chủ đối với tổ chức
KHCN, trọng tâm là tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước; kinh nghiệm
xây dựng và thực thi thiết chế tự chủ ở một số nước trên thế giới.
- Việc thực thi thiết chế tự chủ trong các tổ chức KHCN, tổ chức R - D
có sử dụng ngân sách nhà nước.
- Giải pháp hoàn thiện thiết chế tự chủ đối với tổ chức R-D có sử dụng
ngân sách nhà nước.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Giải pháp nào để hoàn thiện thiết chế tự chủ đối với tổ chức KHCN, tổ
chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước?
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Hoàn thiện thiết chế tự chủ đối với tổ chức KHCN, tổ chức R-D có sử
dụng ngân sách nhà nước cần các giải pháp vĩ mô như xây dựng và ban hành
khung chính sách cho KHCN bao gồm hệ thống đổi mới quốc gia (NIS), Chiến
lược KHCN đến 2020; hoàn thiện hệ thống pháp luật về thiết chế tự chủ của tổ
chức KHCN, tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng đồng bộ.
- Hoàn thiện thiết chế tự chủ đối với tổ chức KHCN, tổ chức R-D có sử
dụng ngân sách nhà nước cần có các giải pháp cụ thể trong tổ chức thực hiện về
xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá; về nguồn nhân lực; về cơ chế chính sách
tài chính; về hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về
KHCN…
7
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý thuyết về quản lý KHCN; khoa
học quản lý, lý thuyết về tổ chức.
- Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu từ các tổ chức R-D sử dụng
ngân sách nhà nước có chọn điểm.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu báo cáo của một số cơ quan
quản lý nhà nước, tổ chức KHCN; tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước.
9. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận, Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về thiết
chế tự chủ đối với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong tình hình
hiện nay với mục đích đưa ra cơ sở lý luận nhằm hoàn thiện thiết chế tự chủ đối
với tổ chức này.
- Về mặt thực tiễn, Luận văn đưa ra một số giải pháp có thể ứng dụng để
góp phần hoàn thiện thiết chế tự chủ đối với các tổ chức KHCN, tổ chức R-D có
sử dụng ngân sách nhà nước trong tình hình hiện nay, có thể sử dụng cho việc
sửa đổi hoàn thiện pháp luật tự chủ của hoạt động KHCN trong thời gian tới.
Như vậy, với kết quả đạt được, Luận văn hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện
về phương diện lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện thiết chế tự chủ đối
với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước ở Việt Nam nhằm phát huy
tính chủ động sáng tạo của tổ chức này; đồng thời, góp phần vào việc hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp luật về KHCN.
10. Bố cục của Luận văn
Bố cục Luận văn gồm 3 phần.
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung Luận văn, gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về thiết chế tự chủ của tổ chức
KHCN, tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước.
8
Chương II: Thực thi thiết chế tự của các tổ chức KHCN, tổ chức R-D
có sử dụng ngân sách nhà nước.
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện thiết chế tự chủ của tổ chức
KHCN, tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước
Phần III: Kết luận
Phần IV: Tài liệu tham khảo và phụ lục kèm theo.
Hoàn thành được Luận văn này, tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn khoa học của TS. Mai Hà, Viện trưởng Viện chiến lược chính sách KHCN,
đã giúp tận tình giúp đỡ về phương pháp, tài liệu và kinh nghiệm nghiên cứu.
Tác giả cũng xin cảm ơn Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi
trường của Quốc hội, Lãnh đạo và các đồng nghiệp thuộc Vụ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường - Văn phòng Quốc hội và các bạn Lớp Cao học K12 đã
động viên, giúp đỡ nhiệt tình cho tác giả trong suốt quá trình hoàn thành Luận
văn.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT CHẾ TỰ CHỦ CỦA
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Thiết chế là quy định bắt buộc phải tuân thủ
2
. Thiết chế là khái
niệm chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống giám sát mọi hoạt động của xã
hội. Nhờ các thiết chế mà các quan hệ xã hội kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho
các cộng đồng hoạt động nhịp nhàng.
