Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.24 MB, 67 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1 4
TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG 4
HỘ SẢN XUẤT 4
CHƯƠNG 2 25
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT 25
TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HOÀNG MAI 25
55
CHƯƠNG 3 56
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG 56
HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HOÀNG MAI 56
KẾT LUẬN 66
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần 25 năm đổi mới, nhờ có sự chỉ đạo của Đàng và Nhà nước, nền kinh tế
Việt Nam ta liên tục phát triển. Kinh tế đất nước có nhiều thành tựu lớn, toàn diện trên
mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế dần chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, trong khi giảm tỷ trọng của các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Giá trị sản xuất các ngành đều tăng, khoa học công
nghệ không ngừng được nâng cao và áp dụng. Đóng góp vào sự phát triển chung đó
có một phần quan trọng của lực lượng kinh tế hộ gia đình, đăt ra yêu cầu phải tăng
cường các kênh vay vốn hỗ trợ hộ sản xuất kinh doanh, trong đó có tín dụng ngân
hàng.
Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị của đất nước mà con là một địa
phương lớn thuộc vùng kinh tế trọng điểm quốc gia, với diện tích địa lý rộng, điều
kiện về tự nhiên và con người hết sức thuận lợi cho việc phát triển đa dạng nhiều
ngành nghề, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đến
công nghiệp, xây dựng và kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ. Ở đây hội tụ đầy đủ các
thành phần kinh tế khác nhau, trong đó lực lượng kinh tế hộ gia đình rất đông về số


lượng và phân bố trên tất cả các khu vực của thành phố. Hoạt động của các hộ sản
xuất đóng góp lớn vào giá trị sản xuất chung của từng ngành, đặc biệt là đối với ngành
thương nghiệp, dịch vụ và sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Các hộ gia đình cũng là
khách hàng thường xuyên của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Riêng
đối với chi nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai, tuy nằm trong khu vực có rất nhiều
khách hàng tiềm năng là hộ sản xuất, hoạt động cho vay với đối tượng này thời gian
qua còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Chính vì thực tế đó, sau một thời gian thực
tập ở đây, em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng
cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai, Hà
Nội”.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là:
- Khái quát cơ sở lý luận chung về tín dụng hộ sản xuất
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh
NHNo&PTNT Hoàng Mai trong thời gian qua
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng hộ
sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai trong thời gian tới.
Bố cục của chuyên đề gồm có ba chương:
Chương 1: Tín dụng hộ sản xuất và chất lượng tín dụng hộ sản xuất
2
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh
NHNo&PTNT Hoàng Mai
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi
nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai
Trong thời gian hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của các anh chị cán bộ phòng Kế hoạch – kinh doanh chi nhánh NHNo&PTNT
Hoàng Mai và đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tỉ mỉ của cô giáo PGS. TS. Nguyễn
Thị Bất. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo và các anh chị.
3
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG

HỘ SẢN XUẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hộ sản xuất
1.1.1. Khái niệm và phân loại hộ sản xuất
Hộ sản xuất trước hết là một thành phần kinh tế đã ra đời từ rất lâu và xuất hiện
ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở những nước có nền kinh tế nông nghiệp – nông
thôn lâu đời như nước ta. Qua nhiều thế kỉ, kinh tế hộ sản xuất vẫn tồn tại và đóng góp
một phần quan trọng trong cuộc sống của dân cư, cũng như đối với nền kinh tế đất
nước. Khái niệm hộ sản xuất từ đó cũng rất đa dạng. Tuy vậy, nhìn chung, hộ sản xuất
được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ, được Nhà nước giao đất quản lý và sử
dụng vào sản xuất kinh doanh và được phép kinh doanh trên những lĩnh vực nhất định
mà Nhà nước quy định.
Trong các văn bản của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam, hộ sản xuất có khái niệm tương tự: “Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ,
trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.”
Trong hộ sản xuất, các thành viên của hộ đều dựa trên cơ sở kinh tế chung, nghĩa
là cùng tạo ra và cùng sử dụng nguồn thu nhập cuả mình. Các thành viên trong hộ
thường là những thành viên trong cùng một gia đình, có cùng chung huyết thống và quá
trình sản xuất kinh doanh của họ được thực hiện một cách độc lập so với bên ngoài.
Xét về quan hệ dân sự, hộ sản xuất gồm các thành viên có tài sản chung để hoạt
động kinh tế chung, do vậy, trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động thuộc các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh được pháp luật cho phép, hộ sản xuất là chủ thể trong các
quan hệ dân sự. Đối với trường hợp được Nhà nước giao đất cho sử dụng, hộ được
giao đất chính là chủ thể trong các quan hệ dân sự liên quan tới đất đó. Chủ hộ là đại
diện của hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ.
Tài sản chung của hộ sản xuất bao gồm tài sản do các thành viên cùng tạo nên
hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác được thoả thuận là tài sản chung của hộ.
Quyền sử dụng đất hợp pháp cũng là tài sản chung của hộ sản xuất.
Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách nhiệm

4
dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực hiện
nghĩa vụ chung của hộ, thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản
riêng của mình.
Có thể chia hộ sản xuất ở nước ta ra thành ba loại như sau:
- Loại thứ nhất là các hộ sản xuất có vốn, có kỹ thuật, biết tổ chức sản xuất
kinh doanh hiệu quả, biết tiếp cận thị trường và kịp thời nắm bắt được nhu cầu của thị
trường. Đây là những hộ có sự nhạy bén, năng động trong kinh doanh và luôn có nhu
cầu thêm vốn để mở rộng hoạt động.
- Loại thứ hai là các hộ sản xuất có nguồn nhân lực, lao động cần mẫn nhưng
lại có trong tay rất ít tư liệu sản xuất, vốn sản xuất hoặc môi trường kinh doanh.
Những hộ này chiếm phần đông trong xã hội và cần được hỗ trợ để mua sắm các tư
liệu sản xuất, tiếp cận với vốn đầu tư và cần được giúp đỡ trong việc định hướng tổ
chức, xây dựng phương thức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Loại thứ ba là các hộ không có sức lao động hoặc không tích cực lao động,
không biết tính toán làm ăn nên gặp phải nhiều rủi ro trong sản xuất kinh doanh, các
hộ gia đình chính sách và có hoàn cảnh đặc biệt… Những hộ này một mặt cần có sự
cảm thông, trợ giúp từ xã hội, mặt khác cần được hướng dẫn phương thức sản xuất,
khuyến khích lao động để vượt lên hoàn cảnh.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng kinh tế riêng biệt và có vị trí nhất định
trong nền kinh tế. Hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn và là đặc trưng ở nông thôn, với hoạt
động sản xuất kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông
thôn. Hiện nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh của lực lượng kinh tế này ở nước ta
đang dần được nâng cao với việc áp dụng các tiến bộ trong kỹ thuật và mở rộng quy
mô, đa dạng hóa nhiều ngành nghề.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất
1.1.2.1. Đặc điểm về mục tiêu sản xuất
Dù ở loại nào hay hoạt động trong ngành nghề nào, kinh tế hộ sản xuất ở nước
ta nhìn chung có đặc trưng rõ rệt nhất là tính chất tự cung, tự cấp. Mục đích sản xuất
chính của các hộ này phần lớn vẫn là nhằm phục vụ cho những nhu cầu của chính họ,

