Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thực hiện quản lý nhân lực khoa học và công nghệ trong trường đại học trên quan điểm tự chủ của nhà trường ( Nghiên cứu trường hợp của Đại học Tiền Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 96 trang )

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 5
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU 6
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8
3. Mục tiêu nghiên cứu 10
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 10
5. Phạm vi nghiên cứu 10
6. Vấn đề nghiên cứu 10
7. Giả thuyết nghiên cứu 11
8. Phương pháp nghiên cứu 11
9. Cấu trúc của luận văn 12
PHẦN NỘI DUNG 13
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 13
1.1 Khoa học và nghiên cứu khoa học. 13
1.1.1. Khoa học 13
1.1.2. Nghiên cứu khoa học 15
1.2. Quản lý đề tài nghiên cứu khoa học 18
1.2.1. Đề tài nghiên cứu khoa học 18
1.2.2- Bản chất của quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học 19
1.3. Một số vấn đề cơ bản về quản trị chất lượng và 6 Sigma 20
1.3.1.Quản lý chất lượng. 20
1.3.2.Giới thiệu mô hình Sáu Sigma: 27
Kết luận Chương 1: 39
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ QUY TRÌNH QUẢN LÝ CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC TẠI SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 2006 –
2010 41
2.1. Tổng quan công tác quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ 41
2.1.1. Các chương trình khoa học và công nghệ: 41


2.1.2. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ: 42
2.2. Quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học tại Sở Khoa học và Công nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh 47
2.2.1. Hình thành quy trình 47
2.2.2. Mô tả quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học: 49
2.3. Những thành tựu và hạn chế 55
2.3.1. Thành tựu 55
2.3.2. Hạn chế 59
2.4. Đánh giá về quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học 63

2
2.4.1. Bản chất của quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học hiện nay. 63
2.4.2. Đối tượng thực hiện và chịu sự chi phối của quy trình 65
Kết luận Chương 2 66
CHƯƠNG 3. VẬN DỤNG SÁU SIGMA ĐỂ XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN CỐT LÕI
CỦA HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT CẢI TIẾN QUY TRÌNH QUẢN L Ý CÁC ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TẠI SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ
MINH 68
3.1 Vận dụng hệ phương pháp Sáu sigma 68
3.2. Xác định căn nguyên gây ra dao động của quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu
khoa học. 69
3.2.1. Xác định – D (Define) 69
3.2.2. Đo lường – M (Measure) 71
3.2.3. Phân tích – A (Analyze) 74
3.3. Xử lý căn nguyên gây ra dao động trong quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu
khoa học 76
3.3.1. Cải tiến – I (Improve) 76
3.3.2. Kiểm soát – C (Control) 80
3.3.3. Những yếu tố cần thiết để triển khai thành công 82
Kết luận Chương 3 84

PHẦN KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88











5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GS
Giáo sư
HCM
Hồ Chí Minh
KH&CN
Khoa học và công nghệ
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NXB
Nhà xuất bản
PGS
Phó giáo sư
ThS
Thạc sỹ

TS
Tiến sỹ
Tp
Thành phố
UBND
Ủy ban nhân dân
UNESCO
United Nations Educational Scientific and
Cultural Organization










6
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Hình 1.1: Quá trình hoạt động của một doanh nghiệp 22
Hình 1.2: Mục đích và mục tiêu của quản lý chất lượng 24
Bảng 1.3. Các cấp độ Sigma……………………………………………… 28
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quy trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN 42
Lưu đồ 2.2: Lưu đồ quy trình quản lý các đề tài NCKH 47
Bảng 2.3: Thống kê các Chương trình, đề tài nghiên cứu và dự án triển khai
KH&CN từ năm 2006 - 2010 55
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ so sánh số lượng các đề tài của các Chương trình NCKH

trong vòng 5 năm 60















7
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thời kỳ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này
vì thế, cần được xem xét, nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện nhằm đảm
bảo hiệu quả cao nhất. Về mặt khoa học, cho đến nay chưa có một đề tài, công
trình nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ về công tác quản lý nhà
nước về hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung và quản lý các đề tài
nghiên cứu khoa học nói riêng. Từ góc độ của một người hiện đang tham gia
công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, tác giả nhận thấy cần
xác lập cơ sở lý luận để từ đó xây dựng quy trình quản lý các đề tài nghiên
cứu khoa học nhằm phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động này trong tổng thể

hoạt động nghiên cứu, triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học – công
nghệ vào đời sống xã hội.
Sự phát triển của các lý thuyết về quản lý và các mô hình quản lý là cơ
sở khoa học quan trọng thôi thúc quá trình nghiên cứu ứng dụng vào thực tế
quản lý. Vào đầu những năm 1980, trong nỗ lực nâng cao chất lượng cao nhất
cho các sản phẩm của mình, công ty Motorola của Mỹ đã khởi xướng mô hình
quản lý chặt chẽ các quá trình sản xuất và bắt đầu đưa ra khái niệm 6 Sigma.
Sự thành công của mô hình quản lý này tại Motorola đã tạo nên một phong
trào triển khai rộng rãi tại hàng loạt các công ty hàng đầu như IBM, DEC,
Allied Signal, GE… Cho đến nay, mô hình này không những được triển khai
rộng rãi trong lĩnh vực sản xuất. Lĩnh vực dịch vụ cũng nâng cao dần chất
lượng phục vụ với cách thức kiểm soát chặt chẽ các khâu, các quá trình cung
cấp theo mô hình 6 Sigma. Có thể kể tên hàng loạt các công ty đã và đang
triển khai thành công như Bombardier, Raytheon, Siemens, Nokia, Navistar,
WIPRO, Kodak, Sony, Siebe, 3M, Polaroid, Citibank, ABB, Dupont,

