NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
--------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN
XUẤT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN
HUYỆN TĨNH GIA
Giáo viên hướng dẫn : TH.S NGUYỄN HỒNG THẮNG
Sinh viên thực hiện : PHAN THỊ HẢI
Lớp : 30B
Khoa : TẠI CHỨC
HÀ NỘI – 2008
LỜI MỞ ĐẦU
Khoá luận tốt nghiệp
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới Đảng và nhà nước ta xác định mục tiêu là
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển nông thôn là nhiệm vụ
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Bởi vậy phương hướng
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn trong những năm tới là: “Tạo dựng
cho nông thôn có nền kinh tế phong phú đa dạng đảm bảo phát triển nhanh
vững chắc trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Sự hình thành và phát triển của kinh tế hộ sản xuất đã mang lại
những kết quả to lớn cho nền kinh tế nói chung và lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn nói riêng. Trong tình hình hiện nay hộ sản xuất là đơn vị kinh tế
cung cấp hầu hết nông sản cho nền kinh tế quốc dân do vậy phát triển kinh
tế hộ sản xuất với mô hình thích hợp là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn
phát triển kinh tế trước mắt và trong tương lai.
Hiện nay kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển nhanh nhu cầu vốn
cho nền kinh tế hộ gia đình ngày càng lớn đòi hỏi ngân hàng đáp ứng đầy
đủ kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, song với tính chất
phức tạp của loại hình kinh tế này: Món vay nhỏ, chi phí nghiệp vụ cao, địa
bàn hoạt động rộng, tiềm ẩn rủi ro cao do phụ thuộc yếu tố khách quan
thường xảy ra nên việc đầu tư cho vay hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Đây là nguyên nhân làm chậm tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn và là khó khăn cho nhiều chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp trong
hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vậy với mong muốn đóng góp sức
mình vào sự nghiệp phát triển ngân hàng nông nghiệp nói chung và ngân
hàng nông nghiệp và PTNT Huyện tĩnh gia nói riêng cùng với những gì đã
được học ở trường học viện ngân hàng em đã chọn đề tài:
“ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNNo &
PTNT huyện Tĩnh gia - Thanh Hóa ”
để làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
2
Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài này lấy hoạt động cho vay hộ sản xuất làm đối tượng nghiên
cứu và trên góc độ cho vay của NHNo & PTNT huyện Tĩnh gia đối với hộ
sản xuất.
2. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại
NHNo & PTNT huyện Tĩnh gia - Thanh Hóa.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất
tại NHNo & PTNT huyện Tĩnh gia trong thời gian tới.
Nội dung của đề tài này là một vấn đề rất phức tạp cả về lý luận và
thực tiễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tìm hiểu vẫn còn hạn chế trong thực
tiễn, thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu còn hẹp do đó sẽ
không tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Với mong muốn hoàn thiện
đề tài của mình đáp ứng được những đòi hỏi cả về lý thuyết và thực tiễn,
em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của Ban giám đốc
NHNo & PTNT huyện Tĩnh gia để cho đề tài được hoàn thành.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo đã tận tình hướng dẫn cho em,
và toàn thể cán bộ CNVC của NHNo & PTNT huyện Tĩnh gia - Thanh
Hóa nơi em đang công tác đã giúp em hoàn thành khoá luận đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
3
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1- HỘ SẢN XUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1- Khái niệm và đặc điểm hộ sản xuất.
1.1.1.1- Khái niệm
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng
ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có nước ta mà còn có ở tất cả các
nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới.
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn
ngữ “Hộ” là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà. Nhóm người
đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công.
Liên hợp quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng sống chung dưới
một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.
Trên góc độ Ngân hàng, “Hộ sản xuất” là một thuật ngữ được dùng
trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế
chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ
được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định
và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài
sản chung và hoạt động kinh tế chung. Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành
một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát
triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, NHNo &
PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định số 499A ngày
2/9/1993, theo đó thì khái niệm Hộ sản xuất được hiểu như sau: “Hộ sản
xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
4
Khoá luận tốt nghiệp
thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất của mình”.
1.1.1.2- Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất
- Hộ sản xuất được quyền tự chủ phát triển sản xuất và tự chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.Trước đây hộ sản xuất là thành viên
nhận khoán của hợp tác xã mọi việc đều phải tuân thủ theo chỉ đạo của tập
thể thì nay với cơ chế mới của Đảng và nhà nước hộ sản xuất có quyền tự
chủ về công việc của mình.
- Hộ sản xuất chủ yếu hoạt động sản xuất trên quy mô nhỏ, có sức
lao động, có các điều kiện về đất đai. Song hộ sản xuất lại thiếu vốn, thiếu
hiểu biết về khoa học - kỹ thuật, thiếu kiến thức về thị trường nên sản xuất
kinh doanh còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Nếu không có sự hỗ trợ của
Nhà nước và cơ chế chính sách, về vốn thì kinh tế hộ không thể chuyển
sang sản xuất hàng hoá, không thể tiếp cận với cơ chế thị trường.