chứ chưa nhằm vào mục tiêu kinh doanh. Tính chất tự cung tự cấp này càng rõ nét khi
mà nền kinh tế Việt Nam ta hiện vẫn còn là nền kinh tế nông nghiệp, với đại bộ phận
của lực lượng lao động chung và lực lượng lao động sản xuất vật chất trong ngành
nông, lâm, ngư nghiệp. Trong số những người hoạt động ở ngành này, chỉ có một số
rất ít làm việc trong các thành phần kinh tế như các doanh nghiệp Nhà nước, công ty
cổ phần…, còn lại chủ yếu là lao động dưới hình thức là thành viên cuả các hộ gia
5
đình sản xuất. Trong hoạt động nông, lâm, ngư nghiệp, các hộ gia đình vẫn chủ yếu
chỉ sản xuất những cái họ cần và hầu hết chỉ đem ra mua bán trao đổi trên thị trường
khi dư thừa sản phẩm.
Do mục đích sản xuất như trên mà kinh tế hộ sản xuất được hình thành một
cách rất tự nhiên và đa dạng. Hộ sản xuất có thể được ra đời ở bất kì địa phương nào
dựa trên nhu cầu của bản thân các thành viên trong hộ và nhu cầu của dân cư trong
khu vực đó. Do đặc điểm tự nhiên và đặc điểm về văn hóa ở mỗi vùng, miền, địa
phương là khác nhau mà kinh tế hộ gia đình cũng được tổ chức và hoạt động theo
những phương thức khác nhau. Các thành viên trong hộ có sự gắn bó với nhau về
huyết thống nên nhìn chung cũng có cùng trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ, có quan hệ gắn bó về sở hữu, quản lý và phân
phối. Tất cả các thành viên đều có tính tự giác cao trong lao động, trong đó chủ hộ
cũng trực tiếp tham gia sản xuất, vì sự thống nhất về lợi ích của cả hộ. Đây cũng chính
là một đặc trưng ưu việt của kinh tế hộ gia đình.
Tuy vậy, với nhu cầu thị trường ngày càng tăng cao và lợi ích kinh tế mang lại
mà tính chất tự cung, tư cấp của kinh tế hộ gia đình ở nước ta hiện nay đang giảm dần.
Năng suất lao động được cải thiện cũng một phần giúp cho các hộ gia đình dễ dàng
đáp ứng đủ nhu cầu trước hết của bản thân các thành viên, từ đó mà đẩy mạnh đưa
hàng hoá của hộ ra thị trường. Nhiều hộ sản xuất đã ra đời với mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận kinh doanh, chứ không đơn thuần phục vụ nhu cầu sử dụng riêng.
1.1.2.2. Đặc điểm về vốn và lao động
Hộ gia đình thường sản xuất, kinh doanh nhiều sản phẩm, mặt hàng đa dạng
khác nhau. Các đối tượng sản xuất của hộ từ đó cũng rất phức tạp và có thể không cố

định. Trong một thời kì, hộ có thể sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng kết hợp, ví dụ
như cùng trồng nhiều loại cây với chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc nuôi tôm, cá… Đối
tượng sản xuất của hộ cũng dễ dàng được thay đổi tùy thuộc vào tình hình kinh tế của
gia đình, các giai đoạn trong năm, nhu cầu thay đổi về những sản phẩm nhất định và
thu nhập từ những sản phẩm này… Nhưng nhìn chung, các mặt hàng sản xuất của hộ
thường đơn giản, do đó không đòi hỏi trình độ lao động phải quá cao. Lao động của
họ vì vậy mà ngoài các thành viên trong gia đình, còn có thể được thuê, mướn dễ dàng
từ thị trường lao động bên ngoài.
Một điều dễ nhận thấy là kinh tế hộ gia đình ở nước ta có quy mô sản xuất còn
nhỏ, hẹp và trình độ sản xuất thấp. Trước hết, chi phí trong sản xuất thấp, vốn bỏ vào
sản xuất thấp, không tập trung và có đặc trưng là luân chuyển chậm. Do hạn chế về
vốn và trình độ kỹ thuật mà công cụ sản xuất của hộ gia đình còn thủ công và giản
6
đơn, máy móc và công nghệ rất ít. Thu nhập của hộ sản xuất nông nghiệp còn phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên dễ khiến cho hộ gặp nhiều khó khăn khi điều
kiện tự nhiên không thuận lợi. Bên cạnh đó, công tác tổ chức sản xuất chưa bài bản, tự
phát, còn mang nặng tính truyền thống và chịu nhiều chi phối bởi đặc điểm sinh hoạt
và các quan hệ tình cảm trong gia đình.
1.1.2.3. Đặc điểm về thị trường
Nếu như trước đây, mục tiêu sản xuất của hộ gia đình còn mang nặng tính tự
cung, tự cấp thì hiện nay, với sự đẩy mạnh sản xuất hàng hoá để bán ra, thị trường tiêu
thụ cho các sản phẩm của hộ gia đình là rất lớn và đa dạng. Các mặt hàng khác nhau
với chất lượng nâng cao được phân phối, tiêu thụ từ thị trường địa phương đến thị
trường cả nước, từ thị trường nông thôn đến thị trường thành thị. Đặc biệt, một số hộ
gia đình có quy mô sản xuất lớn, trình độ chuyên môn cao đã tích cực đưa sản phẩm
của mình ra thị trường quốc tế.
Với hình thức của các làng nghề truyền thống và hình thức tổ chức cùng
sản xuất chuyên môn hoá một mặt hàng của nhiều hộ gia đình, các sản phẩm từ
các hộ sản xuất ở nước ta dễ dàng tiêu thụ hơn bao giờ hết. Nhiều làng nghề,
nhiều khu vực đã tạo cho mình thương hiệu sản phẩm nhất định với chất lượng

cao, đặc điểm vượt trội hơn cả.
Qua những đặc điểm trên, ta nhận thấy rằng tuy hoạt động sản xuất kinh doanh
của hộ gia đình còn hạn chế về quy mô và trình độ nhưng có vị trí rất quan trọng trong
phát triển kinh tế nói chung. Vấn đề đặt ra là cần có những chính sách và hỗ trợ của
Nhà nước nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ
cơ chế thị trường.
1.1.3. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế
Là một lực lượng kinh tế riêng biệt thu hút lượng lớn lao động trong xã hội
nước ta, hộ sản xuất có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế đất nước nói chung,
cũng như sự phát triển của kinh tế địa phương nói riêng.
Thứ nhất, kinh tế hộ sản xuất có vị trí chủ đạo và ý nghĩa to lớn đối với ngành
nông nghiệp. Do những đặc trưng vốn có của kinh tế hộ gia đình, nhất là đặc trưng về
quan hệ huyết thống của các thành viên, đặc trưng gắn bó của các thành viên trong
quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối và tiêu thụ, nên kinh tế hộ rất thích hợp đối với
các đặc điểm cũng như yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Có thể nói kinh tế hộ gia
đình gắn liền với nông nghiệp trên hầu hết tất cả các ngành nghề, từ trồng trọt, chăn
nuôi đến đánh bắt và nuôi trồng các sản phẩm ngư nghiệp; phần lớn sản lượng của
ngành nông nghiệp cũng xuất phát từ lực lượng kinh tế này. Do đó, phát triển nông
7
nghiệp cần đi từ việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Để kinh tế nông nghiệp phát triển
theo xu hướng của nền kinh tế thị trường, kinh tế hộ cần chuyển từ “tự cung, tự cấp”
sang sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, áp dụng các tiến bộ trong công nghệ và kỹ
thuật.
Thứ hai, kinh tế hộ sản xuất có vai trò quan trọng trong việc sử dụng và khai
thác các nguồn lực, mà trước hết là nguồn nhân lực và tài nguyên đất đai.
Nguồn lực lao động trong thời gian qua vừa là một lợi thế, vừa là một vấn đề
cấp bách của nền kinh tế nước ta. Một mặt, lực lượng lao động dồi dào là một yếu tố
góp phần thúc đẩy kinh tế. Mặt khác, điều này đòi hỏi việc khai thác và sử dụng lao
động phải hợp lí và hiệu quả. Ở nước ta hiện nay có gần 70% dân số sống ở nông thôn
trong khi nhu cầu về lao động ở khu vực này còn hạn chế, tạo nên sự mất cân đối rõ