8
Lomega, Amex, Seagate, Black & Decker. Bob Galvin – Giám đốc điều hành
Motorola tóm tắt 6 Sigma: “6 Sigma là một phương pháp khoa học tập trung
vào việc thực hiện một cách phù hợp và có hiệu quả các kỹ thuật và các
nguyên tắc quản lý chất lượng đã được thừa nhận. Tổng hợp các yếu tố có ảnh
hưởng đến kết quả công việc, 6 Sigma tập trung vào việc làm thế nào để thực
hiện công việc mà không (hay gần như không) có sai lỗi hay khuyết điểm.
Chữ Sigma (s) theo ký tự Hy lạp đã được dùng trong kỹ thuật thống kê để
đánh giá sự sai lệch của các quá trình.
Qua thực tiễn công tác tại Sở Khoa học và công nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh, tác giả nhận thấy quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học
hiện nay còn nhiều khiếm khuyết dẫn đến hạn chế về yêu cầu cập nhật, tính
thời sự, tính thực tiễn của các đề tài. Những vấn đề như quản lý đầu vào – đầu
ra, hành chính hóa, cơ chế phối hợp, giám sát, chế tài trách nhiệm,… cần

được nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở khoa học để đảm bảo chính
xác, phù hợp với xu thế chung của sự phát triển và yêu cầu thực tế. Đòi hỏi từ
thực tiễn cho thấy cần có một quy trình chặt chẽ, khoa học cùng với cơ chế
vận hành và chính sách hỗ trợ phù hợp để có thể phát huy tốt hơn hiệu quả
của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Với đề tài này, tác giả kỳ vọng sẽ xác lập được cơ sở khoa học chắc
chắn hơn cho một quy trình vốn dĩ trước đây hầu như chỉ được xem là một
hoạt động hành chính đơn thuần. Ứng dụng thành tựu của lý thuyết quản lý sẽ
giúp ích rất nhiều cho hoạt động thực tiễn của đơn vị, bản thân và hiệu quả
chung của công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực khoa học và công nghệ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tóm lược nội dung các công trình, đề tài nghiên cứu có liên quan:
2.1. Trên phạm vi quốc gia:
- Mô hình quản trị ‘Sáu sigma’ nhận được quan tâm của hầu hết các
nhà quản lý và nghiên cứu về quản lý. Tuy nhiên, trên phạm vi cả nước, cho

9
đến thời điểm này, các hội thảo, đề tài nghiên cứu ứng dụng chỉ tập trung vào
lĩnh vực quản trị kinh doanh, đổi mới, và cải tiến quá trình quản trị doanh
nghiệp. Đối với lĩnh vực quản lý nhà nước, mô hình này chưa được đề cập
đến.
- Về quản lý khoa học và công nghệ nói chung, quản lý hoạt động
nghiên cứu và các đề tài nghiên cứu khoa học nói riêng, trên thực tế, các Sở
Khoa học và công nghệ tỉnh, thành phố hầu như thực hiện theo một quy trình
định sẵn căn cứ trên quy định chung, thống nhất của Chính phủ và Bộ Khoa
học và công nghệ. Các giải pháp về đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học nhìn chung còn rời rạc, chưa được tập hợp
mang tính hệ thống, vấn đề cải tiến, đổi mới về quy trình chưa được xem xét
một cách đầy đủ.
2.2. Tại Thành phố Hồ Chí Minh:

- Là một Thành phố năng động, sáng tạo, tiếp thu nhanh với cái mới, giới
nghiên cứu và quản lý tại Thành phố Hồ Chí Minh tiếp cận sớm với mô hình
quản trị ‘Sáu sigma’. Song, cũng như xu thế của cả nước, mô hình quản trị
tiên tiến này hầu như chỉ nhận được sự quan tâm từ lĩnh vực quản trị kinh
doanh / quản trị doanh nghiệp. Ngay cả trong chương trình cải cách hành
chính của Thành phố thì việc nghiên cứu ứng dụng mô hình này cũng chưa
được đặt ra. Trong khi đó, cơ sở quản trị chất lượng đối với cải cách hành
chính gần như 100% được xây dựng theo tiêu chuẩn ISO.
- Trên lĩnh vực quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, công tác quản
lý hoạt động nghiên cứu và quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học được Sở
Khoa học và Công nghệ quan tâm, nhiều năm qua Sở cũng đã có nhiều nỗ lực
nhằm nâng cao hiệu quả mặt công tác này, điển hình là việc tổ chức Hội thảo
về đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ vào tháng 3/2006, thực hiện
đề tài “Tổng kết 5 năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý họat động khoa học
và công nghệ ở Tp. Hồ Chí Minh 2000 – 2005 và đề xuất đổi mới cơ chế