- Quy mô sản xuất và cơ sở vật chất của các hộ sản xuất ở các vùng,
các khu vực và các tỉnh thành khác nhau có sự chênh lệch nhau đáng kể. Sở
dĩ có sự khác biệt đó một phần là do mỗi vùng, mỗi khu vực có những đặc
điểm riêng về điều kiện địa lý, khí hậu nhưng phần lớn là do sự khác biệt
về tiềm năng kinh tế giữa các vùng cũng như khả năng của bản thân các hộ
sản xuất. Do có sự chênh lệnh lớn về quy mô và cơ sở vật chất giữa các hộ
cũng với sự tồn tại của một số lượng lớn các hộ sản xuất nhỏ lẻ tất yếu sẽ
dẫn đến quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Quá trình tích tụ và tập trung này sẽ góp phần giảm bớt tính phân tán và lạc
hậu của kinh tế tiểu nông tạo điều kiện phát triển, mở rộng sản xuất kinh tế
hộ.
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường, kinh tế hộ sản xuất cũng sẽ xuất hiện thêm nhiều
hình thức kinh tế hộ sản xuất khác nhau như: Hộ nhận khoán, hộ nhận thầu,
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
5
Khoá luận tốt nghiệp
hộ gia đình là thành viên của Hợp tác xã, nông trường, doanh nghiệp Nhà
nước, tập đoàn sản xuất. Sự xuất hiện của các hình thức tổ chức mới đã góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế hộ sản xuất, tăng thu nhập của hộ. Tuy
nhiên các hình thức tổ chức mới này cũng chịu mức độ rủi ro rất lớn, vì vậy
Nhà nước cần ban hành các chính sách hỗ trợ thích hợp để kinh tế hộ sản
xuất được củng cố và nâng cao vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế
quốc dân. Với những đặc trưng trên, kinh tế hộ sản xuất được coi là nhân tố
quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
1.1.3 Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi NQ 10- Bộ chính trị ban hành “ Đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế nông nghiệp ” hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế nông
thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư
vốn để thâm canh, tăng vụ, khai phá thêm hàng ngàn hécta đất mới, vừa đổi
mới cơ cấu sản xuất. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy
nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất... Điều đó khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản
xuất với vai trò là cầu nối trung gian với nền kinh tế, là đơn vị tích tụ vốn,
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở
nông thôn.
Hộ sản xuất có vai trò là chủ thể trong nền kinh tế nói chung và kinh
tế nông thôn nói riêng. Kinh tế nông nghiệp nông thôn muốn phát triển,
muốn hiện đại hoá Nông nghiệp nông thôn thì trước hết hộ sản xuất phải
được trang bị tư liệu sản xuất hiện đại, trang bị những kĩ năng sản xuất tiên
tiến và đặc biệt phải có vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh.
Hộ sản xuất góp phần quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm Nông -
Lâm - Ngư nghiệp, tạo ra của cải vật chất, làm đa dạng phong phú về
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
6
Khoá luận tốt nghiệp
chủng loại sản phẩm, hình thành các thị trường sản phẩm sôi động, tạo nên
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực Nông nghiệp nông thôn.
Hộ sản xuất là thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, thương
mại dịch vụ như máy móc, trang thiết bị… để phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng và sản xuất nông nghiệp, là nơi cần một lực lượng lao động lớn trong
xã hội. Hộ sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ
trương, đường lối chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách lao động,
chính sách huy động nội lực, chính sách phủ xanh đất trống đồi núi trọc,
chính sách khuyến nông, khuyến lâm… của Đảng và Nhà nước. Những
chính sách này đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là trong việc
giải phóng sức lao động của nông thôn, khuyến khích người dân phát huy
sức người, sức của để xây dựng quê hương đất nước. Thành tựu nổi bật
nhất trong lĩnh vực Nông nghiệp là chuyển nền nông nghiệp sản xuất tự
cấp, tự túc thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với tỉ trọng xuất khẩu
cao, giá trị sản xuất Nông-Lâm - Ngư nghiệp năm sau luôn cao hơn năm
trước.
Hộ sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố khối liên
minh công nông thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Với những vai trò đó đã đưa kinh tế hộ giữ một vị trí vị trí hết sức
quan trọng trong nền kinh tế.
+ Là cầu nối chuyển cơ cấu kinh tế tự cung sang sản xuất hàng hoá nhỏ.
+ Là đơn vị cơ bản để phân công lao động, tiếp nhận khoa học kỹ
thuật, bảo tồn và phát triển kinh nghiệm truyền thống.