1.1.2. Tự chủ là tự điều hành, quản lý mọi công việc của minh không bị
ai chi phối
3
.
Tự chủ là việc chủ động, toàn quyền quyết định các vấn đề thuộc về
quyền và nghĩa vụ theo luật định. Ví dụ, tự chủ về tài chính, tự chủ về nguồn
lực. Tự chủ trong tiếng Anh (Autonomy) được hiểu là sự chủ động, tự quyết
định về một số mặt, một số lĩnh vực nào đó.
Tự chủ của tổ chức là quyền tự điều hành các hoạt động
4
. Tự chủ của tổ
chức là được tự minh quyết định các mục tiêu, các ưu tiên và thực hiện các mục
tiêu ưu tiên này nếu tổ đó phục vụ xã hội tốt
5
.
Theo tác giả Berdahl, có 2 loại tự chủ là tự chủ thực sự (substantial
autonomy) và tự chủ về quy trình (proceduce autonomy). Tự chủ thực sự là tự
chủ toàn quyền từ khâu tự định đoạt các hướng nghiên cứu, phát triển, các dịch
vụ mà không cần phải tuân theo các định hướng chiến lược phát triển KT-XH
và KHCN, đến khâu điều hành không có sự can thiệp của các cấp quản lý trong
việc phân bổ, bố trí nguồn lực. Hoạt động của tổ chức này chỉ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật có liên quan như pháp luật lao động, pháp luật tài
chính…Tự chủ thực sự, xét về bản chất và thực tế là thường gắn với các tổ chức
tư nhân, nơi mà quyền sở hữu thuộc về một cá nhân hay một nhóm người thì cá
nhân hay nhóm người này có toàn quyền quyết định phương thức hoạt động và
2
Từ điển tiếng Việt
3
Từ điển tiếng Việt
4
Theo Brooer Group- một tổ chức chuyên nghiên cứu về các vấn đề chính sách ở Thái Lan.
5
Từ điển Bách khoa giáo dục đại học của Thái Lan
10
điều hành của tổ chức mình. Điều này ngược lại với các tổ chức bị chi phối bởi
các hệ quản lý hành chính, với các cấp quản lý hành chính
6
.
Tự chủ về quy trình nghĩa là tự điều hành (self- governance) từ khâu điều
hành kế hoạch hoạt động đến khâu điều hành tài chính, nhân lực và đánh giá tổ
chức.
1.1.3. Tự chủ trong hoạt động KHCN là sự vận dụng những quyền được
giao để thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân cấp nhưng ngoài các nhiệm vụ
này, tổ chức KHCN còn được quyền tự quyết định và tự chịu trách nhiệm để
thực hiện tất cả các nhiệm vụ mà pháp luật không cấm
7
là việc chủ động thực
hiện các nhiệm vụ theo quyền và nghĩa vụ được giao theo luật định và chịu
trách nhiệm về các việc thực hiện.
1.1.4. Thiết chế tự chủ được hiểu là toàn bộ các quy định xác lập về
quyền tự chủ cũng như các điều kiện bảo đảm để cho các quyền này được thực
thi, bao gồm cả vấn đề tổ chức thực hiện, các biện pháp bảo đảm cũng như cơ
chế giám sát
8
.
Khi nói về thiết chế, người ta quan tâm nhiều tới khía cạnh tính đồng bộ
giữa quy định và tổ chức thực hiện và mối quan hệ giữa các yếu tố trong thiết
chế này.