10
chính sách cho giai đọan mới – PGS.TS. Phan Minh Tân”. Song, quản lý các
đề tài nghiên cứu khoa học là một quy trình đặc thù, và, đến nay chưa một đề
tài hoặc công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến quy trình này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
 Làm rõ cơ sở lý thuyết quản lý đề tài nghiên cứu khoa học, quản trị
chất lượng và mô hình quản trị “Sáu Sigma”.
 Đánh giá thực trạng quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học tại
TP.HCM theo quy trình hiện hành.
 Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu
khoa học tại Tp.HCM trên cơ sở vận dụng mô hình Sáu Sigma.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Các nhà quản lý khoa học, nhà khoa học, chuyên
viên tác nghiệp, các cơ quan có liên quan (đặt hàng, ứng dụng, phối hợp

thực hiện, tham gia thẩm định, xét duyệt,…).
Đối tượng nghiên cứu: quy trình quản lý đề tài nghiên cứu khoa học tại Sở
Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ,
trước hết là công tác quản lý đề tài nghiên cứu khoa học.
Phạm vi không gian: Thành phố Hồ Chí Minh với cơ quan chuyên môn là
Sở Khoa học và Công nghệ.
Phạm vi thời gian: từ năm 2006 đến nay.
6. Vấn đề nghiên cứu
 Thực trạng quản lý đề tài nghiên cứu khoa học tại Thành phố Hồ
Chí Minh theo quy trình hiện nay là như thế nào?
 Cần có giải pháp gì để hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy trình
quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học?

11
 Cần có những biện pháp gì để vận hành tốt quy trình theo đề xuất?
7. Giả thuyết nghiên cứu
 Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ nói chung và quản lý
các đề tài nghiên cứu khoa học nói riêng, có những thành tựu và hạn
chế trên nhiều phương diện. Quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu
khoa học hiện nay còn nhiều bất cập, khiếm khuyết nên tất yếu dẫn
đến hiệu quả không cao như mong đợi.
 Mô hình Sáu Sigma là một giải pháp tiên tiến, phù hợp, có thể sử
dụng để phát hiện, khắc phục các lỗi và hoàn thiện quy trình quản
lý, nâng cao hiệu quả quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học trong
tình hình hiện nay.
 Trong việc áp dụng mô hình, cần quan tâm đến cơ chế vận hành và
chính sách hỗ trợ (quản lý đầu vào - đầu ra, phối hợp, giám sát, chế
tài, trách nhiệm,…). Cần tiếp tục nghiên cứu quy trình triển khai

ứng dụng để có thể hoàn chỉnh một quy trình khép kín từ nghiên cứu
đến triển khai nhằm đảm bảo hiệu quả tổng hợp của hoạt động
nghiên cứu khoa học.
8. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này đòi hỏi sự kết hợp của cả phương pháp định
tính và định lượng. Các yếu tố của quy trình cần được đánh giá thông qua các
dữ liệu cụ thể, đồng thời yêu cầu về mặt quản lý đòi có những đánh giá, nhận
định, đúc kết, dự báo mang tính định tính. Các phương pháp nghiên cứu được
sử dụng:
 Phương pháp thống kê dữ liệu, tổng hợp phân tích tài liệu: làm rõ cơ
sở lý thuyết, cơ sở thực tiễn, dữ liệu thực tế.
 Phương pháp so sánh: so sánh mô hình, đối chiếu mục tiêu kết quả
thực hiện.

12
 Phương pháp điều tra xã hội học: đánh giá thực trạng, đề xuất kiến
nghị.
Việc điều tra, khảo sát, thu thập dữ liệu sẽ được thực hiện kết hợp giữa
bảng câu hỏi và phỏng vấn sâu.
9. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 phần chính:
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu
6. Vấn đề nghiên cứu
7. Giả thuyết nghiên cứu
8. Phương pháp nghiên cứu

9. Kết cấu của Luận văn
PHẦN NỘI DUNG:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đánh giá quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học tại Sở
Khoa học và công nghệ Tp.HCM giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3: Vận dụng Sáu sigma để xác định nguyên nhân cốt lõi của hạn chế
và đề xuất cải tiến quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học tại Sở
Khoa học và Công nghệ Tp.HCM
PHẦN KẾT LUẬN



13
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Khoa học và nghiên cứu khoa học.
1.1.1. Khoa học
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và sự
vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ
thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ
sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra hai hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và
tri thức khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động
sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con
người với thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về
cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người
trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và
phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật
sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối

quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ
phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là
cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
- Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ
thống nhờ hoạt động NCKH, các họat động nầy có mục tiêu xác định và sử
dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức
khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và
qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri
thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học
(discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…

14
* Công nghệ: là những phương pháp, cách thức dựa trên cơ sở khoa học
được sử dụng vào sản xuất để tạo ra sản phẩm vật chất. Công nghệ là kết quả
của quá trình vật chất hoá tri thức khoa học, vận dụng các quy luật tự nhiên,
các nguyên lý khoa học vào sản xuất thông qua các phương tiện kỹ thuật,
nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. “Công nghệ là
tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện
dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”[18,1].
Theo định nghĩa nêu trên chúng ta thấy công nghệ bao gồm hai yếu tố
tinh thần và vật chất. Yếu tố tinh thần ở đây là các tri thức khoa học, các
phương pháp, cách thức con người sử dụng nhằm tạo ra những sản phẩm vật
chất. Yếu tố vật chất ở đây là các thiết bị kỹ thuật con người sử dụng trong
quá trình sản xuất. Con người là nhân tố duy nhất có khả năng tổng hợp các
lực lượng vật chất và tinh thần để áp dụng vào thực tiễn, bởi vì tri thức khoa
học và phương tiện kỹ thuật chỉ có thể phát huy được tác dụng qua quá trình
hoạt động của con người.
Chúng ta có thể hiểu công nghệ gồm hai phần, phần cứng và phần
mềm.
- Phần cứng là toàn bộ phần ta có thể nhìn thấy được và có thể mua bán

