Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.51 KB, 45 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại thu
nhập nhiều nhất. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Bởi
vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng
thương mại. Bởi nếu chất lượng tín dụng không tốt rất dễ dẫn đến rủi ro và làm giảm
lợi nhuận cũng như ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, ảnh hưởng
đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt NHNo&PTNT Việt Nam là một
trong tứ đại ngân hàng với mạng lưới hoạt động rộng khắp, hoạt động của ngân hàng
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân thì vấn đề quản lý chất lượng tín dụng
hiệu quả lại càng quan trọng.
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân từ khi thành lập đến nay đã thực
hiện tốt hoạt động tín dụng.Tuy nhiên, kết quả hoạt động tín dụng vẫn chưa cao như
mong muốn.
Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn đó, em đã đề tài: “Giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân” để làm chuyên
đề tốt nghiệp của mình.
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi
nhánh huyện Thọ Xuân
Dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu song do còn nhiều hạn chế về kiến
thức và kinh nghiệm thực tế nên đề tài không tránh khỏi những hạn chế. Em rất
mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên
quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
1
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
CHƯƠNG I


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể khác
trong xã hội, là quan hệ chuyển nhượng tài sản (vốn) giữa ngân hàng với các chủ thể
khác trong nền kinh tế, trong mối quan hệ này ngân hàng tham gia với tư cách vừa là
người đi vay vừa là người cho vay. Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết
kiệm thông qua vai trò trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ
thể có nhu cầu vốn trong nền kinh tế.
Vậy: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử
dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với nguyên tắc có hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ khác.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng. Nó cơ bản giữ
được bản chất chung của tín dụng, ngoài ra còn có một số đặc điểm vượt trội sau:
- Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và đã được giải
phóng ra khỏi chu kỳ kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế,
với sự tham gia trong vai trò trung gian của các ngân hàng thương mại.
Thu nhập của người dân tăng và xuất hiện sự dư thừa tiền tệ, trong quá trình sản
xuất kinh doanh, các quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng
rủi ro của các tổ chức kinh tế được ngân hàng huy động và là nguồn vốn tín dụng
chủ yếu của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng hoàn toàn
khác với tín dụng thương mại - phụ thuộc hoàn toàn vào quy mô, quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và không phải là vốn tiền tệ được giải phóng ra khỏi
sản xuất kinh doanh. Đây cũng là một đặc điểm chứng tỏ tín dụng ngân hàng là một
hình thức tín dụng phát triển cao hơn tín dụng thương mại.
- Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với sự
vận động của quá trình sản xuất kinh doanh.

Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn
tăng có thể dẫn đến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, từ đó tín dụng ngân hàng phục vụ
đắc lực cho sản xuất kinh doanh.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
2
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Khi sản xuất kinh doanh mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn phát triển nhưng
quy mô vốn tín dụng ngân hàng có thể không đổi do có thể có vốn từ các nguồn khác
(phát hành tín phiếu, trái phiếu, kêu gọi viện trợ…)
Sản xuất kinh doanh không thay đổi nhưng nhu cầu tín dụng vẫn tăng do hoạt
động tín dụng còn đáp ứng nhiều nhu cầu khác ngoài sản xuất kinh doanh như tiêu
dùng,trả nợ nước ngoài…
Chính do các đặc điểm trên, tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu
vốn tín dụng cả về khối lượng, thời hạn cho vay bằng các khoản vốn không phải chỉ
của nó mà cả vốn huy động. Đồng thời nhờ có tín dụng mà ngân hàng đã mở rộng
được cả về phạm vi cũng như lĩnh vực hoạt động.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng không phải không có những nhược điểm của
nó, đó chính là tính rủi ro của hoạt động tín dụng tương đối cao, do đó các ngân hàng
sẽ dễ bị mất vốn, hiệu quả hoạt động cũng như chất lượng tín dụng vì thế sẽ kém đi.
1.1.3. Các loại tín dụng ngân hàng
1.1.3.1. Phân loại theo thời hạn
Việc phân loại tín dụng theo thời hạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
ngân hàng vì thời gian có mối liên hệ mật thiết với tính an toàn và khả năng sinh lời
của của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Thời hạn tín dụng
thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó
ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng được
tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến khi đồng vốn cuối
cùng được thu về.
Phân loại tín dụng ngân hàng theo thời hạn bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và được sử

dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của doanh nghiệp và phục vụ
các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi ro cho ngân
hàng vì trong thời gian ngắn ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì ngân hàng có
thể dự tính được.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm
và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Loại tín dụng này có mức độ rủi ro không cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán
được những biến động có thể xảy ra.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
3
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
thuộc cơ sở hạ tầng(đường xá, bến cảng, sân bay ), cải tiến và mở rộng sản xuất với
quy mô lớn. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có
những biến động xảy ra không lường trước được.
1.1.3.2. Phân loại theo các phương thức cấp tín dụng
* Cấp tín dụng theo hạn mức thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay, qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để đựợc thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm
chi, mua thẻ séc…vượt quá số dư tiền gửi để trả. Khi khách hàng có tiền nhập về
trong tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số lãi khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi* Thời gian thấu chi* số tiền thấu chi
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian
và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán song không chính xác. Do
vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thanh toán.

Đây cũng là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo, có thể cấp cho cả cá nhân và doanh nghiệp trong vài ngày, vài
tháng trong năm để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng. Hình thức này nhìn
chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và có kì
thu nhập ngắn.
Thấu chi là kĩ thụât cho vay đặc biệt trong đó mang rất nhiều ưu và nhược điểm
đối với ngân hàng và khách hàng. Do đó nó ngoài những điều kiện chung trên nó cần
có thêm một số điều kiện sau:
+ Khách hàng phải có năng lực tài chính mạnh.
+ Khách hàng có quan hệ thưòng xuyên và có uy tín ở mức độ nhất định đối với
ngân hàng.
* Cấp tín dụng từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện được cấp hạn mức thấu chi.
Mỗi lấn vay khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng về phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy
mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần.
Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
* Cấp tín dụng theo hạn mức
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
4
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng tính cho cả kì
hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vốn và
nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay, trả nhiều lần, song
dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch
vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ, ngân

hàng sẽ cấp tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay thường xuyên tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ
cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
*Tín dụng luân chuyển(cho vay luân chuyển)
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua
hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ khi doanh
nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin vay luân
chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận về phương thức vay, hạn mức tín
dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và tiêu thụ.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân
quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán
và mọi khoản thu bán hàng đều dùng trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích
trả vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Cho vay luân chuyển thưòng áp
dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu
thụ ngắn ngày, có quan hệ vay - trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực
hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được cung cấp vốn kịp thời vì vậy việc
thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp gặp
khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hoá thì ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong việc
thu hồi vốn của mình.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
5
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
*Tín dụng trả góp(cho vay trả góp)
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng

trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường
được áp dụng đối với các khoản cho vay trung, dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định
hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần sẽ được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ.
Cho vay trả góp có độ rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng tài sản
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc hoặc ốm đau thu nhập giảm sút thì thu nhập của ngân hàng cũng
bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất
trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
*Tín dụng gián tiếp (cho vay gián tiếp)
Đây là hình thức cho vay thông qua tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua
các tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội Phụ
nữ…Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức
trung gian như thu nợ, phát nợ tiền vay. Tổ chức có thể trung gian có thể đứng ra tín
chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành
viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có đủ tài sản thế chấp.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, xa cách ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay qua các
tổ chức trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của
mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất cho vay hoặc giữ lại số
tiền của thành viên khác cho riêng mình.
*Các phương thức khác
Ngoài các phương thức cấp tín dụng trên còn có các phương thức cấp tín dụng
khác mà pháp luật không cấm như:
+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án
vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối
hợp với các tổ chức tín dụng khác.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng

để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc
điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.
+ Chiết khấu
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
6
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển
nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh
giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người
thu lệnh phiếu nếu là hối phiếu, hoặc ở người phát hành nếu là lệnh phiếu, khi đến
hạn thanh toán.
1.1.3.3. Phân loại theo đối tượng
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản lưu động: Là loại tín dụng được sử
dụng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có mức độ rủi
ro thấp vì vốn lưu động của doanh nghiệp là vốn luân chuyển trong chu kỳ sản xuất
kinh doanh nên Ngân hàng có thể theo dõi thường xuyên và nếu có biến động xảy ra
thì kịp thời thu hồi vốn.
- Cho vay để đáp ứng yêu cầu về tài sản cố định: Là loại tín dụng được sử dụng
để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất,
xây dựng các xí nghiệp và các công trình mới. Hình thức tín dụng này thường có
mức độ rủi ro cao vì khả năng thu hồi vốn chậm hơn.
1.1.3.4. Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng
•Tín dụng không có bảo đảm
Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của
người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Đối với
những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh có khả năng tài chính mạnh, quản
trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
•Tín dụng có bảo đảm

Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc
phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi
phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn
thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.1.3.5. Phân loại theo mục đích sử dụng tiền vay của người đi vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
- Tín dụng đối với người sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại cấp tín dụng
cho các đơn vị kinh doanh để tiến hành sản xuất, lưu thông hàng hoá.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
7
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Nguồn trả nợ của hoạt động này là kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy ngân
hàng cần phải có đầy đủ các thông tin cần thiết về khách hàng của mình, về phương
án sản xuất kinh doanh của họ.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như máy giặt, điều hoà,
tủ lạnh Ở đây, nguồn trả nợ là thu nhập trong tương lai của người vay.
Với cách phân loại này, ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm
bảo có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức lãi suất
được đặt ra cho từng loại.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.4.1. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất mở rộng và
phát triển
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, doanh nghiệp cần phải có một
số vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì họ cần
phải có một số vốn lớn hơn. Vấn đề thiếu vốn tạm thời không phải bất cứ lúc nào họ
cũng đáp ứng nổi những nhu cầu đó. Trong trường hợp muốn để sản xuất và tái sản
xuất mở rộng họ cần phải đi vay vốn của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng góp phần
điều hoà vốn trong nội bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên

tục.
Trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành
vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp.Vì vậy thông qua việc đầu tư tín dụng
sẽ góp phần sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác
thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế,
giải quyết vấn đề xã hội.
1.1.4.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn
cho quá trình sản xuất, từ đó thúc đẩy quá trình sản xuất
Sự tồn tại khách quan của tín dụng là một tiền đề quan trọng cho sự vận động
liên tục vốn của nền kinh tế. Những nguồn vốn chưa được sử dụng trong nền kinh tế
bao gồm:
- Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: thu nhập bằng tiền của
doanh nghiệp để bảo đảm hao phí vật tư trong quá trình sản xuất, thu nhập bằng tiền
của người lao động hình thành do quỹ lương tích luỹ, thu nhập thuần tuý sáng tạo từ
các doanh nghiệp sản xuất.
- Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
8
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Tín dụng ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn đó về một mối
thông qua hoạt động của mình. Trên cơ sở đó các nguồn tài chính sẽ được ngân hàng
khai thác, sử dụng triệt để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh tình trạng vốn
chết đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.4.3. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường chế độ hạch toán trong các
doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả các
lợi tức của khách hàng vay vốn đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi
vay vốn của ngân hàng đều phải cam kết đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra,
nhằm đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện
sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả đúng kì hạn. Nếu đơn vị không thực hiện

đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dừng việc cho vay. Do đó thúc đẩy các đơn vị phải
tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng
năng suất, hạ giá thành nhằm tạo ra lợi nhuận cao hơn, từ đó thúc đẩy đơn vị sản xuất
kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ, đảm bảo doanh lợi
ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.4.4. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cải thiện cơ cấu kinh tế
Hoạt động tín dụng ngân hàng tập trung vốn tiền tạm thời nhàn rỗi nhằm phân
tán tới tay các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước, các cá nhân cần vốn. Tuy nhiên
trong quá trình đầu tư tín dụng không phải trải đều cho các chủ thể có nhu cầu, mà
việc đầu tư được tiến hành một cách tập trung, chủ yếu vào các đơn vị có triển vọng
phát triển sản xuất kinh doanh. Quá trình đầu tư này là tất yếu vì vừa đảm bảo tránh
rủi ro tín dụng vừa thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên nền kinh tế có một số
ngành kinh tế phải thực sự được đầu tư. Đây là những ngành kinh tế mũi nhọn,
xương sống của nền kinh tế vì chúng tạo ra sự phát triển cho các ngành khác, giúp
nền kinh tế tăng trưởng vững mạnh.
1.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
“Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người gửi tiền và
người vay tiền) phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại
của ngân hàng ”.
Đối với ngân hàng thương mại thì chất lượng tín dụng nghĩa là phạm vi, mức
độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo
tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
9
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Nói tóm lại chất lượng tín dụng là một khái niệm có tính tương đối, nó vừa cụ
thể (chất lượng tín dụng thể hiện thông qua các chỉ tiêu có thể tính toán được) đồng
thời vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động tới nền kinh
tế) chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan.

- Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân
hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
- Chất lượng tín dụng được xác định thông qua nhiều yếu tố: Khả năng thu hút
khách hàng, mức độ an toàn của các khoản tín dụng, vòng quay vốn tín dụng…
- Để có chất lượng tín dụng cao phải có các biện pháp quản lý chất lượng và
đồng bộ, đây là cách quản lý mới, nó không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn
thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Để làm được điều đó mỗi một
thành viên trong ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.
Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn, quan hệ tín dụng phải
được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Chất lượng tín dụng và
hiệu quả tín dụng là hai chỉ tiêu quan trọng của ngân hàng thương mại. Hai chỉ tiêu
này có điểm giống nhau là các chỉ tiêu phản ánh lợi ích vốn tín dụng ngân hàng mang
lại cho khách hàng trong nền kinh tế. Nhưng có sự khác nhau: hiệu quả tín dụng
mang tính hiệu quả và tính toán được, là chỉ tiêu số lượng so sánh lợi ích thu được
với chi phí bỏ ra trong quá trình đầu tư tín dụng. Chỉ tiêu chất lượng tín dụng là chỉ
tiêu của hiệu quả hoạt động tín dụng, thông qua hiệu quả của hoạt động tín dụng để
đánh giá chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng và hiệu quả tín dụng có mối liên
hệ mật thiết với nhau, tỉ lệ thuận với nhau, từ sự thay đổi của hiệu quả tín dụng sẽ
dẫn đến sự thay đổi của chất lượng tín dụng, do đó cần phải quan tâm nâng cao hiệu
quả tín dụng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do tính an toàn là yếu tố quan
trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được
hoàn trả đúng như cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên
tắc tín dụng quan trọng nhất của ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi

SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
10
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là
khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn, có nghĩa là tính an toàn thấp.
Chỉ tiêu này tuy phản ánh khái quát tình hình nợ quá hạn của ngân hàng nhưng
chưa đủ là căn cứ đáng tin cậy để đánh giá mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể đối
mặt.
1.2.2.2. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng thương mại tính hàng năm để
đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng vốn tín dụng trong
việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh,
điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn. Do đó tỷ lệ này cao cũng
chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín dụng
nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng đã
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng vốn nhất
định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng
nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh.
1.2.2.3. Chỉ tiêu về tỷ trọng từng loại cho vay
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn
Tỷ trọng từng loại cho vay =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết tính hợp lý của việc đầu tư vào cho vay ngắn hạn, trung và
dài hạn của ngân hàng.
1.2.2.4. Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là một trong những chỉ số thể hiện hiệu quả

hoạt động của ngân hàng. Mục tiêu cuối cùng của ngân hàng là lợi nhuận, vì thế lợi
nhuận có được đảm bảo hay không phản ánh hoạt động của ngân hàng có hiệu quả
hay không.
Lãi từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng =
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
11
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Tổng thu nhập
Nâng cao chất lượng tín dụng nhằm mục đích nâng cao lợi nhuận cho ngân
hàng. Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng và nó mang lại nguồn
lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Đây là chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh
lời của ngân hàng. Một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt có thể được thể hiện
qua thu nhập từ hoạt động tín dụng tăng trưởng ổn định và ngược lại, một ngân hàng
có chất lượng tín dụng không cao sẽ không thể có được tỷ lệ thu nhập từ tín dụng
cao. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng không đều chứng tỏ chất lượng tín dụng
của ngân hàng đó chưa được đảm bảo, còn nhiều vấn đề tiềm ẩn.
1.2.2.5. Chỉ tiêu mức sinh lời từ hoạt động tín dụng
Lãi từ hoạt động tín dụng
Mức sinh lời từ hoạt động tín dụng =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng, cứ một đồng
vốn đầu tư vào hoạt động tín dụng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Mức sinh lời từ hoạt động tín dụng mà cao thì chứng tỏ hoạt động tín dụng
mang lại hiệu quả cao, chất lượng tín dụng tốt thì hiệu quả của hoạt động tín dụng
mới cao. Vì thế, nếu mức sinh lời từ hoạt động tín dụng thấp thì có thể nói chất lượng
tín dụng của ngân hàng chưa tốt.
Nếu ngân hàng thương mại chỉ chú trọng việc giảm và duy trì một tỷ lệ nợ quá
hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn
thấp đó cũng không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý

nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh
lời càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng càng tốt.
1.2.2.6. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn là một chỉ tiêu được tính bằng tỷ lệ phần trăm dư nợ tín
dụng trong tổng nguồn huy động nhằm đánh giá khả năng sử dụng vốn như xu hướng
hoạt động tín dụng của ngân hàng trong những năm gần đây và trong tương lai là mở
rộng hay thu hẹp.
Chỉ tiêu này thể hiện quy mô tín dụng dựa trên nguồn vốn huy động được, đánh
giá mức độ phù hợp giữa việc huy động và sử dụng vốn cũng như mức độ an toàn
của hoạt động cho vay. Quy mô tín dụng phải chiếm một tỷ lệ nhất định để vừa đảm
bảo tối đa hóa lợi nhuận vừa đảm bảo mức độ an toàn của nguồn vốn. Nếu quy mô
tín dụng không tương xứng với lượng vốn huy động được thì ngân hàng sẽ không
đảm bảo được khả năng sinh lời mà vẫn tốn chi phí cho việc huy động vốn. Các ngân
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
12
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
hàng khi mở rộng quy mô vốn huy động phải có các chiến lược, kế hoạch phù hợp để
tăng tương ứng quy mô tín dụng. Việc tăng quy mô tín dụng càng cao không phải đã
là tốt vì vẫn phải đảm bảo chất lượng tín dụng và đảm bảo khả năng thanh khoản cho
ngân hàng. Do đó ngân hàng phải tính toán để cho vay hợp lý dựa trên khả năng vốn
của mình.
1.2.2.7. Chỉ tiêu tỷ lệ trích lập phòng ngừa rủi ro tín dụng:
Số tiền trích lập quỹ dự phòng rủi ro
Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro =
Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có
thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện được nghĩa vụ theo
cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt
động của tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng càng cao chứng tỏ chất

lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp. Một ngân hàng có dự phòng rủi ro càng cao
thì chi phí hoạt động của ngân hàng càng lớn nên giảm khả năng sinh lời của lượng
tín dụng.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đang được các ngân
hàng rất quan tâm và tìm cách để có thể đạt hiệu quả cao nhất. Muốn có giải pháp
hữu hiệu để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng chúng ta cần phải xem xét các
nhân tố ảnh hưởng đến nó:
- Nhân tố thuộc về môi trường
- Nhân tố từ phía ngân hàng
- Nhân tố tư phía khách hàng
1.2.3.1. Nhân tố thuộc về môi trường
 Nhân tố môi trường kinh tế
Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh tiền
tệ của ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng. Bất kì một
ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kì kinh tế. Trong giai đoạn nền
kinh tế tăng trưởng thì các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu
hồi nợ vì thế tăng, đồng thời dư nợ trong nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản
nợ xấu. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái thì tất yếu nhu cầu tín dụng cũng giảm
vì hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngừng trệ, khả năng hấp thụ vốn của doanh
nghiệp cũng như của nền kinh tế giảm sút. Lúc này ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
13
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
một lượng vốn lớn, nguồn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất
lượng tín dụng giảm sút. Mặt khác trong nền kinh tế suy thoái thì các doanh nghiệp
làm ăn không hiệu quả dẫn đến khả năng tài chính không tốt, suy giảm khả năng trả
nợ vay ngân hàng do đó rủi ro trong hoạt động tín dụng cua ngân hàng càng tăng cao.
 Nhân tố môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống các văn bản pháp lý có liên quan

đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Những hoạt
động này muốn có hiệu quả thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ đi kèm hỗ
trợ. Hệ thống pháp luật thông thoáng, minh bạch và đầy đủ sẽ tạo điều kiện giúp cho
hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng đạt hiệu quả cao từ đó nâng cao chất lượng
của hoạt động tín dung và ngược lại.
Mặt khác sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhất là về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất,
nhập khẩu, do thay đổi một cách đột ngột gây sáo trộn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm dẫn đến nợ quá hạn, nợ
khó đòi.
 Môi trường tự nhiên
Đây là các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh…
khi xảy ra thường đem lại hậu quả lớn tác động đến ngân hàng và khách hàng, ngân
hàng không có khả năng thu hồi vốn, làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng.
1.2.3.2. Nhân tố thuộc về phía ngân hàng
 Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của mỗi ngân hàng quyết định đến khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng. Với mỗi nguồn vốn ổn định, cơ cấu nguồn vốn hợp lý
là cơ sở để ngân hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn của khách hàng. Có thể nói hoạt
động huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của
ngân hàng đó.
 Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của các ngân hàng. Với tầm quan
trọng và quy mô lớn, hoạt động này thực hiện theo một chính sách rõ ràng và xây
dựng hoàn thiện qua nhiều năm đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản
ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ và
nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự
thống nhất chung cho hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính

14
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
sinh lời. Nội dung của chính sách tín dụng nói chung là các vấn đề liên quan đến cấp
tín dụng nói chung như: quy mô, lãi suất, kì hạn, đảm bảo, phạm vi, các khoản tín
dụng có vấn đề và các nội dung khác. Có thể nói chính sách tín dụng là xương sống
trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Mục tiêu của nó là giảm thiểu rủi ro tín
dụng và tăng khả năng sinh lời. Nội dung chính của chính sách tín dụng là tài trợ cho
khách hàng, phục vụ cho khách hàng trên cơ sở an toàn. Do đó nếu chính sách tín
dụng được xây dựng thống nhất và khoa học thống nhất từ trên xuống dưới sẽ tạo
điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức
và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh của mình, từ đó nâng cao chất lượng của hoạt
động tín dụng của ngân hàng mình.
Ngoài ra chính sách quản trị tín dụng cuả ngân hàng cũng vô cùng quan trọng.
Cho đến nay hầu hết các ngân hàng chưa ban hành chiến lược, chính sách phát triển
và quản lý rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng bằng cách đầy đủ bằng văn bản. Tất
cả các chỉ đạo từ NHTW mới chỉ là văn bản hướng dẫn thi hành quy chế cho vay,
bảo lãnh, bảo đảm tiền vay và các quy chế khác do ngân hàng Nhà nước ban hành.
Các ngân hàng cần phải có chính sách cho vay thận trọng đối với những doanh
nghiệp có vấn đề. Tầm nhìn chiến lược của các ngân hàng cũng vô cùng quan trọng,
nó chính là nguên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh, thu hút khách hàng bằng cách
giảm giá, lãi suất cho vay giảm bất chấp rủi ro là một tác động đến chất lượng của
hoạt động tín dụng.
Chất lượng tín dụng cũng chịu tác động bởi quy trình tín dụng của ngân hàng
đó. Quy trình tín dụng là các quy định và trình tự cần thực hiện trong quá trình cấp
tín dụng của ngân hàng. Một quy trình hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả của công
tác hoạt động quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao thu nhập cho mỗi ngân
hàng. Thông qua quy trình tín dụng sẽ giúp các ngân hàng thiết kế các thủ tục cho
vay với các nhóm khách hàng khác nhau phù hợp với quy định của pháp luật, đảm
bảo cung cấp kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng và an toàn cho ngân hàng.
Trong quy trình tín dụng thì có thể nói thẩm định tín dụng là bước quan trọng

nhất. Đó là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung cơ bản
ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án, phương thức sản xuất kinh doanh để
ra quyết định tín dụng. Mục đích của việc thẩm định là nhằm giúp ngân hàng có các
kết luận chính xác về tính khả thi hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những khả
năng rủi ro có thể xảy ra để quyết định cho vay hay từ chối đồng thời xác định số
tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với từng doanh nghiệp
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
15
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao và tạo điều kiện cho
ngân hàng có thể quản lý tốt chất lượng tín dụng của mình.
 Chất lượng nhân lực
- Năng lực cán bộ: Cán bộ tín dụng là người phải tiếp xúc với nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực. Do đó cán bộ tín dụng phải là người am hiểu về nhiều lĩnh vực, có
khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng, có khả năng phân tích tài
chính, phân tích ngành và phân tích những biến động của nền kinh tế… Từ đó có thể
đưa ra những phán quyết hợp lý và giúp cho ngân hàng tránh được những rủi ro có
thể xảy ra trong khâu quyết định cho vay.
- Tư cách đạo đức của cán bộ: Cán bộ tín dụng là người trực tiếp thẩm định dự
án vay vốn khả năng trả nợ của khách hàng cũng như trực tiếp kiểm tra kho hàng, tài
sản thế chấp, trực tiếp giải ngân, kiểm tra sử dụng vốn vay, là đầu mối tiếp xúc với
khách hàng nên nếu đạo đức cán bộ tín dụng không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng của món vay và khả năng thu hồi nợ. Mặt khác trong hoạt động tín dụng
cán bộ tín dụng chính là hình ảnh của ngân hàng. Do đó một cán bộ ngân hàng có tư
cách đạo đức, có trình độ, không chỉ am hiểu nghiệp vụ ngân hàng mà còn hiểu biết
về khách hàng, có khả năng tư vấn cho khách hàng, có thể tạo ra ấn tượng tốt đẹp với
khách hàng, góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng. Từ đó thu hút khách hàng và
tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng…
1.2.3.3. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
Để đảm bảo khoản tín dụng sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, mang lại