1.1.5. Thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN được hiểu là toàn bộ các quy
định pháp luật về quyền tự chủ của tổ chức này và các yếu tố bảo đảm thực hiện
quyền tự chủ của tổ chức này, như chính sách tài chính đối với hoạt động
nghiên cứu, chính sách về sở hữu trí tuệ, chính sách về tiền, về tài sản
1.1.6. Hoạt động khoa học và công nghệ là các hoạt động có tính hệ
thống, liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra, thúc đẩy, hấp thụ, truyền bá và áp
dụng tri thức KHCN vào cuộc sống.
6
Nguyễn Thị Anh Thư, phụ lục I Báo cáo tổng hợp đề tài “ Nghiên cứu luận cứ cho việc xây dựng các cơ chế
chính sách về vấn đề chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu và phát triển”, Hà Nội, 2002
7
Hoàng Xuân Long, “Nghiên cứu luận cứ cho việc xây dựng các cơ chế , chính sách về vấn đề chủ, tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu và phát triển” Báo cáo tổng hợp đề tài, Hà Nội, 2002
8
Từ điển tiếng Việt.
11
Hoạt động KHCN là hoạt động "bao gồm nghiên cứu khoa học, R-D, dịch
vụ KHCN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất
và các hoạt động khác nhằm phát triển KHCN".
1.1.7. Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp
nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ
bản, nghiên cứu ứng dụng
9
.
1.1.8. Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công
nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm
và sản xuất thử nghiệm
9
.
1.1.9.Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu
khoa học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới
9
.
1.1.10. Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai
thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản
phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống
9
.
Hình 1. Hoạt động KHCN theo UNESCO
FR
AR
D
TT
T
STS
Trong đó:
FR – nghiên cứu cơ bản, tạo ra các lý thuyết.
AR – nghiên cứu ứng dụng, tạo ra các nguyên lý ứng dụng.
D – triển khai, tạo ra các vật mẫu.
TT – chuyển giao tri thức, bao gồm chuyển giao công nghệ.
T – phát triển công nghệ.
STS – dịch vụ KHCN, cung ứng các dịch vụ KHCN
10
.
1.1.11. Dịch vụ KHCN là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu KHCN;
các hoạt động liên quan tới sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ
về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức KHCN và
kinh nghiệm thực tiễn
9
.
9
Điều 3, Luật KHCN
10
Vũ Cao Đàm, Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, 2007
12
1.1.12.Tổ chức KHCN là các tổ chức tham gia hoạt động KHCN bao
gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai (tạo
vật mẫu, tạo quy trình sản xuất vật mẫu, sản xuất thử nghiệm seri 0).
1.1.13. Tổ chức nghiên cứu triển khai là các tổ chức làm công tác
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (gọi tắt là R-D)
9
.
Theo UNESCO thì tổ chức R-D là đơn vị cơ sở trong nền sản xuất
được chuyên môn hóa để thực hiện các hoạt động nghiên cứu KHCN được
triển khai thường xuyên và có tổ chức.
Theo Từ điển Bách khoa (Liên xô cũ), thì tổ chức nghiên cứu phát
triển là cơ quan tiến hành nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ.
1.1.14. Cơ sở nghiên cứu triển khai có sử dụng ngân sách nhà nước
là tổ chức nghiên cứu triển khai do cơ quan nhà nước thành lập, sử dụng một
phần hoặc toàn bộ nguồn kinh phí cho hoạt động R-D, bao gồm tài sản cố
định, kinh phí cho xây dựng cơ bản, cho hoạt động thường xuyên (sau đây
xin gọi là tổ chức nghiên cứu triển khai có sử dụng ngân sách nhà nước)
(*)
1.2. Đặc điểm, vai trò thiết chế tự chủ trong hoạt động KHCN,
thiết chế tự chủ đối với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước
1.2.1. Đặc thù của hoạt động KHCN
11
Hoạt động khoa học là dạng lao động trí tuệ, gồm tổng thể những hoạt
động của con người nhằm tìm hiểu bản chất của sự vật, quy luật diễn biến của
các hiện tượng tự nhiên, xã hội Khi hoạt động này có hệ thống, liên tục thì gọi
là hoạt động nghiên cứu khoa học, mà kết quả của hoạt động này là tạo ra tri
thức khoa học. Nhìn chung, lao động khoa học có các đặc thù như: tính sáng tạo
cao; tính mạo hiểm, rủi ro cao; tính cá thể; tính kế thừa; có độ trễ và khó lượng
hoá.