được trên thị trường như thiết bị, máy móc, cơ sở vật chất.
- Phần mềm, gồm: tri thức, kỹ năng, công thức để sử dụng phần cứng
tạo ra sản phẩm vật chất. Trong cơ chế thị trường phần mềm cũng có thể mua,
bán hoặc trao đổi trên thị trường.
Trong một số trường hợp, người ta phân công nghệ thành bốn nhóm
yếu tố cơ bản:
+ Nhóm yếu tố kỹ thuật gồm các thiết bị, máy móc…
+ Nhóm yếu tố con người gồm các chuyên gia nghiên cứu, tư vấn,
những người trực tiếp gắn bó với các hoạt động công nghệ.
+ Nhóm yếu tố tổ chức gồm các bộ máy, thể chế, quản lý…

15
+ Nhóm yếu tố thông tin gồm bí quyết sản xuất, công thức, phương
thức tiến hành.
* Hoạt động khoa học và công nghệ: Khái niệm hoạt động khoa học
và công nghệ là khái niệm rất rộng và có nhiều các cách hiểu khác nhau. Theo
cách hiểu chung nhất, hoạt động KH&CN là tập hợp toàn bộ các hoạt động có
hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con
người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng các kiến thức đó để tạo ra những ứng
dụng mới.
Theo UNESCO hoạt động khoa học và công nghệ được định nghĩa là:
“các hoạt động có hệ thống liên quan chặt chẽ với việc sản xuất, nâng cao,
truyền bá và ứng dụng các tri thức khoa học và kỹ thuật (scientific and
technical knowledge) trong mọi lĩnh vực của khoa học và công nghệ, là các
khoa học tự nhiên và công nghệ, các khoa học y học và nông nghiệp, cũng như
các khoa học xã hội và nhân văn”.[6;13]. Khái niệm này vừa bao gồm khoa
học tự nhiên và hoạt động khoa học khác, lại vừa bao gồm toàn bộ hoạt động
có liên quan đến sự ra đời, phát triển, truyền bá và ứng dụng tri thức.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật khoa học và công nghệ (có hiệu lực
từ năm 2000), hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa

học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt
động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt
động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
1.1.2. Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học, theo quy định của Luật khoa học và công nghệ: “là
hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.”
Khái niệm nghiên cứu khoa học ở đây chỉ nên được sử dụng với ý nghĩa
là tìm tòi, khám phá các lý thuyết khoa học mới, các nguyên lý công nghệ mới.
Những nội dung đó mang một số ý nghĩa được nêu trong các định nghĩa sau:

16
Bản chất của nghiên cứu khoa học, theo PGS.TS Vũ Cao Đàm, bao gồm
việc phát hiện bản chất, phát triển nhận thức khoa học về thế giới, hoặc sáng
tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật
phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người. Đây là một loại hoạt động đặc
biệt, vì đó là: “sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết”. Sản phẩm
cuối cùng của nghiên cứu khoa học là một luận điểm khoa học, và người
nghiên cứu phải trình bày luận điểm khoa học của mình trước cộng đồng khoa
học dưới dạng một báo cáo, thường được gọi chung là một “đề tài nghiên cứu
khoa học”.
Trong xã hội loài người, hoạt động nghiên cứu khoa học tuy đã tồn tại
hàng mấy ngàn năm, nhưng từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ 19, do sự thấp kém
của sức sản xuất xã hội và do sự phân công của xã hội, nghiên cứu khoa học ở
vào giai đoạn nghiên cứu cá nhân, phân tán.
Từ cuối thế kỷ 19 đến trước những năm 30 của thế kỷ XX, nền sản xuất
có những bước tiến triển to lớn, và nghiên cứu khoa học cũng từng bước đi
theo hướng xã hội hoá. Nghiên cứu khoa học, từ chỗ lao động cá thể tự do
trước đây chuyển sang lao động tập thể. Và để đáp ứng các yêu cầu về phân
công và hợp tác trong hoạt động khoa học, cần thiết phải có những người tổ

chức quản lý chuyên môn để tăng cường nội dung kế hoạch, tổ chức, chỉ huy
và điều phối đối với hoạt động khoa học. Trong giai đoạn này, có nhiều
chuyên gia tài năng xuất chúng đảm nhiệm công tác quản lý khoa học. Những
chuyên gia này vừa là người quản lý lại vừa là người dẫn đầu về học thuật. Do
đó, người ta thường gọi giai đoạn quản lý này là giai đoạn nghiên cứu tập thể,
và thể chế của nó là thể chế quản lý quyền uy của các chuyên gia.
Sau những năm của thập kỷ 40 thế kỷ XX, do khoa học – công nghệ phát
triển như vũ bão, quy mô nghiên cứu ngày một lớn, các bộ môn được phân
chia ngày một tỉ mỉ, nhưng lại cũng ngày một tổng hợp.