Từ những vị trí trên đòi hỏi nhà nước cần phải có những chính sách
đầu tư một cách thoả đáng, có như vậy mới khai thác được ngồn lực sẵn có
trong nông thôn, từng bước đư nông thôn đi lên.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
7
Khoá luận tốt nghiệp
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT:
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng Ngân hàng:
- Khái niệm: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá
trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được
quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Trong quan hệ tín dụng của Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất thì
Ngân hàng là người chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (người cung
ứng vốn - người cho vay), còn hộ sản xuất là người (nhận cung ứng vốn -
người đi vay). Sau một thời gian nhất định hộ sản xuất trả lại số vốn đã
nhận từ Ngân hàng, số vốn hoàn trả lại lớn hơn số vốn ban đầu (phần lớn
hơn gọi là lãi).
- Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất
- Vốn cho vay hộ sản xuất thường có chi phí cao. Đó là những món
vay nhỏ, phân tán và đặc biệt là hay bị rủi ro do thiên tai hạn hán, dịch
bệnh, giá cả các mặt hàng nông sản thường xuyên biến động. Trong khi đó
chính phủ chưa có chính sách trợ giá cụ thể đẻ khuyến khích cho người
nông dân.
- Vốn đầu tư cho hộ sản xuất chủ yếu là vốn trung và dài hạn vì chủ
yếu để đầu tư chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và đa dạng hoá sản
phẩm trong nông nghiệp nông thôn
- Vốn cho vay hộ sản xuất thường qui định thời gian cho vay theo chu
kỳ sản xuất cây trồng vật nuôi. nguồn thu nhập chínhcủa hộ là từ sản phẩm
thu hoạc đem bán trên thị trường.
1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất:
Trong nhiều năm qua kể từ khi thành lập Ngân hàng quốc gia Việt
Nam (5/1951) cho đến nay dù nước ta đã trải qua những giai đoạn khó khăn
nhưng Nhà nước luôn chú trọng đến việc hỗ trợ vốn cho đồng bào ở các
vùng nông thôn, đảm bảo phát triển kinh tế gia đình cũng như phát huy
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
8
Khoá luận tốt nghiệp
tiềm năng của hộ sản xuất trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm đó là
những sản phẩm thiết yếu cho xã hội.
Ngày nay, Ngân hàng luôn đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển của nền kinh tế nói chung và phát triển kinh tế hộ sản xuất
nói riêng. Sau đây là một số vai trò chủ yếu của tín dụng Ngân hàng trong
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
- Đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản
xuất liện tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, hiện tượng
tạm thời thừa thiếu vốn xảy ra đối với các tổ chức kinh tế nói chung và đối
với hộ sản xuất nói riêng. Hoạt động đầu tư tín dụng Ngân hàng cho hộ sản
xuất đã góp phần điều hòa vốn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đáp ứng
nhu cầu về vốn cho hộ sản xuất, tạo điều kiện cho hộ sản xuất được liện
tục, tránh tình trạng lao động không có việc làm do thiếu đối tượng và công
cụ lao động.
Các hộ sản xuất ngày nay chỉ chuyên môn hóa sản xuất các loại nông
phẩm, hàng hóa có lợi nhất và họ loại dần các loại nông phẩm sản xuất theo
kiểu tự cung, tự cấp. Các hộ sản xuất bán cho xã hội những sản phẩm họ
sản xuất ra, đồng thời họ mua từ thị trường những hàng hóa mà họ cần. Để
đạt được điều đó các hộ sản xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đổi mới kỹ
thuật, mua sắm máy móc thiết bị, trong khi đó vốn tự có của các hộ sản
xuất còn rất hạn chế cho nên các hộ rất cần đến sự giúp đỡ của Ngân hàng
để mở rộng sản xuất.
Xét trên khía cạnh khác cũng có tính cạnh tranh các hộ sản xuất chưa
thu hoạch sản phẩm chưa có hàng hóa bán thì chưa có thu nhập nhưng họ
lại cần tiền để trang trải chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới công cụ sản
xuất. Trong trường hợp này các hộ sản xuất cần có sự giúp đỡ của Ngân
hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
9
Khoá luận tốt nghiệp
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò cực
kỳ quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay.
- Thúc đẩy quá trình tập trung vốn trong nền kinh tế:
Xuất phát từ đặc điểm luân chuyển vốn trong nền kinh tế, luôn luôn
nảy sinh hiện tượng có một bộ phận vốn tạm thời nhàn rỗi đồng thời ở nơi
khác lại có nhu cầu cần thiết phải bổ xung thêm vốn. Việc giải quyết mâu
thuẫn thừa và thiếu vốn là yêu cầu đòi hỏi khách quan của quá trình tái sản
xuất. Đòi hỏi phải có một tổ chức làm chức năng phân phối vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu vốn. Ngân hàng là trung gian để thu hút vốn trong nền kinh tế
và thực hiện chức năng này.