(*) Lý do: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy dùng cụm từ “tổ chức” được sử dụng thông dụng hơn
cụm từ “cơ sở” khi đề cập đến hoạt động nghiên cứu triển khai, tránh hiểu lầm cơ sở là cấp dưới.
11
TS. Hồ Đức Việt, Chủ nhiệm đề tài độc lập cấp nhà nước “Nghiên cứu luận cứ khoa học cho các chính sách
và giải pháp xây dựng, phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” 2002.
13
Sản phẩm KHCN có tính đặc thù là tính mới và tính trừu tượng cao (là
sản phẩm trung gian của quá trình vật hoá tri thức).
1.2.2. Vai trò, yêu cầu đối với thiết chế tự chủ trong hoạt động
KHCN
a) Vai trò của thiết chế tự chủ trong hoạt động KHCN
Như đã trình bày ở trên, bản chất của hoạt động KHCN là lao động trí
tuệ, mang tính sáng tạo. Điều này đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý phù hợp
với tính đặc thù của hoạt động KHCN. Thực tiễn cho thấy, tính tự chủ, tự
chịu trách nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát huy tính sáng
tạo của lao động KHCN. Có phát huy được tính tự chủ trong hoạt động
KHCN thì mới phát huy được tính sáng tạo, quyết đoán của người làm khoa
học; khắc phục tình trạng trì trệ trong các tổ chức KHCN hiện nay; tạo ra
những sản phẩm có tính ứng dụng cao, gắn kết KHCN với thị trường.
b) Yêu cầu đối với thiết chế tự chủ trong hoạt động KHCN
- Một là, thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN phải là thiết chế “mở”,
luôn đổi mới để theo kịp sự phát triển KHCN và yêu cầu của người nghiên
cứu.
- Hai là, thiết chế tự chủ của tổ chức KHCN cần được xây dựng trên hệ
tiêu chí mới khác biệt so với chuẩn mực của quản lý hành chính, như: thời
giờ làm việc, chế độ tiền lương; tuyển dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học không
theo ngạch, bậc như đối với công chức mà dựa trên hiệu quả công việc, đóng
góp của kết quả nghiên cứu cho khoa học, cho phát triển KT-XH.
- Ba là, hoạt động KHCN mang tính rủi ro cao nên thiết chế tự chủ cần
có cơ chế để bảo đảm cho các tổ chức KHCN có khả năng huy động vốn một
cách đa dạng, từ nhiều nguồn để thực hiện các nghiên cứu (như cho vay tín
chấp, cơ chế chia sẻ lợi ích trong đầu tư nghiên cứu…).
- Bốn là, hiệu quả hoạt động KHCN, đặc biệt hoạt động nghiên cứu
thường có “độ trễ” nhất định. Vì vậy cần xem xét giá hiệu quả hoạt động
KHCN theo quá trình và tác động tổng thể trên các mặt của KT-XH, trong đó
có cả vấn đề về nhận thức và đầu tư cho KHCN là đầu tư cho phát triển.
14
1.3 Tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong nền kinh tế
thị trường
1.3.1 Vai trò của tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước trong
nền kinh tế thị trường
12
Tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà nước là một loại hình tổ chức
KHCN, do nhà nước thành lập, thuộc sở hữu nhà nước. Sau này, bản thân các
tổ chức này liên doanh liên kết hoặc cổ phần hóa nên có sự chuyển đổi về tỷ
lệ sở hữu của Nhà nước. Sự tồn tại các tổ chức R-D do nhà nước thành lập là
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Điều này xuất phát điểm từ việc
nhận thức tầm quan trọng của KHCN đối với phát triển đất nước, các nhà
nước thể hiện vai trò của mình qua việc thành lập, đầu tư cho các tổ chức R-
D nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ KHCN cho các phục vụ mục tiêu phát
triển.