rệt. Để sử dụng nguồn nhận lực dồi dào này, Nhà nước và các thành phần kinh tế khác
đã đẩy mạnh phát triển các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp ở nông thôn nhưng mới
chỉ giải quyết được vấn đề việc làm cho một phần nhỏ người lao động. Nhìn chung,
lực lượng lao động chưa được sử dụng còn lớn, quỹ thời gian làm việc của người lao
động chưa được tận dụng triệt để, gây ra lãng phí về nhân lực. Có thể thấy rằng, phát
triển và mở rộng kinh tế hộ gia đình sẽ góp phần lớn trong việc giải quyết vấn đề này.
Đáng lưu ý là từ khi được công nhận là 1 đơn vị kinh tế tự chủ, cùng với việc được
Nhà nước giao đất, giao rừng khuyến khích sản xuất… và việc cổ phần hoá trong
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình đã có cơ sở để sử dụng hợp lý và có hiệu quả
nhất nguồn lao động sẵn có của mình. Chính sách này còn đồng thời tạo đà cho một số
hộ gia đình tự vươn lên mở rộng sản xuất thành các mô hình kinh tế lớn hơn như trang
trại, tổ hợp tác xã… thu hút thêm nhiều sức lao động, tạo công ăn việc làm cho lực
lượng lao động dư thừa ở nông thôn.
Bên cạnh đó, nhờ có sự gắn kết trực tiếp giữa lợi ích cá nhân với tài nguyên,
nhất là tài nguyên về đất, cũng như sự tự chủ, độc lập cao trong quản lý, sử dụng đất
mà việc khai thác nguồn lực đất đai được các hộ gia đình hết sức chú trọng. Trên hết,
họ hiểu rằng để có lợi ích kinh tế lâu dài, việc sử dụng, khai thác tài nguyên đất phải
được cân nhắc kỹ lưỡng và thực hiện một cách tiết kiệm, tránh gây cạn kiệt, mất dần
độ màu mỡ của đất. Thêm vào đó, nhờ có sự khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước, các
hộ gia đình cũng tích cực khai hoang phục hoá đất trên cơ sở tận dụng triệt để và có
hiệu quả nguồn tài nguyên này.
Thứ ba, kinh tế hộ sản xuất góp phần không thể thiếu trong phát triển nền kinh
tế thị trường. Hộ sản xuất có tư cách là thành viên của kinh tế thị trường và là đối
tượng phục vụ của nền kinh tế thị trường, cho nên, kinh tế hộ gia đình phát triển tạo
tiền đề cho kinh tế thị trường phát triển.
8
Tính chất tự do cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh hàng hóa của nền kinh tế
thị trường đòi hỏi sự năng động, nhạy bén của kinh tế hộ gia đình. Do độc lập và tự
chủ cao về tư liệu sản xuất và tổ chức quá trình sản xuất, các hộ gia đình tự xác định
hướng đi và phương thức sản xuất để đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội. Nhằm đạt

được điều đó, như các thành phần kinh tế khác, hộ sản xuất cũng phải không ngừng
cải tiến công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất để nâng cao cả số lượng và chất lượng của
sản phẩm, bên cạnh việc tìm ra những thị trường mới và đẩy mạnh quảng bá… Việc
sử dụng vốn và các nguồn lực cũng cần các hộ gia đình chú trọng nhiều hơn để mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với nhu cầu của nền kinh tế đòi hỏi phát triển
nông nghiệp từ “tự cung, tự cấp” sang sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, vai trò của kinh tế hộ sản xuất càng được phát huy. Ở nước ta, xu hướng
phát triển của kinh tế hộ gia đình được xác định như sau:
- Các hộ sản xuất tự cung, tự cấp chuyển dần sang sản xuất hàng hóa ở quy mô
nhỏ, chủ yếu là các hộ gia đình nằm ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn.
- Các hộ gia đình nông dân sản xuất tự cung tự cấp chuyển dần sang các hộ có tỷ
lệ sản xuất hàng hóa cao, nhưng chưa phải là trang trại. Những hộ này tập trung
phần lớn ở khu vực đồng bằng sông Hồng, vùng trung du, miền núi chuyên
môn hóa trong trồng trọt các loại cây công nghiệp.
- Các hộ sản xuất hàng hóa của tỷ lệ sản xuất hàng hóa cao dần chuyển thành các
trang trại.
- Một số hộ nông dân có ngành nghề phụ tạo được cơ sở phát triển ngành nghề
ổn định chuyển hẳn sang kinh doanh ngành nghề nông thôn.
Có thể thấy, với đặc trưng riêng biệt là chi phí sản xuất bỏ ra thấp, bộ máy quản
lý tổ chức đơn giản gọn nhẹ và ưu điểm về tính tự giác cao trong lao động của các thành
viên, hộ sản xuất dễ dàng thay đổi để thích ứng với xu hướng biến đổi trên và nhu cầu
phát triển của thị trường. Hơn nữa, sự hỗ trợ của Nhà nước và chính sách khuyến khích
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng tạo động lực để kinh tế hộ gia đình được mở
rộng. Kinh tế hộ không chỉ dừng lại ở việc cung cấp phần lớn lượng nông sản thiết yếu
cho thị trường trong nước, góp phần ổn định an ninh lương thực quốc gia mà còn cung
cấp nguyên liệu và sản phẩm cho công nghiệp và xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập
lớn cho dân cư, cho ngân sách địa phương và ngân sách Nhà nước.
Nhờ khả năng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực về lao động và tài nguyên
của mình, kinh tế hộ sản xuất tận dụng triệt để những tư liệu sản xuất có được để tạo
ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Kinh tế hộ còn là nơi thu hút được lượng đầu

tư lớn từ bên ngoài, góp phần mở rộng thị trường vốn. Đồng thời, các hộ sản xuất vừa
9
là đối thủ cạnh tranh, vừa là khách hàng tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của nhau và của
các ngành khác, do đó, kinh tế hộ gia đình phát triển tạo động lực cho các thành phần
kinh tế khác trong nền kinh tế cùng phát triển.
Kinh tế hộ sản xuất giúp giải quyết nhiều vấn đề trong xã hội. Do sự đóng góp
của kinh tế hộ vào phát triển kinh tế mà đời sống của nhân dân được cải thiện, thể hiện
rõ nhất ở vấn đề việc làm, trình độ dân trí và khả năng tiếp cận của người dân với các
dịch vụ sức khỏe và giáo dục. Bên cạnh đó, là thành phần chủ yếu ở nông thôn, kinh
tế hộ gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, gìn giữ và phát
huy các phong tục văn hóa truyền thống, góp phần tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn
Việt Nam.
1.2. Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng hộ sản xuất
Để hiểu rõ được khái niệm tín dụng hộ sản xuất, trước hết, ta cần tìm hiểu ý
nghĩa của khái niệm “tín dụng”. Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá,
được hiểu theo cách đơn giản nhất là quan hệ vay mượn giữa người cho vay và người
đi vay. Bản chất của tín dụng là việc vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời
gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ
bình đẳng và cả hai bên cho vay và đi vay cùng có lợi. Tín dụng trong nền kinh tế thị
trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như: tín dụng ngân hàng, tín dụng
thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế… Tín dụng
có vị trí quan trọng trong việc tích tụ, tận dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để
phát triển kinh doanh, giúp cho các nguồn vốn trong nền kinh tế được lưu chuyển,
phân phối và sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Tín dụng ngân hàng là một loại hình tín dụng riêng biệt, có bản chất của quan
hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các
ngân hàng, tổ chức tín dụng với các tổ chức và cá nhân khác trong nền kinh tế, được
thực hiện dưới hình thức tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Lãi suất của khoản
vay thể hiện chi phí mà người đi vay phải bỏ ra để có được khoản vay đó.