Những năm gần đây do chính sách mở cửa nền kinh tế Nhà nước đã
huy động của kiều bào nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các công ty nhà
nước và tư nhân ở nước ngoài để đầu tư vào việc xây dựng và phát triển
kinh tế ở nông thôn. Bên cạnh đó Ngân hàng có chính sách thích đáng và
đa dạng hóa các hình thức tổ chức huy động vốn ở các vùng dân cư do đó
đã khai thác được nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư lúc nhàn rỗi để phục
vụ cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Như vậy, các NHTM với tư cách là một trung gian tài chính, là cầu
nối giữa tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung
sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục
của nguồn vốn.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận và mở rộng sản
xuất hàng hóa:
Một trong những đặc điểm quan trọng của hộ sản xuất là thường
mang tính gia đình, các thành viên trong hộ thường có quan hệ huyết thống.
Chịu ảnh hưởng nặng nề của đặc điểm này các hộ sản xuất thường quen với
phương thức sản xuất tự cung, tự cấp. Mọi sản phẩm làm ra chỉ để phục vụ
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
10
Khoá luận tốt nghiệp
cho chính bản thân họ, ngoài ra còn một yếu tố nữa khiến cho hộ sản xuất
không có khả năng tiếp cận với nền kinh tế hàng hóa đó là sự hạn chế về
vốn. Với khả năng vốn tự có hạn hẹp các hộ sản xuất chỉ có khả năng tổ
chức sản xuất với quy mô nhỏ, chỉ đáp ứng tiêu dùng của bản thân họ mà
không thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Cùng với việc mở rộng đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất, Ngân hàng
đã tạo một bước chuyển hướng quan trọng trong phương thức sản xuất của
hộ. Khi được Ngân hàng đầu tư tín dụng, hộ sản xuất phải hạch toán kinh tế
sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất nhằm thu được lợi nhuận
đủ lớn để có thể hoàn trả cả vốn và lãi cho Ngân hàng. Muốn vậy hộ sản
xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm thì mới thu được lợi
nhuận cao. Chính quá trình bán hàng trên thị trường đã giúp hộ sản xuất
hình thành những biện pháp tốt nhất để tiếp cận và thích nghi với thị trường
như nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi các loại cây trồng vật nuôi cho
phù hợp với nhu cầu thị trường, cải tiến cách thức sản xuất giảm chi phí sản
xuất để thu được hiệu quả cao nhất.
Như vậy, với sự tài trợ vốn của tín dụng Ngân hàng thì sản phẩm của
hộ sản xuất sẽ trở thành hàng hóa làm tăng nguồn hàng hóa trên thị trường.
Mặt khác nhờ có vốn tín dụng ngân hàng các hộ sản xuất có thể mở rộng
quy mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản xuất cũng được tăng lên.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở
nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp thường mang tính thời vụ cao nên tại thời điểm
chưa thu hoạch nông phẩm, chưa có hàng hóa để bán thì người nông dân
thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng nhu cầu chi tiêu tối
thiểu tạo điều kiện nạn cho vay nặng lãi hoành hành. Đặc điểm cơ bản của
nạn cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, mục đích sử dụng vốn vay
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt. Lãi suất cho vay cao là
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
11
Khoá luận tốt nghiệp
nguyên nhân khiến cho hộ sản xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Như vậy nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất phát
triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy người nông dân đến chỗ nghèo túng
hơn, gây ra những tiêu cực ở nông thôn.
Trước tình hình đó Ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến hành
cho vay đối với hộ sản xuất tốt hơn, tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp xúc
vay vốn Ngân hàng. Ngân hàng đã đơn giản hóa thủ tục cho vay, tổ chức
mạng lưới Ngân hàng đến tận thôn xóm, cùng với chế độ ưu đãi về lãi suất.
Khi nguồn vốn tín dụng Ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vốn sản xuất tiêu
dùng cần thiết cho các hộ sản xuất thì nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn sẽ
không còn cơ hội để tồn tại.
Do vậy tín dụng Ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với
hộ sản xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, hạn chế được vấn đề cho vay
nặng lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền bóc lột
người lao động để làm giàu bất chính.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao đời sống vật chất của
người dân tạo điều kiện nâng cao dân trí, hình thành những thói quen tốt
trong đời sống xã hội của người dân.
Tín dụng Ngân hàng không những đóng vai trò quan trọng trọng việc
thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông
qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động đó là một trong những vấn đề
cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm người lao động sẽ có thu nhập,
hạn chế những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành
nghề phát triển giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở khu vực nông
thôn, hạn chế luồng di dân vào thành phố. Do các ngành nghề phát triển sẽ
làm tăng thu nhập của người nông dân, đời sống văn hóa, kinh tế xã hội
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
12
Khoá luận tốt nghiệp
tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị các xích lại gần nhau
hạn chế bớt sự phân hóa bất hợp lý trong xã hội.