Nhìn chung, các tổ chức R-D do nhà nước thành lập ở các quốc gia
nhằm thực hiện các nhiệm vụ/mục tiêu nghiên cứu chủ yếu sau:
- Theo định hướng chiến lược phát triển đất nước (chủ yếu là các
nghiên cứu cơ bản) không đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc thu hồi vốn
chậm mà khu vực tư nhân không tham gia;
- Các nhiệm vụ mang lại giá trị kinh tế, ý nghĩa lớn cho cộng đồng đồi
hỏi nguồn vốn lớn, khó huy động từ khu vực tư nhân;
- Các nhiệm vụ ưu tiên: các nhiệm vụ liên quan đến quốc phòng, an
ninh, bí mật quốc gia cần phải quản lý chặt chẽ kết quả nghiên cứu.
- Không thể phủ nhận những kết quả mà các tổ chức R-D do Nhà nước
thành lập mang lại. Thực tế lịch sử đã cho thấy, sức mạnh quân sự của Đức,
Mỹ, sức mạnh kinh tế và quân sự của Liên Xô (trước đây), đã gắn liền với
hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức R-D thuộc nhà nước. Tuy nhiên, với
những diễn biến của tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới trong những thập
12
TS. Bạch Tân Sinh, chủ nhiệm đề tài cấp bộ về “Nghiên cứu sự chuyển đổi một số tổ chức R-D sang
hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và sự hình thành và phát triển doanh nghiệp KHCN ở Việt Nam”
2005.
15
niên vừa qua, hoạt động của loại hình tổ chức này đã và đang bộc lộ nhiều hạn
chế như: hoạt động thiếu hiệu quả, ít gắn với nhu cầu cuộc sống, và trở thành
gánh nặng tài chính đối với nhà nước Ví dụ, ở Trung Quốc, trong thời kỳ
trước cải cách trong khu vực KHCN, hoạt động của các tổ chức R-D ở nước này
là rất kém hiệu quả. Người ta nghi ngờ công việc do các viện nghiên cứu tiến
hành đều không phải là R-D. Kết quả điều tra năm 1986 ở Trung Quốc cho kết
quả là, với các viện nghiên cứu thuộc Trung ương thì hơn 50% chi tiêu không
phải R- D; còn đối với các viện thuộc địa phương cấp quận, huyện thì con số đó
là 80%
13
.
Ở Mỹ, hơn 2/3 phát minh trong thế kỷ XX là của các nhà sáng chế độc
lập và các công ty nhỏ, trong khi đó, phần lớn các nhà bác học lại làm việc
trong những tổ chức lớn, bao gồm cả tổ chức R-D thuộc nhà nước. Hệ thống
phòng thí nghiệm quốc gia ở Mỹ có hai loại, loại giao cho các tổ chức độc lập
và các hãng quản lý theo hợp đồng và loại do chính nhà nước trực tiếp quản lý.
Thực tế cho thấy, loại phòng thí nghiệm quốc gia do Nhà nước trực tiếp quản lý
thì hoạt động ít linh hoạt hơn bởi chịu nhiều hạn chế, ràng buộc bởi các quy
định của Chính phủ. Ở nhiều quốc gia khác, tình hình cũng tương tự. Nguyên
nhân chính của tình trạng này là do sự thiếu tự chủ trong hoạt động của tổ chức
R-D thuộc nhà nước.