Tín dụng và nghiệp vụ cấp tín dụng là một trong ba hoạt động ngân hàng chính.
Ở nước ta, theo quy định trong Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010, “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc
có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
10
Do ngân hàng và tổ chức tín dụng có đặc thù riêng mà tín dụng ngân hàng có
nhiều ưu điểm vượt trội hơn hẳn so với các hình thức tín dụng khác, cả về khối lượng,
thời hạn và phạm vi của nguồn đầu tư. Cũng chính vì lẽ đó, tín dụng ngân hàng có vai
trò hết sức quan trọng đối với bản thân các tổ chức, cá nhân đi vay và đối với toàn bộ
nền kinh tế. Để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và ổn định trên thị trường,
có thể nói, không một doanh nghiệp, tổ chức nào lại không cần đến nguồn vốn tín
dụng ngân hàng.
Tín dụng hộ sản xuất là một thuật ngữ trong hoạt động tín dụng của các ngân
hàng. Tín dụng hộ sản xuất có đầy đủ đặc điểm cơ bản như các loại tín dụng khác, chỉ
khác đây là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và bên đi vay là các hộ sản xuất. Để đáp
ứng đủ điều kiện vay vốn của ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng, hộ sản
xuất hiện nay phải có phương án kinh doanh hiệu quả và tài sản đảm bảo nhất định;
nhiều hộ sản xuất cần phải đăng ký kinh doanh để được vay vốn tuỳ theo quy định của
từng ngân hàng.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ gia đình tạo nên đặc điểm riêng
của tín dụng hộ sản xuất. Ở Việt Nam ta, vì phần lớn hộ sản xuất hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp nên tín dụng hộ sản xuất có nhiều đặc trưng của ngành nông nghiệp
và phương thức sản xuất, canh tác nông nghiệp. Trước hết, tín dụng hộ sản xuất chịu
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Nguồn thu nhập của hộ sản xuất, cũng là nguồn trả
nợ vay ngân hàng, chủ yếu có từ việc bán các loại nông sản và sản phẩm nông nghiệp.
Khả năng trả nợ của khách hàng hộ sản xuất thể hiện ở sản lượng mà họ có thể thu
được trong khi sản lượng này cao hay thấp tuỳ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên
thuận lợi hay không thuận lợi. Thứ hai, tính thời vụ cao của sản xuất nông nghiệp tác

động đến thời điểm cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng. Điều này cần được các ngân
hàng lưu ý khi ngân hàng cho hộ sản xuất vay để khuyến khích trồng trọt một loại cây
hay chăn nuôi một giống vật nuôi nhất định. Ngoài ra, chi phí nghiệp vụ cho một đồng
vốn vay khi cho vay hộ sản xuất thường cao do khối lượng mỗi khoản vay nhỏ, số
lượng khách hàng hộ sản xuất lớn và phân bố rải rác, gây bất lợi cho việc cấp vốn và
thu hồi nợ. Hơn thế, như đã nói ở trên, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điểu
kiện tự nhiên nên có độ rủi ro cao, khiến cho chi phí dự phòng rủi ro cho các khoản
vay sản xuất nông nghiệp cũng cao hơn các ngành khác.
1.2.2. Tầm quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ sản
xuất
Tín dụng ngân hàng với những ưu việt nhất định đóng góp rất lớn vào sự phát
triển của mọi thành phần kinh tế, tác động tích cực đến sự tăng trưởng chung của nền
11
kinh tế. Tín dụng ngân hàng từ lâu đã trở thành một kênh huy động vốn không thể
thiếu trong quá trình hoạt động của bất cứ tổ chức kinh tế nào trong xã hội, không
phân biệt ngành nghề, quy mô hay phương thức sản xuất. Vốn vay ngân hàng không
chỉ tạo nền tảng cho việc hình thành các tổ chức, doanh nghiệp mà còn giúp doanh
nghiệp vượt qua thời kì khủng hoảng, tiếp tục sản xuất kinh doanh, cũng như tạo động
lực khuyến khích doanh nghiệp cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng quy mô hoạt
động và tiếp cận được với thị trường mới. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng ngân
hàng có tầm quan trọng hơn cả, khi đại đa số của lực lượng kinh tế này là hộ gia đình
làm nghề nông, có điều kiện về nguồn nhân lực và tài nguyên nhưng rất hạn chế về
nguồn vốn tự có.
Vai trò và chức năng cơ bản nhất của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ gia
đình là đáp ứng đủ nhu cầu về vốn sản xuất, giúp hình thành và duy trì hoạt động một
cách ổn định. Một vấn đề thường thấy là các hộ gia đình ở nông thôn chủ yếu là hộ
nông dân có thu nhập thấp, tiết kiệm không đáng kể, trong khi luôn sẵn có điều kiện tự
nhiên như tài nguyên đất và thời gian nhàn rỗi lớn. Điều này nảy sinh nhu cầu về vốn
của các hộ để có thể tận dụng triệt để được những nguồn lực có trong tay. Tín dụng
ngân hàng được xem như biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất, đặc biệt là từ khi Nhà

nước ban hành những chính sách hỗ trợ dành riêng cho thành phần kinh tế này. Thực
tế đã chứng minh rất nhiều hộ gia đình nghèo đi lên nhờ nguồn vốn vay ngân hàng.
Bên cạnh đó, do đặc trưng của kinh tế nông nghiệp, khi chưa thu hoạch được sản
phẩm, các hộ gia đình vẫn cần lượng vốn nhất định để trang trải các chi phí, đồng thời
cần vốn để kết hợp sản xuất kinh doanh các mặt hàng khác nhằm tăng thu nhập, giảm
thiểu tối đa nguồn lực bị hao phí.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy luân chuyển và sử dụng vốn ở nông thôn. Không
chỉ đáp ứng nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất, các ngân hàng còn có vai trò tập
trung vốn nhàn rỗi trong dân cư. Sự xuất hiện của ngân hàng và tín dụng ngân hàng
tạo nên thị trường tài chính ở nông thôn, trong đó vốn được luân chuyển hợp lí và liên
tục từ người cho vay đến người cần vay.
Với bản thân các hộ sản xuất là người đi vay của ngân hàng, để vừa có thể trả
nợ ngân hàng vừa tăng thêm được thu nhập, họ bắt buộc phải luôn tìm tòi, chọn lọc
phương thức tổ chức và phương thức lao động hiệu quả nhất để tăng khả năng sinh lãi
của đồng vốn. Tín dụng ngân hàng cũng giúp cho các hộ sản xuất dần làm quen và
thực hiện hạch toán kinh tế, một yêu cầu bắt buộc với mọi thành phần kinh tế trong
nền kinh tế thị trường nếu muốn đảm bảo tồn tại và phát triển bền vững. Vốn vay từ
ngân hàng cũng khuyến khích các hộ sản xuất mở rộng quy mô hoạt động của mình,
12
xoá bỏ dần tính chất “tự cung, tự cấp” chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển lên
kinh tế trang trại nếu có thể.
Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn,
góp phần phát huy các ngành, nghề truyền thống và phát triển các ngành, nghề mới.
Ngoài sản xuất nông - lâm – ngư nghiệp, ở nông thôn nước ta, làng nghề truyền
thống có số lượng khá lớn nhưng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong điều
kiện hiện nay, đồng thời với việc thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, các ngành nghề truyền thống có hiệu quả kinh tế cao cần phải được đặc
biệt chú trọng, nhất là trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được
nội lực của kinh tế hộ gia đình. Thêm vào đó, với sự hỗ trợ từ tín dụng ngân hàng, các

ngành nghề mới cho thu nhập cao sẽ dần thu hút được người lao động, tìm kiếm được
thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước cho các sản phẩm của nó. Kinh tế nông thôn
từ đó có cơ sở để phát triển một cách toàn diện, gắn nông – lâm - ngư nghiệp với công
nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng
thương mại, du lịch, dịch vụ giữa các khu vực trong và ngoài nước.
Như vậy, tín dụng ngân hàng kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản
xuất phát triển, giúp các hộ tìm được ngành nghề phù hợp, đem lại thu nhập cao và
việc làm cho các thành viên.
Cuối cùng, tín dụng ngân hàng gián tiếp giúp giải quyết nhiều vấn đề xã hội
cấp bách ở nông thôn thông qua việc hỗ trợ kinh tế hộ sản xuất. Nhờ có vốn vay từ
ngân hàng mà người dân có nhiều cơ hội việc làm, tối thiểu hoá thời gian nhàn rỗi và
tối đa hoá năng suất lao động. Thu nhập cho hộ sản xuất và người dân tăng, đồng
nghĩa với chất lượng cuộc sống tăng, tệ nạn xã hội được đẩy lùi và an ninh trật tự
được đảm bảo. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần thực hiện các chính sách, chủ
trương của Nhà nước, mà đáng kể là các chính sách phát triển nông thôn, xoá đói
giảm nghèo, hỗ trợ và nâng cao vai trò xã hội của phụ nữ… cùng các chủ trương phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế, thương mại
quốc tế của đất nước.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng là cơ sở và đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế
hộ gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường, thể hiện rõ rệt ở việc đáp ứng nhu cầu
về vốn của người dân, kích thích vốn lưu chuyển và được sử dụng một cách có hiệu
quả, mở rộng, thúc đẩy hình thành các ngành nghề mới bên cạnh việc phát huy các
ngành nghề truyền thống. Qua đó, tín dụng ngân hàng nâng cao cuộc sống của người
dân, mở rộng kinh tế hộ sản xuất và đưa nông thôn phát triển một cách toàn diện.
13
1.2.3. Các quy định và chính sách của Nhà nước đối với tín dụng hộ sản xuất
Phát triển kinh tế hộ sản xuất và phát triển nông nghiệp, nông thôn từ lâu đã
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện hỗ trợ người dân từ
việc mua sắm tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị… đến việc hướng dẫn phương thức
sản xuất kinh doanh hiệu quả, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Vốn sản xuất, một hạn chế