Tóm lại NHNo đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được đối với
sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ sản xuất ở nông thôn. Nó là trung
gian thu hút vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, là nơi điều
hành phân phối vốn cho sự phát triển kinh tế nông thôn, góp phần giải
quyết một lượng lớn nhu cầu vốn phát triển sản xuất kinh doanh góp phần
mở rộng sản xuất tăng năng suất sản lượng hàng hóa kích thích kinh tế hộ
sản xuất phát triển, giúp họ tiếp cận nhanh với cơ chế thị trường, khai thác
tiềm năng và lợi thế của các hộ sản xuất qua đó từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
1.3 - CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT.
1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
khách hàng (người gửi tiền, người vay tiền ) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và
đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Ta có thể hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tốt nhất yêu cầu của
khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hoặc hạn chế rủi ro về
vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội.
* Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng được đảm bảo an
toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân
hàng, đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng với chi phí thấp, tăng khả năng
cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
* Xét trên góc độ lợi ích khách hàng.
Khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng được cho vay phù
hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
13
Khoá luận tốt nghiệp
tục đơn giản và quan trọng hơn là khoản vay đó mang lại lợi ích kỳ vọng
cho khách hàng.
* Đối với nền kinh tế.
Khoản tín dụng có chất lượng phải góp phần phục vụ sản xuất tạo
công ăn việc làm thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt
kinh tế, chính trị, xã hội. Nó đươc coi là một công cụ đắc lực của Nhà
nước, là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một
cách toàn diện và phát huy đươc vai trò to lớn của mình đối với nền kinh tế
quốc dân. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất là một nhu
cầu cần thiết đối với các NHTM nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất
Hiện nay, hầu hết các NHTM ở Việt Nam thì hoạt động TD vẫn
chiếm khoảng 75% - 80% trong tổng tài sản có của Ngân hàng. Vì thế sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng và
chất lượng tín dụng. Các Ngân hàng thường đánh giá chất lượng tín dụng
khoản vay thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
1.3.2.1- Chỉ tiêu định tính.
a) Đảm bảo nguyên tắc cho vay:
Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản
cho vay đó có bảo đảm nguyên tắc cho vay hay không. Theo quyết định 1627/QĐ ngày
15/01 /2002, tại Điều 6 Nguyên tắc vay vốn ghi rõ: "Khách hàng vay vốn của tổ chức
tín dụng phải đảm bảo hai nguyên tắc cơ bản để cho vay là “:
- Thứ nhất: Sử dụng đúng mục đích theo thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng.
- Thứ hai: Hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
14
Khoá luận tốt nghiệp
b) Cho vay đảm bảo có điều kiện :
Chỉ tiêu định tính thứ hai để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
đó là cho vay bảo đảm có điều kiện, cũng theo quyết định 1627/
QĐ- Chính phủ, tại Điều 7 Điều kiện vay vốn ghi rõ: " TCTD xem xét
và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ cá điều kiện sau”:
- Một là: Có năng lực pháp luật dân sự , năng lực hành vi dân sự và
chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất
phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo đóng tại trụ sở có xác nhận
hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép
hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là: Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia và dự án sản xuất kinh
doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có NQH
trên 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: Không vi phạm pháp
luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là: Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, có hiệu quả.
- Năm là: Hộ sản xuất thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay.
Cũng như các loại khách hàng khác, cho vay hộ sản xuất cũng bao
gồm cho vay có bảo đảm và không bảo đảm. Tuy nhiên, riêng đối với lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn, Nhà nước có các chính sách về bảo đảm riêng,
bao gồm:
+ Đối với các món vay nhỏ, các Ngân hàng và TCTD được cho phép
vay không bảo đảm (Thông tư 10/2000/TT-NHNN1 của Thống đốc NH Nhà
nước).
+ Hướng dẫn thực hiện nghị quyết 11/2000/NQ-CP ngày 31/7/2000,
Hộ gia đình, Chủ trang trại được vay đến 20 triệu đồng không phải thế
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
15
Khoá luận tốt nghiệp
chấp; Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000, các Hộ nông dân
nuôi trồng thuỷ sản được vay 50 triệu đồng không phải thế chấp.
+ Tuy nhiên, để làm căn cứ trong việc xét duyệt cho vay Hộ nông
dân phải xuất trình cho Ngân hàng các giấy tờ liên quan đến việc giao
quyền sử dụng đất, mặt khác các NH được phép giữ lấy chứng nhận quyền sử
dụng đất khi cấp tín dụng.
+ Các hộ nghèo được áp dụng hình thức cho vay bảo đảm bằng tín
chấp.