Ở Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu thực tế của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, ngay sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), các tổ chức R-D
đã được Nhà nước thành lập, cấp kinh phí và thực hiện các nhiệm vụ do Nhà
nước đặt hàng. Hơn 50 năm hoạt động, KHCN Việt Nam đã đóng góp thiết
thực vào phát triển KT-XH của đất nước trên các mặt, đưa nước ta từ một
nước nghèo đói đến nay đã bảo đảm được an ninh lương thực trong nước và
xuất khẩu nông, lâm thủy sản với kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực này đạt
trên 15,2 tỷ USD/năm (năm 2009); bộ mặt đô thị được cải thiện, chất lượng
cuộc sống người dân được nâng cao (thu nhập bình quân đầu người của Việt
13
Theo Sách trắng KHCN Trung Quốc, 1986
16
Nam hiện nay bình quân xấp xỉ 1.200 USD/người/năm)
14
. Tuy nhiên, việc
đầu tư cho phát triển tiềm lực KHCN của Việt Nam vẫn là ít so với nhu cầu;
chất lượng đầu tư kém hiệu quả, cơ chế và năng lực quản lý KHCN còn yếu.
Mạng lưới tổ chức R-D còn nhiều bất hợp lý về nhiệm vụ, hoạt động còn khép
kín, rời rạc, thiếu liên kết và chưa được đầu tư đủ mạnh để có thể tạo ra hiệu
quả hợp tác; hạ tầng cơ sở KHCN còn yếu kém; chất lượng các kết quả nghiên
cứu nói chung chưa cao, nhiều đề tài và kết quả nghiên cứu còn chưa đáp ứng
đầy đủ những chuẩn mực của các tổ chức KHCN
15
. Do vậy, khi chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ chủ nghĩa, các tổ chức R-
D có sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng đã bộc lộ những khó khăn trong
việc thích ứng và hoạt động kém hiệu quả KHCN. Mặt khác, đội ngũ cán bộ
KHCN trong hệ thống các tổ chức R-D còn hạn chế trong việc cập nhật kiến
thức về khoa học luận và kinh tế thị trường.
1.3.2 Một số vấn đề đặt ra đối với tổ chức R-D có sử dụng ngân sách
nhà nước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
16
Một là, mâu thuẫn nội tại giữa vai trò của Nhà nước và tính độc lập của
tổ chức R-D của Nhà nước.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, các tổ chức R-D được bao cấp về kinh
phí và hoạt động theo kế hoạch, mục tiêu do Nhà nước đặt hàng. Tuy nhiên,
chuyển sang nền kinh tế thị trường, nguồn kinh phí nhà nước dành cho
nghiên cứu bị hạn chế. Bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu Nhà nước giao, các tổ
chức R-D phải tự tìm kiếm các nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm nguồn thu cho
trả lương và hoạt động bộ máy. Điều này đặt ra vấn đề vai trò của Nhà nước
và tính độc lập của tổ chức này trong môi trường hoạt động mới.
Là đơn vị do Nhà nước thành lập nên các tổ chức R-D phải thực hiện
các nhiệm vụ do các cơ quan nhà nước giao trực tiếp. Tuy nhiên, do bản chất
của hoạt động KHCN là hoạt động sáng tạo nên bản thân các tổ chức R-D có
thể “thích” hay “không thích” khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu được cấp
14
Báo cáo KT-XH của Chính phủ năm 2010.
15
TS. Mai Hà, Tạp chí hoạt động KHCN, tháng 1/2007
16
TS. Hoàng Xuân Long, TS Hoàng Xuân Long, chủ nhiệm Đề tài cấp bộ về “Nghiên cứu luận cứ khoa học
cho việc xây dựng các cơ chế, chính sách về vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R-D”, 2002.
17
trên giao, đó là chưa kể đến tính “hàn lâm”, “thiếu thực tế” của nhiệm vụ
được giao. Điều này có thể dẫn đến sự trì trệ trong việc nghiên cứu hoặc tạo
ra những kết quả nghiên cứu không bảo đảm chất lượng, không đáp ứng được
các mục tiêu đề ra. Mặt khác, có tình trạng do phải chủ động tìm kiếm nguồn
kinh phí cho hoạt động của bộ máy mà nhiều tổ chức R-D không “mặn mà”
với các nhiệm vụ được giao cho do kinh phí được giao để thực hiện là quá
thấp.