lợi ích cho ngân hàng, góp phần vào sự tăng tưởng và phát triển kinh tế xã hội thì vai
trò của khách hàng là hết sức quan trọng.
 Khả năng trả nợ của khách hàng
 Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực này biểu hiện ở nhiều góc độ và được các ngân hàng khác nhau chấp
nhận ở các mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của họ nhưng nó
biểu hiện trên các chỉ tiêu cơ bản về số tương đối và tuyệt đối được tính toán đối với
khách hàng. Đó là:
+ Quy mô và chất lượng vốn tự có
+ Các khoản phải trả
+ Các khoản phải thu
+ Thời gian thanh khoản và sự ổn định giá cả của hàng tồn kho
+ Sự thay đổi thanh khoản của khách hàng trong năm
+ Lợi nhuận và sự ổn định của nó
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
16
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
+ Các tài sản vô hình: sự tín nhiệm, nhãn hiệu bản quyền, bằng sáng chế, các
đặc quyền được hưởng từ phía ngân hàng, thị trường,…
+ Các tỷ số cơ bản đựoc xét đến: tỷ số khả năng thanh toán, các tỷ số hoạt
động, các tỷ số ổn định tài chính, các tỷ số sinh lời.
Như vậy năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở mức vốn tự có của
doanh nghiệp và tỷ trọng nguồn vốn tự có trên vốn huy động. Ngoài ra năng lực tài
chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán đối với các khoản nợ, số
vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định.
Vì vậy năng lực tài chính của khách hàng càng cao thì khả năng thanh toán của
khách hàng càng tốt, tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
 Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà
chủ yếu là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể của quá trình sản xuất sản phẩm, công

nghệ sản xuất, các nhu cầu trước đây. Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh
nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự phù hợp của quy mô đó với
thị trường, cơ cấu và khả năng làm chủ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Năng
lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Một điều
kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có sản xuất ổn định, phải kinh doanh có lãi,
có năng lực sản xuất và quản lý đáp ứng một trình độ nhất định theo yêu cầu của thị
trường.
 Năng lực thị trường của doanh nghiệp
Năng lực thị trường của doanh nghiệp được lượng hoá theo các mặt: khối
lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng hay không, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, mối quan hệ
với nhà cung cấp và tiêu thụ…Nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho
biết khả năng mở rộng đầu tư của doanh nghiệp cũng như định hướng đầu tư của
doanh nghiệp.
 Ý chí trả nợ của khách hàng
Đây cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng tín dụng của ngân
hàng. Nếu như khách hàng có tư cách đạo đức không tốt, cố tình lừa đảo ngân hàng,
cung cấp thông tin sai lệch làm cho sự đánh giá khách hàng của ngân hàng không
chính xác dẫn đến các khoản tín dụng không lành mạnh, hoặc khách hàng chây lỳ
không trả nợ sẽ là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
17
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHNo&PTNT
CHI NHÁNH HUYỆN THỌ XUÂN
2.1. Tổng quan về NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân
2.1.1. Quá trình hình thành của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân
Ra đời và phát triển cùng với NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT chi
nhánh huyện Thọ Xuân là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Thanh Hóa,

chi nhánh thành viên của NHNo&PTNT Việt Nam, địa bàn hoạt động của
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân gồm 29 xã và 1 thị trấn, với lợi thế là khu
vực đông dân cư, NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân luôn nhận được sự quan
tâm chỉ đạo và hỗ trợ tích cực của NHNo&PTNT Thanh Hóa trên tất cả các mặt
nghiệp vụ, đặc biệt là nhu cầu nguồn vốn để tăng trưởng tín dụng. Các cấp Đảng ủy,
chính quyền địa phương, các ban ngành trong huyện đã quyết tâm chỉ đạo, hỗ trợ tạo
môi trường thuận lợi cho hoạt động ngân hàng trong cho vay và xử lý nợ.
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân là nggan hàng cấp 3 trong hệ thống
NHNo&PTNT Việt Nam, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ trong địa bàn và
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế địa phương. Với những đặc điểm về kinh tế và
xã hội riêng có, NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân có nhiều cơ hội để phát
triển song cũng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách.
Trong thời gian qua, NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân đã được sự
quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo NH Nông nghiệp tỉnh, của các cấp chính
quyền địa phương, sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên
trong đơn vị, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện mục tiêu kinh tế, kế hoạch
của ngành, địa phương.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân bao gồm 2PGD: trung tâm huyện
và phòng giao dịch Xuân Lai.
Cơ cấu tổ chức quản lý của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân được thể
hiện khái quát qua sơ đồ sau:
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
18
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Sơ đồ 1 – Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân
Giám đốc