thường gặp của các hộ sản xuất ở nông thôn từ đó cũng được Nhà nước lưu ý và có
những biện pháp giúp đỡ.
Tín dụng ngân hàng, một trong những kênh vay vốn chủ yếu của người dân, trở
thành một công cụ hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế nông nghiệp, nông
thôn của Nhà nước. Ngay từ những năm đổi mới nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hàng loạt
quy định, chính sách của Nhà nước đối với tín dụng hộ sản xuất được ra đời và thực
hiện. Cần nhắc đến đầu tiên là Nghị định 14/CP của Chính phủ được ban hành ngày
2/3/1993 sau việc tổng kết một năm làm thử cho vay vốn theo Chỉ thị số 202/CT ngày
28/6/1991 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Kèm theo
nghị định trên là thông tư hướng dẫn số 01/TĐ-NH ra ngày 26/03/1993 của thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Theo Nghị định này, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng, tổ chức
tín dụng thực hiện cho vay đối với hộ sản xuất thuộc nông, lâm, ngư và diêm nghiệp
không phân biệt thành phần kinh tế, thực hiện cho vay trực tiếp đến các hộ sản xuất
với đầy đủ các loại hình cho vay ngắn, trung và dài hạn. Thêm vào đó, lãi suất cho vay
với các đối tượng kinh tế này phải được các ngân hàng quy định và công bố cụ thể tuỳ
vào đặc điểm từng đối tượng, từng vùng kinh tế trong thời gian phù hợp với quan hệ
cung cầu vốn, bảo đảm lợi ích cho cả bên vay và bên cho vay.
Đến năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-
TTg ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Đi theo đó là văn bản số 302/CV-NHNN của thống đốc Ngân hàng
Nhà nước và văn bản số 791/NHNN–06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông Nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNT) hướng dẫn thực hiện quyết định
trên. Với Quyết định 67 này, nguồn vốn huy động để cho vay phát triển nông nghiệp,
nông thôn và cách thức huy động được xác định cụ thể và rõ ràng, mục đích cấp tín
dụng của ngân hàng nhằm vào mọi khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, đồng
thời giúp phát triển các ngành, nghề thủ công, cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng ở
nông thôn. Đối với bản thân hộ gia đình sản xuất, Quyết định 67 quy định cụ thể cơ
chế cấp tín dụng, bao gồm cơ chế bảo đảm tiền vay khi ngân hàng cấp tín dụng cho
đối tượng này. Theo đây, “Đối với hộ gia đình, ngân hàng cho vay đến 10 triệu đồng,

người vay không phải thế chấp tài sản chỉ nộp kèm đơn xin vay, giấy chứng nhận
14
quyền sử dụng đất.” và “Đối với các hộ làm kinh tế hàng hoá, kinh tế trang trại, ngân
hàng cho vay trên 10 triệu đồng người vay phải thực hiện các quy định bảo đảm tiền
vay của ngân hàng”. Ngoài ra đối với các loại tín dụng thực hiện theo chính sách Nhà
nước như cho vay hộ nghèo, cho vay đóng mới tàu đánh bắt hải sản, cho vay các hộ
thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn… thì người vay không phải thực
hiện quy định về bảo đảm tiền vay. Quyết định này cũng khuyến khích
NHNN&PTNT tích cực mở rộng mạng lưới gồm các cơ sở giao dịch và trang thiết bị
làm việc để phục vụ nhanh chóng nhu cầu của người dân vay vốn phát triển nông
nghiệp, nông thôn, khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác tham gia cấp
tín dụng cho những đối tượng này.
Sau 10 năm thực hiện theo Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ, cùng với
các tổ chức tín dụng khác, NHNN&PTNT Việt Nam đã thu được những tiến bộ tích
cực trong việc cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cuối năm 2009, tổng nguồn
vốn đạt 434.331 tỷ đồng, tăng gấp 11,2 lần so với cuối năm 1999. Ngân hàng hoàn
thành tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt ưu tiên đầu tư cho nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Đến 31/12/2009, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt
354.112 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm 68,3% tổng
dư nợ, riêng cho vay hộ nông dân chiếm 51%. Như vậy, trên 80% hộ nông dân cả
nước được sử dụng vốn của ngân hàng.
Năm 2010, Chính phủ đã cho ra đời Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày
12/4/2010, đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong chính sách của Nhà nước đối với tín
dụng nông nghiệp, nông thôn, phù hợp với tình hình mới và về cơ bản khắc phục được
những bất cập của Quyết định 67 sau hơn 10 năm thực hiện.
Một thay đổi lớn của Nghị định 41 so với Quyết định 67 là khối lượng cấp tín
dụng không có tài sản bảo đảm tăng rõ rệt. Theo đây, kể từ ngày 1/6/2010, cá nhân, hộ
sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có thể được xem xét cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng. Cũng với hình thức cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản, các hộ kinh doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông

nghiệp, nông thôn được xem xét cho vay tối đa đến 200 triệu đồng. Ngoài ra, ngân
hàng và các tổ chức tín dụng xem xét cho vay tín chấp đối với các đối tượng khách
hàng là cá nhân, hộ gia đình trên cơ sở có bảo đảm của các tổ chức chính trị - xã hội ở
nông thôn theo quy định hiện hành. Về lãi suất và thời hạn cho vay, các tổ chức tín
dụng và khách hàng thoả thuận với nhau để tìm ra mức phù hợp, không trái với quy
định của pháp luật. Trường hợp khách hàng chưa trả được nợ đúng hạn cho tổ chức tín
dụng do nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh , tổ chức tín dụng xem xét
cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng theo quy định hiện hành, đồng thời căn cứ dự
15
án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả được nợ của khách
hàng để xem xét cho vay mới, mà không phụ thuộc vào dư nợ cũ của khách hàng chưa
trả nợ đúng hạn. Đồng thời, Chính phủ có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với tổ chức, cá
nhân vay vốn bị thiệt hại nặng, không có khả năng trả nợ.
Có thể thấy, Nghị định 41 ra đời giúp chương trình cho vay vốn sản xuất nông
nghiệp, nông thôn càng được tăng cường và phủ sóng rộng khắp, vai trò của tín dụng
nông nghiệp, nông thôn trong việc góp phần tăng trưởng, ổn định kinh tế- chính trị- xã
hội ở nông thôn ngày càng lớn.
Như vậy, tín dụng hộ sản xuất nói riêng và tín dụng phát triển nông nghiệp,
nông thôn nói chung luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Thông qua các quy định,
chính sách trên của Nhà nước, hộ sản xuất luôn được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
để vay vốn ngân hàng một cách nhanh chóng, hợp lý; đồng thời được tổ chức tín dụng
và Chính phủ hỗ trợ tích cực khi không trả được nợ đúng hạn, nhất là trong trường
hợp vì lí do khách quan như thiên tai, dịch bệnh…
1.3. Chất lượng tín dụng hộ sản xuất
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng hộ sản xuất
Cũng như tất cả các sản phẩm vật chất hay dịch vụ khác trong nền kinh tế, tín
dụng được coi là một sản phẩm của ngân hàng và vì thế, nó phải có chất lượng và quy
định về chất lượng riêng. Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo nhu cầu của khách
hàng và khả năng cạnh tranh của ngân hàng, chất lượng tín dụng luôn đòi hỏi phải
không ngừng gia tăng. Nếu như chất lượng nói chung được các nhà kinh tế nhận xét là