Hai là, mối quan hệ giữa chủ thể sở hữu và chủ thể sử dụng trong việc
sở hữu kết quả nghiên cứu
17
. Theo Bộ Luật dân sự, quyền sở hữu được hiểu
bao gồm 3 quyền là quyền chiếm giữ, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối
tượng sở hữu. Về bản chất, các tổ chức R-D do nhà nước thành lập thì chủ thể
sở hữu, chủ thể định đoạt là Nhà nước nhưng chủ thể sử dụng lại là các đơn vị
cụ thể. Vậy, vấn đề đặt ra là nâng cao tính tự chủ cho tổ chức R-D đến đâu là
phù hợp, không gây mâu thuẫn với quyền sở hữu ?
Vấn đề tách quyền sử dụng với quyền định đoạt đối tượng sở hữu nhằm
tạo ra sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ thể sử dụng đã từng diễn ra từ khá
lâu ở nhiều nước trên thế giới. Ðã có nhiều học thuyết về vai trò nhà nước trong
nền kinh tế nói chung và trong hoạt động KHCN nói riêng được đưa ra. Mỗi
học thuyết có cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề tự chủ của tổ chức R-D nhà
nước. Theo học thuyết Keynes (John Maynar Keynes, 1884 - 1946), sự tự chủ
của tổ chức R-D có thể thực hiện bằng các đơn đặt hàng của Nhà nước. Theo
thuyết “Nền kinh tế thị trường xã hội”, kế hoạch do các đơn vị nghiên cứu xây
dựng được điều chỉnh bởi pháp luật. Pháp luật có chức năng cơ bản là điều
chỉnh sự chồng chéo về kế hoạch và hỗ trợ mọi đơn vị trong việc thực hiện các
kế hoạch của mình. Mặt khác, hoàn cảnh và các mục tiêu cụ thể đặt ra có ảnh
hưởng khá quyết định tới hình thức tự chủ của tổ chức R-D nhà nước.
Trên thực tế, để khắc phục tình trạng nghiên cứu chồng chéo giữa các
công ty, Chính phủ Nhật Bản đã có chủ trương khuyến khích các nhà khoa học
công tác trong viện nghiên cứu nhà nước và trường đại học cùng tham gia lãnh
17
TS. Hoàng Xuân Long, Sdd, 2002.
18
đạo, tư vấn và giúp đỡ các doanh nghiệp hoặc liên kết nghiên cứu, ứng dụng
KHCN giữa cơ sở nhà nước và doanh nghiệp. Một số quốc gia khác đã có chính
sách tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên R-D
bằng cách cắt giảm nguồn kinh phí được cấp và buộc các đơn vị này phải tự tạo
ra hoặc tìm kiếm những nguồn vốn khác để hoạt động và phát triển. Chính phủ
Pháp cho phép các nhà khoa học trong cơ quan nhà nước trực tiếp tham gia hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Chính phủ Đức đòi hỏi các cơ quan nghiên nhà
nước phải bảo đảm để các nguồn hỗ trợ tư nhân từ bên ngoài tương đương
mức 50%, Chính phủ Úc đòi hỏi các cơ quan nghiên cứu của Nhà nước cũng
phải tự trang trải được 30% kinh phí hoạt động, coi đây là tiêu chí để lượng
hóa được giá trị của kết quả nghiên cứu
18
. Thậm chí, Chính phủ Pháp còn cho
phép cán bộ nghiên cứu thuộc cơ quan nhà nước được thành lập doanh nghiệp
từ công trình nghiên cứu, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, trở thành thành
viên của hội đồng quản trị doanh nghiệp, hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp.