17
Lúc này, phương thức tập thể và biện pháp quản lý cũ đã không thể đáp
ứng những nhu cầu của khoa học – công nghệ hiện đại và phát triển xã hội.
Từ tất yếu khách quan đó, nhà nước đứng ra tổ chức quản lý, và việc này
được giao cho một số “chuyên gia quản lý” nắm chắc về khoa học – công
nghệ, hiểu biết kinh tế và thành thạo kỹ năng quản lý hiện đại gánh vác trách
nhiệm. Đó là giai đoạn thể chế hóa quản lý của chuyên gia quản lý khoa học –
công nghệ, và giai đoạn quản lý này đã giải quyết được một số vấn đề hệ
trọng của thời đại.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, một số nước như Anh, Mỹ, v.v đã
vận dụng kinh nghiệm của vận trù học để giải quyết vấn đề tổ chức quản lý
“khoa học hiện đại”. Trong quản lý khoa học đã bắt đầu dùng một loạt
phương pháp quản lý mới và kỹ thuật quản lý mới như dự báo, quyết sách, kế
hoạch, bình xét, v.v
Nói một cách khác, trong giai đoạn này, tổ chức quản lý khoa học đã là
nhân tố có tác dụng quyết định, nhân tố nội tại và nhân tố phát triển KH&CN
hiện đại. Do sự xuất hiện của thể chế quản lý, của các chuyên gia quản lý -
quản lý KH&CN đã bắt đầu thoát ra khỏi phương thức quản lý truyền thống
và bước vào giai đoạn quản lý KH&CN hiện đại.
Những năm gần đây, đặc biệt là sau những năm của thập kỷ 70 thế kỷ

này, KH&CN ngày càng thâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế và xã hội -
nghiên cứu khoa học không chỉ là vấn đề của bản thân KHCN, mà còn là sản
phẩm của tác dụng đa nhân tố phức tạp.
Ví dụ: đã xuất hiện việc nghiên cứu hợp tác xuyên quốc gia trên trường
quốc tế, xuất hiện liên hợp triển khai giữa các nước về các vấn đề kinh tế và
chính trị; dự báo thị trường, về đầu tư, về dự đoán phân chia lợi nhuận; về
những ảnh hưởng tới môi trường sinh thái xã hội, thậm chí cả việc phân tích,
tổng hợp và so sánh các mặt về mức độ đảm bảo hoà bình thế giới, v.v cùng
những phối hợp, điều hành vượt không gian giữa các tổ chức nghiên cứu

18
Tất cả những điều đó đã làm cho công tác quản lý vô cùng phức tạp. Và,
cần thiết phải có đội ngũ lãnh đạo tập thể, chuyên môn hoá, được trang bị
bằng lý luận quản lý KH&CN hiện đại để thống nhất giải quyết những vấn đề
quản lý KH&CN trọng đại.
Trong giai đoạn này, nhiều nước đã tổ chức một hội đồng chuyên gia
quản lý chuyên nghiệp, có nơi gọi là tổ cố vấn KH&CN, có nơi gọi là hội
đồng tư vấn KH&CN. Mặc dù có cách gọi khác nhau, nhưng hàng năm việc
hoạch định phương hướng nghiên cứu đề tài KH&CN, việc đánh giá sau khi
đề tài được thực thi, việc giám định các thành quả, cùng những kiến nghị áp
dụng rộng rãi các thành quả, v.v đại bộ phận đều thông qua những ý kiến
thảo luận của họ.
Trong thực tế, thể chế quản lý này đã khắc phục được tính phiến diện vi
mô và tính hạn chế tầm nhìn về nghiên cứu khoa học của cá nhân các nhà
khoa học. Do có thể thông qua quyết sách chính xác để thực hiện những mục
tiêu xã hội hợp lý nhằm tìm kiếm sự phát triển nhịp nhàng hài hoà giữa
KH&CN với kinh tế, xã hội, thể chế quản lý này không ngừng được tăng
cường và hoàn thiện.
1.2. Quản lý đề tài nghiên cứu khoa học
1.2.1. Đề tài nghiên cứu khoa học

Đề tài nghiên cứu khoa học là một hình thức tổ chức NCKH do một
người hoặc một nhóm người thực hiện. Nó được phân biệt với một số hình
thức tổ chức nghiên cứu khác không hoàn toàn mang tính chất nghiên cứu
khoa học, chẳng hạn như: Chương trình, dự án, đề án. Sự khác biệt giữa các
hình thức NCKH này như sau:
Theo Vũ Cao Đàm: “Đề tài là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa
học, trong đó có một nhóm người cùng thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu”.
Đề tài định hướng vào việc trả lời những câu hỏi về ý nghĩa học thuật, chưa
quan tâm nhiều đến việc hiện thực hoá trong hoạt động thực tế.

19
“Dự án là một loại đề tài có mục đích ứng dụng xác định, cụ thể về
kinh tế xã hội”. Dự án có những đòi hỏi khác đề tài như: Đáp ứng một nhu
cầu được nêu ra; chịu sự rằng buộc của kỳ hạn và thường là ràng buộc về
nguồn nhân lực.
Chương trình: là một nhóm các đề tài, dự án được tập hợp theo một
mục đích xác định. Giữa chúng có thể có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ
thực hiện các đề tài dự án trong một chương trình không có sự đòi hỏi quá
cứng nhắc nhưng những nội dung của một chương trình phải luôn đồng bộ”
[6, tr 51-52]
Tóm lại: đề tài nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ khoa học cụ thể nghiên
cứu hoặc triển khai áp dụng những ý tưởng khoa học hoặc những thành tựu
khoa học công nghệ vào hoàn cảnh cụ thể, được thể hiện dưới các hình thức:
đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, đề tài triển khai thực nghiệm
hoặc kết hợp cả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực
nghiệm.
1.2.2- Bản chất của quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học
Thống nhất với khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học là một mô hình tổ
chức nghiên cứu khoa học, như vậy, quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học
không đơn thuần chỉ là việc quản lý một sản phẩm mang tính tư liệu hoặc tài

liệu của kết quả nghiên cứu khoa học mà thực chất đó chính là việc quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học.
Cho đến nay, quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học hay quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học được nhìn nhận như một mặt công tác đơn thuần
của quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, nếu xem xét một
cách thấu đáo trong mối liên hệ chặt chẽ giữa mục tiêu, tổ chức thực hiện và
kết quả, có thể thấy hoạt động này cần đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
- Đạt mục tiêu mà chủ thể - cơ quan quản lý về khoa học và công nghệ -
đặt ra;