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến năm
điều kiện cho vay để đánh giá chất lượng khoản vay.
c)Đảm bảo tuân thủ qui trình và nội dung thẩm định:
Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông
tin về khách hàng về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng, tình hình
tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu
không thể thiếu được trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản
vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các các quy định và nội dung thẩm
định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản cho vay có chất lượng là
khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình
thẩm định, thẩm định trước, trong và sau khi cho vay. Quá trình thẩm định
một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh
doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy
trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản
vay đạt chất lượng.
1.3.2.2- Chỉ tiêu định lượng:
Không giống chỉ tiêu định tính, chỉ tiêu định lượng giúp cho Ngân
hàng có cách đánh giá cụ thể hơn về chất lượng tín dụng, qua đó giúp Ngân
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
16
Khoá luận tốt nghiệp
hàng có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ
tiêu mà Ngân hàng thường dùng là:
a) Doanh số cho vay Hộ sản xuất:
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền
Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Ngoài ra Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho
vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
Tỷ trọng cho
vay HSX
=
Doanh số cho vay HSX
Tổng doanh số cho vay
x 100%
b) Doanh số thu nợ hộ sản xuất:
Doanh số thu nợ hộ sản xuất chỉ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số
tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một
thời kỳ.
Tỷ lệ thu nợ HSX =
Doanh số thu nợ của HSX
Tổng dư nợ của HSX
x 100%
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ
tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay
hộ sản xuất của Ngân hàng trong thời kỳ, chỉ tiêu này được tính bằng công
thức
Doanh số thu nợ HSX
Doanh số cho vay HSX
x 100%
c) Dư nợ quá hạn HSX:
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
17
Khoá luận tốt nghiệp
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số
tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ngày
khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất:
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX =
Dư nợ quá hạn HSX
Tổng dư nợ HSX
x 100%
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản
xuất và chất lượng tín dụng đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất. Dư nợ quá
hạn càng nhỏ, tỷ lệ nợ xấu thấp thì chất lượng tín dụng càng cao. Hoạt động
Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng đều chứa
đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của
Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ
nợ xấu thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng, liên quan đến sự sống còn
của Ngân hàng.
Quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN của Thống đốc NHNN Việt
Nam ngày 22/04/2005, theo Quyết định 165 QĐ - HĐQT của Hội đồng
quản trị NHNo & PTNT Việt Nam ngày 06/06/2005 và QĐ 636 của NHNo
nợ xấu là nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 (nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, nhóm 4:
Nợ nghi ngờ, nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn).
Tỷ lệ nợ xấu HSX =
Dư nợ nhóm 3,4,5 HSX
Tổng dư nợ HSX
x 100%
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng
chỉ tiêu tỷ lệ khó đòi.
Tỷ lệ khó đòi =
Tổng nợ khó đòi
Tổng nợ quá hạn
x 100%
Đây cũng là một chỉ tiêu tương tương đối, tỷ lệ này ở mức cao là dấu
hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d) Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất:
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
18
Khoá luận tốt nghiệp
Vòng quay vốn TD HSX =
Doanh số thu nợ HSX
Dư nợ bình quân HSX
Trong đó:
Dư nợ bình quân HSX =
Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm
2
Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản
xuất, phản ánh tần suất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn
tăng, chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách hiệu
quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho NH.
e) Lợi nhuận của Ngân hàng:
Lợi nhuận = Tổng thu - Tổng chi - Thuế
Trong tổng thu, lãi thu từ cho vay là chủ yếu, mà HSX là khách hàng
chính của NH, cho nên lợi nhuận NH là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của
NH cũng như chất lượng cho vay HSX.
1.3.3- Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất.
Việc nâng cao chất lượng lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản
xuất có ý nghĩa rất lớn đối với ngân hàng, hộ sản xuất và đối với nền kinh
tế. Do vậy phải nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất là yêu cầu thường
xuyên đối với mỗi ngân hàng. Muốn làm tốt điều này trước hết phải xem
xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
1.3.3.1- Các nhân tố khách quan:
a. Nhân tố môi trường.
* Môi trường kinh tế xã hội.
Xét trên phương diện tổng thể nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Khi nền kinh tế ổn định làm cho quá trình
sản xuất của hộ sản xuất tiến hành và phát triển một cách bình thường,
không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát, khủng hoảng, làm cho việc
cho vay và trả nợ không bị biến động lớn. Từ đó làm cho giới hạn tín dụng
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
19
Khoá luận tốt nghiệp
hộ sản xuất trở nên rộng hơn. Tuy vậy, để xã hội tồn tại và phát triển các
nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích
đầu tư.
* Môi trường chính trị pháp lý.
Ngân hàng là một trong những ngành phải chịu sự giám sát chặt chẽ
của cơ quan pháp luật và cơ quan chức năng. Do vậy, việc tạo ra môi
trường pháp lý hoàn thiện sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng tín dụng.
Môi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt
động tín dụng Ngân hàng, cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ
sản xuất tiến hành thuân lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín
dụng và các lĩnh vực khác có liên quan tới hoạt động tín dụng là cơ sở để
xử lý, giải quyết khi xẩy ra tranh chấp tín dụng một cách hữu hiệu nhất.
* Môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh
doanh của hộ sản xuất, nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc
chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu " mưa thuận gió hòa" họ sẽ bội thu,
sản xuất kinh doanh suôn sẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính dồi dào
trả nợ Ngân hàng. Ngược lại, nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ
bị thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ Ngân
hàng. Diễn biến tự nhiên là bất khả kháng, con người khó có thể đoán trước
hay thay đổi được nó.
b. Nhân tố thuộc về khách hàng:
* Trình độ của khách hàng.
Trình độ của khách hàng bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ
quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp với khả năng
quản lý khoa học, khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
20
Khoá luận tốt nghiệp
tốt, sẽ có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nếu như trình độ sản
xuất hạn chế thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn.
* Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.
Yếu tố này Ngân hàng khó kiển soát từ đầu, việc sử dụng vốn sai
mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất phát từ khi vay
hoặc sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn sai mục đích đã vi
phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Lừa đảo Ngân hàng.
Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức khách hàng có ý định lừa đảo
Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có đựơc sử dụng
đúng mục đích hay không, khoản vay có hoàn trả hay không là tùy thuộc
hành vi đạo đức của khách hàng.
1.3.3.2- Các nhân tố chủ quan:
Quan hệ tín dụng Ngân hàng hiện nay giữa Ngân hàng và khách
hàng là vô cùng mật thiết, người ta ví quan hệ này như quan hệ " hôn nhân
" do đó, chất lượng tín dụng Ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bản thân
Ngân hàng.
* Chính sách tín dụng Ngân hàng
Chính sách tín dụng Ngân hàng là một trong những chính sách sản
phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ
đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách
hàng, đồng thời khuyến khích được khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó
chính sách tín dụng Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng
* Chấp hành quy định thể chế tín dụng
Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt
hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng
tín dụng Ngân hàng có thực hiện được hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
21
Khoá luận tốt nghiệp
cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ
tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
* Trình độ cán bộ tín dụng.
Trình độ cán bộ sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay,
họ là người kiểm tra tư cách khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng không đủ
năng lực để kiểm tra hoặc thẩm định hoặc làm không nhiệt tình với công
việc thì hiệu quả tín dụng chắc chắn sẽ không cao. Thậm chí nếu tư cách
đạo đức của cán bộ tín dụng không tốt thì sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động
của Ngân hàng.
* Kiểm tra kiểm soát ngân hàng
Kiểm tra kiểm soát là nhiệm vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng
tín dụng. Vì thông qua kiểm tra, kiểm soát sẽ ngăn ngừa và xử lý kịp thời
những sai phạm trong việc thực hiện chế độ thể lệ đầu tư tín dụng, hạn chế
rủi ro góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
* Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là các thông tin liên quan đến tình hình tài chính
cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng nói chung và hộ
sản xuất nói riêng. Thông tin tín dụng có thể được khai thác trực tiếp từ
khách hàng, từ bạn hàng của khách hàng, từ các cơ quan chuyên thông tin tín
dụng trong và ngoài nước. Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng thu
thập được có liên quan đến mức độ chính xác trong phân tích tín dụng, thông
tin càng đầy đủ nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì càng tăng cường khả
năng phòng ngừa rủi ro, do đó chất lượng tín dụng được nâng cao.
1.3.4- Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Tín dụng ngân hàng với ba đặc trưng chủ yếu là: có niềm tin, có thời
hạn và có tính hoàn trả. Mối quan hệ tín dụng được coi là hoàn hảo nếu
được coi là thực hiện đầy đủ các đặc trưng trên. Điieù đó có nghĩa là người
đi vay phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn và sử dụng vốn vay
đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
22
Khoá luận tốt nghiệp
Cơ cấu kinh tế nước ta với nhiều thành phần, trong đó kinh tế cá thể
chiếm một vị trí quan trọng. Các thành phần kinh tế nói chung và hộ sản
xuất nói riêng muốn đổi mới phát triển sản xuất kinh doanh phải có vốn
đầu tư. Nhu cầu vốn này bản thân người sản xuất không thể đủ được mà
cần phải có sự hõ trợ của nhà nước, các tổ chức tín dụng.Vì vậy tín dụng hộ
sản xuất là tất yếu khách quan.
Mở rộng đầu tư tín dụng phải đi liền với công tác nâng cao chất
lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết
định đến hoạt động ngân hàng xét cả về mặt kết quả kinh doanh cũng như
uy tín của ngân hàng. Vì vậy nếu ngân hàng không quan tâm đến việc nâng
cao chất lượng tín dụng thì nguy cơ kinh doanh thua lỗ là điều không thể
tránh khỏi. Hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cẩm với thị trường.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro. Vì
vậy sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng là không thể thiếu được
của các ngân hàng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG HỘ SẢN XUẤT
TẠI NHN0 & PTNT HUYỆN TĨNH GIA-THANH HÓA
2.1- KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO &
PTNT HUYỆN TĨNH GIA - THANH HÓA.