“sự phù hợp về mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá
nào đó” thì chất lượng tín dụng của ngân hàng được định nghĩa là khả năng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng và góp phần vào
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Khi xem xét về chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng của tín dụng hộ
sản xuất nói riêng, chúng ta luôn luôn phải đánh giá hiệu quả của tín dụng trên cả ba
phương diện:
- Đối với khách hàng, tín dụng được cấp ra phải đảm bảo đầy đủ yêu cầu, mục
đích chính đáng của khách hàng. Điều này gồm có sự phù hợp về lãi suất, thời
hạn tín dụng, phương thức, hình thức thanh toán bên cạnh việc thực hiện các
thủ tục đơn giản, gọn nhẹ mà vẫn không trái với các nguyên tắc tín dụng ngân
hàng. Nhìn chung, ngân hàng cấp tín dụng trên cơ sở tạo mọi điều kiện thuận
16
lợi nhất để khách hàng vay vốn, phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút được
ngày càng đông khách hàng.
- Đối với bản thân ngân hàng, tín dụng mà ngân hàng đưa ra phải phù hợp với
thực lực của ngân hàng về phạm vi, mức độ và giới hạn cấp tín dụng và các
hình thức cấp tín dụng nhằm đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và có
lãi của tín dụng, hạn chế thấp nhất mức rủi ro cho ngân hàng, đảm bảo khả
năng thanh toán và sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
- Đối với sự phát triển chung của kinh tế - xã hội, tín dụng ngân hàng phải góp
phần phục vụ sản xuất, lưu thông và tiêu thụ hàng hoá trong nền kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội như việc làm, an ninh, văn hoá…, giúp khai thác được
khả năng tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và đầu tư, hỗ trợ các mục
tiêu phát triển và tăng trưởng chung của kinh tế - xã hội.
Chất lượng tín dụng được hình thành dần dần trong một quá trình kết hợp hoạt
động của nhiều con người, nhiều bộ phận khác nhau trong ngân hàng. Do đó, có thể
nói chất lượng tín dụng được xây dựng từ nền tảng là sự hoạt động có hiệu quả, có hệ
thống của tổ chức tín dụng. Khi xác định chất lượng tín dụng, ta xem xét đến nhiều
yếu tố khác nhau như khả năng thu hút được nhiều khách hàng tốt, thủ tục cấp tín

dụng đơn giản và hiệu quả, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi
suất, chi phí nghiệp vụ tín dụng… Chất lượng tín dụng còn được coi là một chỉ tiêu
thể hiện mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại đối với thị trường và nền kinh
tế, có thể được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các tổ
chức tín dụng khác.
Tóm lại, chất lượng tín dụng, trong đó có chất lượng tín dụng hộ sản xuất là
một khái niệm, một chỉ tiêu quan trọng, có ý nghĩa đối với cả ngân hàng, khách hàng
và nền kinh tế nói chung. Bản chất của chất lượng tín dụng nằm ở hiệu quả trong thực
hiện hoạt động tín dụng và độ tin cậy của các quan hệ tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất
lượng tín dụng cũng chính là đảm bảo hiệu quả thực hiện các hoạt động tín dụng và
tăng cường độ tin cậy giữa ngân hàng và khách hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng của tín dụng hộ sản xuất
Tín dụng là sản phẩm chính của ngân hàng và chiếm phần lớn trong tổng tài
sản Có của ngân hàng thương mại. Do đó, đánh giá chất lượng của tín dụng là một
hoạt động thường xuyên và không thể thiếu, thể hiện chất lượng hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Để đánh giá hiệu quả hay chất lượng của tín dụng hộ sản xuất và tín
dụng ngân hàng nói chung, ta sử dụng kết hợp nhiều chỉ tiêu khác nhau, bao gôm cả
chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng.
1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính
17
Các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng chủ yếu nhằm vào việc
thực hiện các hoạt động tín dụng một cách đúng nguyên tắc, đầy đủ điều kiện mà pháp
luật và Nhà nước quy định, bên cạnh việc thực hiện thẩm định và cấp tín dụng minh
bạch, rõ ràng và đầy đủ các bước.
Thứ nhất, về nguyên tắc cho vay và điều kiện cho vay, khoản tín dụng phải
đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc trong các văn bản của Nhà nước. Ở Việt Nam, nguyên
tắc cho vay được quy định trong Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng, ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tại đây quy định rõ: “Khách hàng vay vốn của tổ
chức tín dụng phải đảm bảo: 1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong

hợp đồng tín dụng; 2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng”. Cũng trong văn bản này, khách hàng muốn vay vốn phải có
đủ các điều kiện thì mới được ngân hàng và tổ chức tín dụng xem xét và cấp tín dụng.
Điều kiện đầu tiên và tiên quyết là khách hàng phải có “năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật”.
Thêm vào đó, khách hàng phải cho thấy mình có “mục đích sử dụng vốn vay hợp
pháp; có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; có dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả, hoặc có dự án đầu tư,
phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật; thực hiện
các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Thực hiện đúng với nguyên tắc và điều kiện cho vay
thể hiện tính hợp pháp của khoản tín dụng, từ đó cho thấy chất lượng tín dụng cao
ngay từ giai đoạn xem xét, thẩm định để cấp vốn.
Thứ hai, hiệu quả của quy trình cho vay cũng phản ánh chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Quy trình cho vay ngoài yêu cầu tối thiểu là đúng theo pháp luật và quy
định của Nhà nước còn cần phải phù hợp với quy định riêng của từng ngân hàng và tổ
chức tín dụng, cũng như phù hợp với tính chất từng khoản vay. Hầu hết mỗi ngân
hàng thương mại đều xây dựng riêng cho mình một quy trình cho vay dựa trên cơ sở
là các văn bản và hướng dẫn của Nhà nước, trong đó gồm nhiều bước thực hiện và
quy định đối với từng nhóm đối tượng khách hàng, từng hình thức cho vay. Các bước
thực hiện cụ thể có thể khác nhau với mỗi ngân hàng nhưng trình tự cho vay luôn là
thẩm định trước khi cho vay; kiểm tra, giám sát trong khi cho vay và kiểm tra, giám
sát, thu hồi, xử lý nợ sau khi cho vay. Như vậy, ta có thể thấy chất lượng tín dụng
nằm ở việc thực hiện quy trình này, do đó đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng là phải xây
dựng một quy trình cho vay thích hợp với bản thân ngân hàng sao cho đem lại hiệu
quả cao nhất và yêu cầu đối với mỗi cán bộ tín dụng phải thực hiện nghiêm ngặt,
chính xác theo quy trình trên.
18
1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu định lượng là công cụ đơn giản nhưng rất hữu hiệu giúp ngân hàng

thương mại và tổ chức tín dụng nhận xét về chất lượng tín dụng một cách cụ thể và
chính xác hơn cả. Từ các con số mà các chỉ tiêu này đưa ra, ngân hàng dễ dàng nhận
biết được yếu kém trong hoạt động tín dụng của mình để nhanh chóng tìm biện pháp
khắc phục. Đối với tín dụng hộ sản xuất nói riêng, các chỉ tiêu mà tổ chức tín dụng
thường sử dụng là chỉ tiêu về doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ quá hạn của
hộ sản xuất và vòng quay tín dụng hộ sản xuất.
• Chỉ tiêu doanh số cho vay hộ sản xuất: là số tuyệt đối phản ảnh tổng số vốn mà
ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong một thời kỳ nhất định. Doanh số cho vay
hộ sản xuất còn được xem xét trong mối quan hệ với tổng doanh số cho vay
của ngân hàng, thể hiện qua chỉ tiêu tỷ trọng cho vay hộ sản xuất:
Tỷ trọng cho vay hộ sản xuất =
Doanh số cho vay hộ sản xuất
x 100%
Tổng doanh số cho vay
• Chỉ tiêu doanh số thu nợ hộ sản xuất: là số tuyệt đối phản ánh tổng số tiền mà
ngân hàng đã thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời
kỳ nhất định. Ngoài ra, ngân hàng còn sử dụng hai chỉ tiêu tương đối khác để
đánh giá tình hình thu nợ hộ sản xuất, xét trên quan hệ của doanh số thu nợ với
tổng dư nợ và với doanh số cho vay:
Tỷ lệ thu nợ hộ sản xuất =
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
x 100%
Tổng dư nợ hộ sản xuất
hoặc:
Tỷ lệ thu nợ hộ sản xuất =
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
x 100%
Doanh số cho vay hộ sản xuất
• Chỉ tiêu dư nợ quá hạn hộ sản xuất: là số tuyệt đối phản ánh tổng số tiền mà
ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ngày khoản cho