Viện KHCN Hàn Quốc (KIST) - một tổ chức R-D điển hình của Hàn
Quốc, nổi bật ở đặc trưng độc đáo là viện nghiên cứu làm việc theo hợp đồng.
Không chỉ KIST tự chủ trước nhà nước mà mỗi bộ phận (phòng, ban) của nó
đều có thể độc lập lãnh đạo một hệ thống nghiên cứu và tự chịu trách nhiệm về
tất cả các chi phí cần thiết để thực hiện các hoạt động nghiên cứu.
Các nước như Braxin, Mêhicô, Ấn Ðộ và Trung Quốc cũng tích cực đề
cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức R-D theo hướng công ty
hóa. Chẳng hạn, dưới sự giúp đỡ của Ngân hàng thế giới, những tổ chức R-D ở
các nước này đang được cơ cấu lại và trang bị phương tiện để trở thành các
công ty công nghệ thực thụ.
Ba là, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức R-D.
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả hoạt động của tổ chức R-D cần
có cách nhìn nhận, đánh giá khác thay cho việc xác định “hoàn thành nhiệm
vụ được giao” như trong cơ chế bao cấp của nhà nước. Ở một số nước đã ban
hành một hệ tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức R-D. Ví dụ,
18
Trần Chí Đức, Báo cáo tổng hợp đề tài: “Phương pháp đánh giá hoạt động các tổ chức NC-PT của Việt Nam
trong điều kiện kinh tế chuyển đổi”, Hà nội, 3/2002 .
19
ở CHLB Đức, việc đánh giá độ thành công của Viện Fraunhof được xem xét
qua các chỉ tiêu sau:
- Yêu cầu được kiểm soát tài chính: Sự cân đối về kinh phí, các hợp
đồng với doanh nghiệp công nghiệp, quy mô phát triển về tài chính, các loại
hình tài trợ;
- Yêu cầu về chất lượng: Kết quả nghiên cứu được công bố và được
công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng; sự hình thành các tổ chức
thử nghiệm trên hoạt động đổi mới, các loại giải thưởng đã đạt được.
- Yêu cầu về năng lực nghiên cứu: Mức độ tăng của số lượng các ấn
phẩm công bố trên các tạp chí, số lượng ấn phẩm công bố trên một cán bộ
nghiên cứu, số lượng ấn phẩm công bố được trích dẫn, số lượng ấn phẩm
công bố được trích dẫn trên tổng số các ấn phẩm được công bố.
Ở CHLB Nga, tiêu chí đánh giá tổ chức R-D nhấn mạnh vào các khía
cạnh sau:
- Các kết quả nghiên cứu KHCN đã và sẽ đạt được thuộc lĩnh vực ưu
tiên của nhà nước, phù hợp với phương hướng và nhiệm vụ của chính sách R-
D của nhà nước.
- Trình độ R-D của các công trình nghiên cứu cũng như các kết quả đã
đạt được mức độ tương thích và trình độ quốc tế, khu vực.
- Tiềm lực nghiên cứu cứu của cơ quan có đủ năng lực giải quyết các
nhiệm vụ thuộc lĩnh vực nghiên cứu nhằm theo kịp trình độ tiên tiến của khu
vực và quốc tế.
- Tình hình kinh tế - tài chính của tổ chức xét theo khả năng thực hiện
nhiệm vụ với tư cách là cơ quan KHCN quốc gia trong điều kiện kinh tế thị
trường
19
.
1.4 Các mặt tự chủ của các tổ chức R-D có sử dụng ngân sách nhà
nước
20
Nhìn chung, các tổ chức R-D thuộc nhà nước đều có những quy chế hoạt
động được quy định tương đối rõ ràng làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các
19
Trần Chí Đức, Sdd.
20
Luật KHCN, Nghị định 80/2002/NĐ-CP, Nghị định 115/2005/NĐ-CP.