20
- Đảm bảo khả năng triển khai - ứng dụng của các sản phẩm nghiên cứu
khoa học (tính ứng dụng của đề tài);
- Có sự tham gia của nhiều thành phần dưới sự chủ trì của cơ quan quản
lý về khoa học và công nghệ;
- Tuân thủ theo một quy trình chặt chẽ, có sự cam kết về tiến độ thực
hiện;
- Được đảm bảo bằng một cơ chế tài chính hỗ trợ.
*Có thể xác định quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học là
hệ thống các hoạt động của chủ thể quản lý (từ xác định đề tài cho đến khâu
đánh giá, nghiệm thu, kết thúc đề tài, tiếp tục triển khai), tổ chức thực hiện
hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ gắn liền với hệ thống các đề tài,
nhằm thực hiện các mục tiêu của các chương trình khoa học và công nghệ.
Nhận thức đúng về bản chất của quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học
là cơ sở quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác quản lý nói riêng và
chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học nói chung. Các lý thuyết quản
trị chất lượng và mô hình 6 Sigma dưới đây là một phần trong cơ sở lý luận
của việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy trình quản
lý các đề tài nghiên cứu khoa học.
1.3. Một số vấn đề cơ bản về quản trị chất lượng và 6 Sigma

1.3.1.Quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng hoặc kiểm tra thống kê chất lượng đã hình thành từ
những năm 30 của thế kỷ 20 và phát triển cùng với nhịp độ phát triển của sản
xuất công nghiệp và nhu cầu xã hội. Đầu tiên nó được áp dụng trong các
ngành công nghiệp quốc phòng với các phiếu kiểm tra do một nhân viên của
hãng “Bell” – TS. U.A. Shewhart – phát minh ra, nhằm mục đích theo dõi,
kiểm tra chất lượng sản phẩm của hãng.
Sau đó, trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã nảy sinh các nhu
cầu phải kiểm soát chặt chẽ hơn nữa chất lượng sản phẩm, để đáp ứng các yêu

21
cầu của thời chiến. Điều đó thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các phiếu kiểm tra
trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau.
Cho đến những năm 1960, tiến sĩ Kaoru Ishkawa (Nhật) chuyển đổi
bảy công cụ thống kê chất lượng có tính chát hàn lâm thành công cụ thực
hành, phổ biến rộng rãi trong các tổ chức của Nhật. Bắt đầu từ lúc này, các
phương pháp quản lý chất lượng mới mang lại kết quả đáng kể, góp phần làm
nên “sự thần kỳ” về kinh tế của Nhật Bản.
Tuy có nhiều phương pháp quản lý chất lượng được áp dụng, nhưng
những vấn đề lý luận của quản trị chất lượng, cho đến nay chủ yếu vẫn dựa
trên những tư tưởng và những quan điểm của một số nhà khoa học lớn trên
thế giới – là những người có ảnh hưởng trên thế giới.
Nói chung, những tư tưởng lớn về kiểm soát và quản lý chất lượng đã
được khởi nguồn từ Mỹ trong nửa đầu thế kỷ 20 và dần được phát triển ở
nhiều nước khác thông qua những chuyên gia đầu đàn như Walter
A.Shewhart, W.Edwards Deming, Joseph M. Juran, A.V.Feigenbaum, Philip
B.Crosby, Kaoru Isikawa, Masaaki Imai, …
(a) Triết lý cơ bản của W.Edwards Deming là: “Khi chất lượng và năng
suất tăng lên thì biến động sẽ giảm, và vì mọi vật đều biến động, nên cần sử
dụng các phương pháp thống kê điều khiển chất lượng”. Ông chủ trương

dùng thống kê để định lượng thành quả trong tất cả các khâu, chứ không phải
chỉ đo kết quả đạt được trong quy trình sản xuất hay cung cấp dịch vụ.
Theo ông, kiểm tra chất lượng sản phẩm, dù là ở đầu vào hay đầu ra
đều quá chậm, không hiệu quả và tốn kém. Vì vậy, để đánh giá chất lượng cần
thông qua “sự thể hiện rõ ràng trên thống kê”. Do đó, dùng phương pháp
thống kê như là một công cụ để kiểm soát và quản lý chất lượng. Cách tiếp
cận của ông đối với vấn đề chất lượng là cần giảm độ biến động bằng cải
tiến liên tục chứ không phải bằng thanh tra ồ ạt”.