vay đến hạn thanh toán ở thời điểm xem xét. Bên cạnh đó còn có các chỉ tiêu
tương đối liên quan đến nợ quá hạn hộ sản xuất, gồm có:
Tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất =
Nợ quá hạn hộ sản xuất
x 100%
Tổng dư nợ hộ sản xuất
Tỷ lệ nợ khó đòi hộ sản xuất =
Tổng nợ khó đòi hộ sản xuất
x 100%
Tổng nợ quá hạn hộ sản xuất
Với chỉ tiêu dư nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất, các chỉ tiêu này
càng nhỏ thì chất lượng tín dụng hộ sản xuất càng cao. Trong khi đó, chỉ tiêu tỷ lệ nợ
khó đòi hộ sản xuất thể hiện khả năng ngân hàng không thu hồi được nợ, chỉ tiêu này
19
cao nghĩa là khả năng mất vốn của ngân hàng cao.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất: là chỉ tiêu thể hiện việc sử dụng
vốn mà ngân hàng cho hộ sản xuất vay có hiệu quả hay không. Chỉ tiêu này
được tính như sau:
Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất =
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
Dư nợ bình quân hộ sản xuất
Trong đó:
Dư nợ bình quân hộ sản xuất =
Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm
2
Vòng quay vốn càng lớn trong khi dư nợ hộ sản xuất tăng thể hiện hiệu quả cao
trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng của hộ sản xuất, nghĩa là chất lượng tín dụng
hộ sản xuất của ngân hàng cao.
Để đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất, ta còn có thể sử dụng một số chỉ
tiêu khác như:

- Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất: chỉ tiêu này thường được sử
dụng kết hợp với các chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn, thể hiện hiệu quả cho vay hộ sản
xuất qua khả năng thu hút hộ sản xuất đến vay vốn của ngân hàng qua các năm, các
thời kỳ.
- Chỉ tiêu tỷ lệ cho vay trung và dài hạn hộ sản xuất: là chỉ tiêu tương đối được
tính bằng phần trăm giữa dư nợ cho vay trung và dài hạn hộ sản xuất với tổng dư nợ
hộ sản xuất. Chỉ tiêu này thể hiện mức độ đáp ứng nhu cầu của hộ sản xuất về vốn
trung và dài hạn. Vốn trung và dài hạn có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế hộ, là yếu tố
giúp hộ mở rộng và ổn định sản xuất kinh doanh lâu dài. Tỷ lệ vốn trung và dài hạn
được NHNN&PTNT Việt Nam đặt mục tiêu cho từng giai đoạn, tuy vậy, tỷ lệ này cao
hay thấp phụ thuộc nhiều vào nhu cầu nhất định của từng địa phương.
- Chỉ tiêu về lợi nhuận cho vay hộ sản xuất thể hiện chất lượng tín dụng hộ sản
xuất tại ngân hàng, cho thấy hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng và khả năng
mà đồng vốn cho vay hộ sản xuất đem lại thu nhập cho ngân hàng.
Ngoài các chỉ tiêu kể trên, trong thực tế, mỗi ngân hàng và tổ chức tín dụng có
thể sử dụng kết hợp với rất nhiều chỉ tiêu khác tuỳ thuộc vào các yêu cầu về đánh giá
chất lượng tín dụng hộ sản xuất và đặc điểm riêng của từng ngân hàng.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của tín dụng hộ sản xuất
Tín dụng hộ sản xuất là một sản phẩm của ngân hàng, đóng góp một phần quan
trọng vào thu nhập của ngân hàng, đặc biệt là đối với NHNN&PTNT. Vì thế, không
20
ngừng cải thiện và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất là yêu cầu không thể
thiếu đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng nói chung và NHNN&PTNT nói riêng.
Chất lượng tín dụng hộ sản xuất lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau ở những
mức độ khác nhau, đòi hỏi ngân hàng cần nắm bắt rõ các yếu tố đó để tìm ra cách tốt
nhất nhằm tăng cường chất lượng tín dụng hộ sản xuất cho ngân hàng mình.
1.3.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường khách quan
Ngân hàng thương mại hay tổ chức tín dụng nào cũng tồn tại và phát triển
trong phạm vi môi trường, điều kiện cụ thể, vì thế nó chịu tác động cả trực tiếp và
gián tiếp từ đặc điểm vốn có và những sự thay đổi của môi trường đó. Hoạt động tín

dụng hộ sản xuất của ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Cụ thể, tín dụng
hộ sản xuất chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, môi trường pháp lý và môi
trường kinh tế xã hội, trong đó môi trường tự nhiên có tác động đặc biệt lớn đến chất
lượng tín dụng hộ sản xuất.
Như đã nói đến ở trên, hộ sản xuất ở nước ta phần đông vẫn hoạt động sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ở lĩnh vực này, môi trường và
điều kiện tự nhiên có vai trò tiên quyết đối với thành quả của quá trình sản xuất kinh
doanh, từ đó tác động trực tiếp đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Nếu điều kiện tự
nhiên thuận lợi, tất yếu dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, doanh thu lớn, khả
năng hộ hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng được đảm bảo. Ngược lại, khi có
thiên tai hay dịch bệnh, hộ gia đình sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nguy
cơ bị thiệt hại nặng nề, dẫn đến việc trả nợ muộn hoặc không có khả năng trả nợ cho
ngân hàng, khiến cho chất lượng của khoản tín dụng đó là thấp. Vì lí do trên, ngân
hàng luôn phải cân nhắc xem xét ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến dự án sản
xuất kinh doanh của hộ cần vay vốn để hạn chế tối đa rủi ro cho ngân hàng. Tuy vậy,
ngân hàng rất khó có thể lường trước được sự biến đổi bất lợi của tự nhiên.
Là một đơn vị kinh doanh trong xã hội, ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều
phải hoạt động dưới những quy định của luật pháp. Những quy định này được ra đời
nhằm đảm bảo quyền lợi và mục tiêu phát triển của ngân hàng nói riêng và các chủ thể
khác trong nền kinh tế nói chung. Tuỳ theo từng giai đoạn cụ thể mà quy định về pháp
lý đối với tổ chức tín dụng và đối với hoạt động cho vay hộ sản xuất có thể thay đổi.
Dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan pháp luật và cơ quan chức năng, chất
lượng tín dụng hộ sản xuất của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng rất sâu nặng. Chỉ khi
nào môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi thì hoạt động tín dụng của ngân hàng mới
dễ dàng phát triển. Thêm vào đó, pháp luật và các quy định của Nhà nước cũng là cơ
sở giúp ngân hàng và các tổ chức tín dụng xử lý, giải quyết những vấn đề liên quan
đến hoạt động tín dụng, là công cụ hỗ trợ, khuyến khích hộ sản xuất tiếp cận với vốn
21
vay ngân hàng và thúc đẩy hiệu quả sử dụng đồng vốn đó.
Tình hình kinh tế xã hội cũng là một yếu tố khách quan có tác động gián tiếp

đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Yếu tố này rất đa dạng phụ thuộc vào đặc điểm
của từng vùng, từng địa phương. Ở nước ta, từ khi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
được chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế hộ gia
đình có điều kiện để phát triển ổn định về cả hiệu quả và quy mô. Điều này làm tăng
chất lượng tín dụng hộ sản xuất khi mà các hộ có môi trường kinh doanh thuận lợi, thu
nhập tăng cao, có điều kiện để vay vốn ngân hàng nhiều hơn và có khả năng tốt trong
việc hoàn trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn.
1.3.3.2. Các yếu tố thuộc về phía khách hàng hộ sản xuất
Hộ sản xuất là chủ thể vay và sử dụng vốn của ngân hàng, hiệu quả của vốn
vay đó tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ. Nhằm đảm bảo chất lượng
của mỗi khoản tín dụng, ngân hàng luôn phải xem xét, thẩm định kỹ lưỡng các thông
tin về bản thân khách hàng và dự án sản xuất kinh doanh được đưa ra. Đối với khách
hàng là hộ sản xuất, do ngành nghề của họ rất đa dạng, quy mô lớn nhỏ khác nhau và
việc quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh không thực sự rõ ràng, bài bản nên việc thẩm
định để cho vay vốn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, do chính sách hỗ trợ để phát triển
nông nghiệp, nông thôn, các hộ kinh tế gia đình chỉ cần đáp ứng được những điều kiện
rất đơn giản để có thể vay vốn của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng hộ sản xuất phụ thuộc vào phía khách hàng trước hết ở
việc họ có sử dụng vốn vay vào đúng mục đích đã trình bày với ngân hàng và đúng
pháp luật hay không, cho thấy độ tin cậy cao hay thấp của quan hệ tín dụng. Trường
hợp này thường xảy ra với hộ sản xuất có trình độ chưa cao, chưa hiểu rõ và thực sự
nghiêm túc trong việc đảm bảo sử dụng vốn đúng như cam kết. Đối với những hộ sản
xuất này, ngân hàng luôn phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Tuy vậy, rất khó cho ngân
hàng có thể lường trước được ý định của khách hàng, cũng như giải quyết hậu quả khi
có rủi ro xảy ra.
Trình độ của hộ sản xuất cũng tác động lên hiệu quả của khoản tín dụng. Hộ
kinh tế gia đình có trình độ sản xuất và quản lý cao sẽ sử dụng vốn có hiệu quả hơn
hẳn các hộ có trình độ hạn chế. Bên cạnh đó, họ cũng có ý thức và nhận thức cao hơn
về việc sản xuất kinh doanh sao cho đảm bảo trả nợ được ngân hàng đồng thời mang
lại thu nhập ổn định cho các thành viên trong hộ. Những hộ này cũng luôn biết tìm tòi

và không ngừng cải tiến phương thức sản xuất, có nhu cầu ngày càng lớn về vốn ngân
hàng để mở rộng quy mô.
1.3.3.3. Các yếu tố thuộc về ngân hàng và tổ chức tín dụng
22
Hiệu quả hoạt động tín dụng và quan hệ tín dụng không chỉ nằm ở phương diện
sử dụng vốn của khách hàng mà còn nằm ở việc thực hiện cho vay của bản thân ngân
hàng thương mại. Trong quá trình cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng, gồm cả
khách hàng hộ sản xuất, những yếu tố sau có tác động chính đến chất lượng của khoản
tín dụng:
- Chính sách, quy chế cho vay của ngân hàng: là cơ sở thực hiện cho vay của
ngân hàng, có mặt xuyên suốt tất cả các khâu của quá trình cho vay, do đó ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Để nâng cao hiệu quả tín dụng, việc đầu tiên mà bất
cứ ngân hàng hay tổ chức tín dụng nào phải làm cũng là xây dựng cho mình một quy
trình cho vay hợp lý, đúng đắn. Một quy trình cho vay lý tưởng không trái với quy
định của luật pháp và Nhà nước, có thủ tục đơn giản mà vẫn đầy đủ các khâu cần
thiết, áp dụng hữu hiệu đối với từng nhóm đối tượng khách hàng, dễ dàng được thực
hiện bởi cán bộ tín dụng và giúp giải quyết được nhiều vấn đề khi có rủi ro xảy ra.
Chính sách tín dụng tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng vay vốn, là động lực để
khách hàng sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và trả nợ ngân hàng đúng thời hạn.
- Công tác thực hiện quy chế tín dụng của ngân hàng phải được tuân thủ một
cách nghiêm ngặt thì mới đảm bảo được chất lượng tín dụng. Việc này không chỉ nằm
ở ý thức của mỗi cán bộ tín dụng mà còn đòi hỏi việc tổ chức, kiểm tra và tạo điều
kiện của lãnh đạo ngân hàng, của bộ phận cấp cao với các bộ phận dưới quyền kiểm
soát của mình.
- Trình độ và ý thức của cán bộ tín dụng: cán bộ tín dụng là nhân viên, người đại
diện thực hiện cấp tín dụng của ngân hàng, là người trực tiếp thẩm định, quyết định
cho vay, kiểm tra, giám sát trong khi cho vay và thu hồi, xử lý những vấn đề phát sinh
trong thu hồi nợ. Như vậy, đảm bảo chất lượng cho vay đòi hỏi cán bộ tín dụng phải
có trình độ nghiệp vụ nhất định, ý thức thực hiện quy chế cao. Điều này càng có ý
nghĩa hơn trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Cán bộ tín dụng có trình

độ và ý thức tốt sẽ là người tạo nên những khoản tín dụng có chất lượng và xử lý hợp
lý những vấn đề bất lợi nảy sinh, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Như vậy, đội ngũ
nhân viên, cán bộ giỏi, có đạo đức, có năng lực là điều kiện tiền đề để ngân hàng tồn
tại và phát triển. Ngoài việc giúp đỡ đi kèm với kiểm tra, đôn đốc thuờng xuyên, ngân
hàng cần liên tục có những chính sách đào tạo, trau dồi trình độ cho các cán bộ và
chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của họ.
- Hệ thống thông tin ngân hàng: là nhân tố hỗ trợ ngân hàng trong việc nắm bắt
thông tin khách hàng cả trước, trong và sau khi vay. Hệ thống thông tin giúp ngân
hàng nhận biết và ngăn chặn được những khoản cho vay xấu ngay từ đầu, bên cạnh
đó, giúp ngân hàng kịp thời cập nhật được tình hình sản xuất kinh doanh của khách
hàng, từ đó hiểu được khả năng tài chính của khách hàng và có những biện pháp sớm
23
để giải quyết những vấn đề bất lợi phát sinh trong và sau khi vay có ảnh hưởng đến
khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT
TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HOÀNG MAI
2.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT
Hoàng Mai
Chi nhánh NHNo&PTNT Hoàng Mai có trụ sở tại địa chỉ số 813, đường Giải
Phóng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Chi nhánh được chính
thức thành lập vào tháng 8 năm 2004 căn cứ theo Quyết định số 305/QĐ/HĐQT-TCCB
ra ngày 16/8/2004 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
Từ khi thành lập cho tới nay, chi nhánh được xếp là chi nhánh loại 2 phụ thuộc
NHNo&PTNT Việt Nam. Tính đến thời điểm đầu năm 2011, chi nhánh có tất cả 6 phòng
giao dịch với các tên gọi lần lượt là: Giáp Bát, Đại Kim, Cửa Nam, Nguyễn Trãi, phòng
giao dịch số 6 và phòng giao dịch số 5.
Theo quy định chung của NHNo&PTNT Việt Nam, cũng như các chi nhánh
loại 1 và loại 2 khác phụ thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động của chi nhánh

Hoàng Mai là hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín
dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, phù hợp với quy định của pháp luật nhằm
mục đích không ngừng nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng và góp phần vào việc thực
hiện chính sách tiền tệ Quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế đất nước.
Tuy có trụ sở chính nằm ở khu vực quận Hoàng Mai nhưng với 6 phòng giao
dịch nằm ở nhiều quận, huyện của thành phố nên nhìn chung chi nhánh Hoàng Mai
phục vụ nhu cầu của các khách hàng chính là dân cư khu vực phía Nam của thành phố
Hà Nội cũ, gồm có các quận Hoàng Mai, Thanh Xuân, Đống Đa, Hai Bà Trưng và
huyện Thanh Trì. Ngoài ra do không bị hạn chế, chi nhánh hiện nay phục vụ các đối
tượng khách hàng khác nhau từ mọi khu vực trong thành phố.
Tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới và trong nước từ năm 2008 tới nay đã
trải qua nhiều biến động lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của
NHNo&PTNT và chi nhánh Hoàng Mai, đặc biệt là từ hậu quả nặng nề của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Các chính sách tiền tệ
của Nhà nước để đối phó với tình hình kinh tế trong thời kỳ này, do vậy, cũng gây ra
tác động cả tích cực và tiêu cực đến kết quả kinh doanh của chi nhánh.
2.1.1. Nguồn vốn
25

×