2.1.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng
nông nghiệp &PTNT Huyện Tĩnh gia.
2.1.1.1. Tình hình kinh tế xã hội của huyện tĩnh gia Tỉnh Thanh Hoá
Huyện Tĩnh gia nằm ở phía Đông nam của tỉnh Thanh Hóa cách
trung tâm thành phố thanh Hóa 40 km. Phía Bắc giáp Huyện quảng xương,
Phía Tây giáp huyện nông cống, Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía đông
giáp biển đông, với đờng bờ Biển kéo dài 30 km.
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
23
Khoá luận tốt nghiệp
Tĩnh gia bao gồm 34 xã trong đó 2 xã miền núi và 32 xã đồng bằng, với
tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 9.235 ha.
Trong đó: - Tổng diện tích canh tác: 4.764 ha.
- Đất rừng 4.274 ha
- Đất nuôi trồng hải sản 197 h
* Tổng số hộ trên địa bàn 32.950 hộ : Trong đó hộ ngèo là 4364 hộ
*Tổng dân số trong toàn huyện 142.522 ngời .
Tổng số lao động : 58.493 lao động .
Trong đó :+ Lao động nông nghiệp : 35.438
+ Lao động nghiệp : 1.520
+ Lao động tiểu thủ công nghiệp : 16.563
+ Lao động dịch vụ thương mại: 2.152.
+ Lao động làm nghề khác: 820
+ Lao động thiếu việc làm: 2.000
* Ngành nghề sản xuất chính :
Chủ yếu kinh doanh dịch vụ, Khai thác đánh bắt, nuôi trồng, kinh
doanh chế biến hải sản, sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi gia súc gia cầm.
2.1.1.2- Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT
Huyện Tĩnh Gia
Chi nhánh NHNo&PTNT Tĩnh Gia được thành lập ngày 26 tháng 3
năm 1988 theo quyết định 334 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt
Nam. Chi nhánh trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Thanh
Hoá, có trụ sở tại Thị trấn Tĩnh Gia, huyện Tinh Gia. Có 1 Chi nhánh Ngân
hàng cấp 3, khi mới thành lập NHNo Tĩnh Gia cơ sở vật chất còn nhiều
thiếu thốn lạc hậu với đội ngũ cán bộ công nhân viên là 60, trình độ bất
cập. Tổng nguồn vốn huy động là 4,2 Tỷ đồng, dư nợ cho vay 10 Tỷ đồng,
nợ quá hạn 1,2 Tỷ đồng chiến 12 % / tổng dư nợ. Có thể nói lúc bấy giờ
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
24
Khoá luận tốt nghiệp
NHNo Tĩnh Gia đang gặp rất nhiều khó khăn, đợc sự quan tâm giúp đỡ của
NHNo Thanh Hoá cũng nh các cấp chính quyền địa phơng cùng với sự cố
gắng của cán bộ công nhân viên toàn Chi nhánh đã từng bước khắc phục
khó khăn,cố gắng vươn lên đạt đợc những thành tích cao trong hoạt động
kinh doanh và các mặt công tác khác.
Với phương châm đi vay để cho vay, lấy kết quả kinh tế làm mục
tiêu, sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh, kết quả đạt đợc đã tạo
chỗ đứng với uy tín ngày càng cao, chiếm đợc lòng tin của khách hàng trên
địa bàn nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Sự thành công của
NHNo&PTNT Tĩnh Gia đã chứng minh quá trình thường xuyên đổi mới
phong cách giao dịch nhằm thu hút khách hàng, với những cố gắng nỗ lực
của mình NHNo Tĩnh Gia tiếp tục phát huy thế mạnh để hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao.
Ngân hàng đặt ra định hướng đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng
của mình như sau:
- Mở rộng cho vay đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế
trong đó đặc biệt chú trọng tới việc cho vay thông qua tổ vay vốn.
- Thực hiện cho vay có trọng điểm, chú ý vào những ngành nghề mũi
nhọn có những triển vọng phát triển, tăng cường tài trợ, đầu tư cho phát
triển nông nghiệp nông thôn.
- Tăng cường thực hiện nỗ lực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đặc
biệt là tín dụng trung dài hạn.
- Lấy kết quả kinh tế làm tiêu chuẩn để mở rộng tín dụng và là thước
đo để đánh giá hoạt động tín dụng.
- Củng cố tăng cờng uy tín, vị thế của Ngân hàng trên thị trường,
nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng.
* Cơ cấu tổ chức, bộ máy của NHNo & PTNT huyện tĩnh gia
SVTH: Phan ThÞ Hải Lớp: 30B
25