22
W.Edwards Deming cho rằng muốn đạt được những mục tiêu về chất
lượng, cần phải kiểm soát chặt chẽ mọi quá trình sản xuất bằng công cụ thống
kê. Bằng công cụ thống kê, người ta sẽ xác định chính xác những nguyên
nhân sai lỗi trong quá trình sản xuất để tiến hành khắc phục sai lỗi hoặc cải
tiến công việc. Trên cơ sở đó, năng suất và chất lượng sản phẩm, dịch vụ
được nâng cao. Bằng cách này, người ta không phải tốn kém nhiều nhưng vẫn
duy trì được một bộ máy làm việc hiệu quả, năng suất cao.
(b) Joseph M.Juran là người đầu tiên đưa ra quan điểm “Chất lượng là
sự phù hợp với phương tiện kỹ thuật”. Ông cũng là người đề cập tới những
khía cạnh rộng lớn của việc điều khiển chất lượng và quản lý chất lượng, chứ
không phải mặt riêng biệt nào đó. Ông đặc biệt chú ý tới nhân tố con người.
Theo ông thì trên 80% những sai hỏng về chất lượng là do quản lý gây ra, do
công nhân chỉ dưới 20%. Từ đó, ông đòi hỏi mọi người, đăc biệt là các nhà
quản lý, phải được đào tạo về chất lượng.
(c) Philip B.Crosby đặt vấn đề quản lý chất lượng là ‘phòng ngừa”.
Ông đặt ra từ văcxin chất lượng mà các công ty nên dùng để ngăn chặn tình
trạng không phù hợp yêu cầu. Văcxin phòng ngừa gồm có ba thành phần: sự
cam kết, giáo dục và thực hiện.
(d) Nghiên cứu những kinh nghiệm về quản lý chất lượng toàn diện
(Total Quality Control – TQC). A.V.Feigenbaum cho rằng việc quản lý chất

lượng là nhiệm vụ của mỗi phòng, ban chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của
phòng Chất lượng. Trong cuốn sách “Total Quality Control”, ông đã nêu lên
40 nguyên tắc trong quản lý chất lượng.
Tuy có khác nhau về cách tiếp cận cũng như về triết lý, nhưng tất cả
các tư tưởng trên đều nhằm mục đích là làm thế nào để quản lý một hệ thống,
một tổ chức nhằm đạt được các mục tiêu về chất lượng. Chính vì vậy quản lý
chất lượng về bản chất nó là chất lượng của công tác quản lý điều hành một tổ

23
chức để chủ động kiểm soát được chất lượng sản phẩm, nhằm nâng cao hiệu
quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Quan điểm mới về hệ thống quản lý chất lượng trong một tổ chức.
Quản lý một tổ chức, một doanh nghiệp dù trong bất kỳ lĩnh vực nào,
hay với quy mô như thế nào, thực chất là ta phải quản lý một hệ thống bao
gồm nhiều quá trình, nhiều hoạt động liên quan với nhau, để biến những yếu
tố đầu vào (các nguồn lực của tổ chức)thành các kết quả ở đầu ra (các sản
phẩm, dịch vụ hoặc các tiện ích cần thiết cho xã hội,
Hình 1.1: Quá trình hoạt động của một doanh nghiệp
Vì vậy, để đạt được kết quả tốt ở đầu ra, cần thiết phải có sự quản lý và
kiểm soát một cách hệ thống các nguồn lực và các quá trình, nhằm đạt mục
tiêu cuối cùng là:
- Khai thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm nhất
các nguồn lực.
- Nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và dịch vụ thỏa
mãn tối đa nhu cầu của xã hội;
- Giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất;
ENVIRONMET


OUTPUTS

Produccts and
services



TRANSFORMATION
PROCESS
INPUTS
Human,
physical,
financial, and
information
resources

24
- Đảm bảo an toàn nhất đối với con người và môi trường để góp phần
xây dựng một xã hội phát triển bền vững.
Chúng ta không thể sản xuất ra được những sản phẩm dịch vụ có chất
lượng tốt với chi phí thấp và an toàn, khi việc quản lý, điều hành va kiểm soát
những quy trình sản xuất ra sản phẩm đó kém chất lượng và không hiệu quả.
Hệ thống quản lý của doanh nghiệp phải có khả năng quản lý và kiểm soát tốt
cả ba lĩnh vực chủ yếu sau:
Lĩnh vực thứ nhất là “Phần cứng” của doanh nghiệp. Đó là những tài
sản, trang thiết bị, nguyên vật liệu, tiền bạc là phần vật chất cần thiết của bất
kỳ tổ chức nào – người ta còn gọi nó là phần “Lượng”, phần “Vật chất” của
doanh nghiệp.
Lĩnh vực thứ hai là “Phần mềm” của doanh nghiệp. Đó là các thông
tin, các phương pháp công nghệ, phương pháp quản lý điều hành, các chủ
trương chính sách, cơ chế kiểm tra, kiểm soát… Đây là phần “Chất” quan
trọng, có tính chất quyết định khả năng quản lý của một tổ chức, một doanh

nghiệp.
Lĩnh vực thứ ba là Phần con người: Nguồn nhân lực trong tổ chức bao
gồm toàn thể các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý và các nhân viên. Con người
ở đây chính là nguồn lự quan tọng nhất trong tất cả các nguồn lực của doanh
nghiệp.
Hệ thống quản lý của doanh nghiệp phải bao trùm lên tất cả lĩnh vực
trên một cách chặt chẽ và đồng bộ, nhằm đạt được các mục tiêu và mục đích
của mình với những phí tổn thấp nhất.

25
QUẢN LÝ

Hình 1.2. Mục đích và mục tiêu của quản lý chất lượng
Để quản lý các hệ thống đó, chúng ta không thể chỉ dựa vào những kinh
nghiệm hoặc là năng khiếu bẩm sinh, mà phải có các phương pháp quản lý
khoa học. Các hệ thống quản lý đó phải được thiết lập và vận hành theo
những nguyên tắc nhất định.
Có thể nói: Quản lý chất lượng là một bộ phận hữu cơ của hệ thống
quản lý chung, thống nhất trong bất kỳ một tổ chức, một doanh nghiệp
nào. Chất lượng của công tác quản lý là một trong những yếu tố quyết
định chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế của toàn bộ tổ chức.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, một yêu
cầu rất quan trọng được đề cập đến là các hệ thống quản lý trên cần phải được
MỤC ĐÍCH
Purpose
- Khai thác mọi tiềm
năng
- Sử dụng hợp lý và hiệu
quả và tiết kiệm mọi
nguồn lực của tổ chức

- Tiết kiệm thời gian
- Phát triển bền vững
MỤC TIÊU
Objectives
- Nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm
- Giảm chi phí
- Nâng cao tính cạnh tranh
của sản phẩm, hiệu quả
kinh tế và uy tín của tổ
chức
- An toàn cho môi trường
và xã hội
LƯỢNG
CHẤT
CON
NGƯỜI

26
thiết lập và tuân thủ theo các tiêu chuẩn quản lý quốc tế như tiêu chuẩn:
GMP, HACCP, ISO 9001:2008, ISO 14001:2002, SA 8000,…
Một số nguyên tắc trong quản lý chất lượng
(a) Nguyên tắc 1: Hướng vào khách hàng
Nguyên tắc quan trọng nhất đối với bất kỳ hệ thống quản lý nào cũng
phải hướng tới việc đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Nhà sản xuất
phái đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng, chứ không phải là việc cố
gắng đạt được một số tiêu chuẩn nào đó đã đề ra từ trước.
(b) Nguyên tắc 2: Vai trò của lãnh đạo
Lãnh đạo có nhiệm vụ thiết lập sự thống nhất giữa mục đích và chính
sách của tổ chức. Hệ thống quản lý chất lượng phải được lãnh đạo thường

xuyên xem xét, để có những điều chỉnh cần thiết và đảm bảo chắc chắn rằng
nó luôn hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
(c) Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người
Trong bất kỳ tổ chức, doanh nghiệp nào, mỗi bộ phận, mỗi người đều
có một vị trí, vai trò nhất định, liên quan đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ
được tạo ra. Chất lượng hoạt động của mỗi khâu trong quá trình phụ thuộc
vào chất lượng hoạt động của các khâu trước đó. Vì vậy, để toàn bộ hệ thống
quản lý vận hành một cách hiệu quả, cần phải có sự tham gia của mọi người ở
tất cả các cấp, các bộ phận.
(d) Nguyên tắc 4: Quản lý theo quá trình
Xuất phát từ nhận thức rằng, các sản phẩm và dịch vụ là kết quả của
quá trình (process), các hoạt động như: sản xuất, chế biến, các dịch vụ… Cho
nên, muốn có các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng, an toàn và mang lại
hiệu quả cao, cần phải quản lý quá trình tạo ra chúng, phải thực hiện việ quản
lý theo quá trình (MBP Management By Process), để kiểm soát tất cả các yếu
tố liên quan đến quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ.
(e) Nguyên tắc 5: Tiếp cận theo hệ thống

27
Trong bất kỳ một tổ chức nào, sản phẩm hoặc dịch vụ cuối cùng được
tạo ra chính là kết quả của một chuỗi những hoạt động, những quá trình có
mối liên quan và tương tác với nhau trong một hệ thống.
(f) Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục
Không có phương pháp, tiêu chuẩn quản lý nào có thể là chuẩn mực
cuối cùng. Vì vậy, trong hệ thống quản lý chất lượng, những hoạt động cải
tiến được thực hiện thường xuyên nhằm nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả
của toàn bộ hệ thống.
(g) Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện
Trong bất kỳ một hoạt động nào, việc quản lý không thể thực hiện được
nếu chúng ta chỉ dựa trên các ý tưởng, hoặc các nhận xét định tính… Vì vây,

trong hệ thống quản lý chất lượng, việc theo dõi, thu thập, phân tích và xác
định về mặt định lượng các dữ kiện, các thong số liên quan đến chất lượng
trong suốt quá trình tạo sản phẩm để cs thể ra những quyết định điều chỉnh
kịp thời, chính xác là hết sức cần thiết.
(h) Nguyên tắc 8: Quan hệ hợp tác cùng có lợi
Mối quan hệ hợp tác cùng có lợi sẽ nâng cao năng lực của bản thân
doanh nghiệp và tất cả các bên quan tâm, nhằm tạo ra nhiều giá trị gia tăng
hơn nữa cho cộng đồng và xã hội. Vì vậy, trong quá trình xây dựng hệ thống
quản lý chất lượng, khi xác định các mục tiêu chất lượng, cần thiết phải xem
xét và quan tâm đến những quyền lợi của người lao động, của các bên quan
tâm và của xã hội. Đặc biệt là đối với người cung ứng để đảm bảo chất lượng
đầu vào của toàn bộ quá trình tạo ra sản phẩm.
1.3.2.Giới thiệu mô hình Sáu Sigma:
* Khái niệm Sáu sigma
Sáu Sigma là một hệ phương pháp cải tiến quy trình dựa trên thống kê
nhằm giảm thiểu tỷ lệ sai sót hay khuyết tật đến mức 3,4 lỗi trên mỗi triệu khả
năng gây lỗi bằng cách xác định và loại trừ các nguồn tạo nên dao động (bất

×