Chức năng của từng bộ phận:
* Phòng kế toán ngân quỹ:

- Vừa thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng vừa thực hiện quá trình
hạch toán thu chi ngân quỹ.
- Quản lý thực hiện công tác tài chính kế toán, hạch toán thống kê, xây dựng
kế toán tài chính, tổng hợp lưu trữ hồ sơ.
* Phòng tín dụng:
- Nghiên cứu xây dựng các chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề
xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng hoạt động tín
dụng.
- Thực hiện cho vay ngắn, trung và dài hạn, nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, chiết khấu, cầm cố
thương phiếu và các giấy tờ có giá, tiếp nhận các dự án đồng tài trợ và các dự án ủy
thác đầu tư.
- Tổng hợp phân tích, quản lý danh mục, phân loại kỳ hạn, lựa chọn biện pháp
cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao, thẩm định các dự án và hoàn thiện hồ sơ trình
cấp trên.
Phối hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các phòng ban, chi nhánh
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng kế toán
ngân quỹ
Phòng tín
dụng
Phòng giao dịch
Xuân Lai
19
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân đã từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của
mình trong nền kinh tế, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng
mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ ngân hàng,

thường xuyên tăng cường xây dựng, đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, hiện
đại hoá ngân hàng.
Cùng với NHNo&PTNT, đóng trên địa bàn huyện còn có ngân hàng Chính
sách xã hội có chức năng huy động vốn và cho vay các hộ nghèo và đối tượng chính
sách. Bên cạnh đó một số ngân hàng tuy không đóng trên địa bàn huyện nhưng cũng
tham gia đầu tư tín dụng như ngân hàng công thương Thanh Hóa, Quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương…một số ngành khác cũng tham gia huy động vốn với lãi suất thấp:
Kho bạc, Bưu điện…vì thế chi nhánh NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân
luôn luôn chịu áp lực của sự cạnh tranh gay gắt.
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân
2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của ngân hàng
2.2.1.1. Công tác huy động vốn
Như chúng ta đã biết, vốn có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, mà huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã
hội là điều kiện tiên quyết của các ngân hàng, để từ đó làm cơ sở cho mọi hoạt động
kinh doanh. Vốn quyết định tới quy mô hoạt động của ngân hàng nói chung và quy
mô cho vay nói riêng. Với bất kỳ ngân hàng nào cũng vậy, nguồn vốn có lớn thì mới
có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng và vẫn đảm bảo khả năng thanh toán,
chi trả thường xuyên. Từ đó sẽ tạo nên hình ảnh tốt và nâng cao uy tín của ngân hàng
trên thị trường.
Ngoài ra, nguồn vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hàng cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường, đặc biệt là sự cạnh tranh đối
với sự phát triển nhanh của thị trường tài chính. Một ngân hàng muốn đứng vững
trên thị trường thì phải có nguồn vốn hết sức dồi dào và đa dạng, từ đó sẽ thu được
lợi nhuận cao, tạo điều kiện giữ vững giá trị đồng tiền và đảm bảo cho quá trình lưu
thông tiền tệ được diễn ra liên tục và ổn định.
Ý thức được tầm quan trọng của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh,
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân đã luôn coi trọng công tác huy động vốn
và coi đây là nhiệm vụ hàng đầu, quyết định đến sự sống còn của ngân hàng.
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân luôn chủ động và bám sát vào tình

hình cung cầu về vốn trên thị trường, tích cực khích lệ khách hàng có nguồn tiền
nhàn rỗi gửi vào ngân hàng nhằm khơi tăng nguồn vốn đầu tư, thông qua nhiều hình
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
20
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
thức huy động vốn khác nhau như: phát hành trái phiếu, phát hành kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, huy động nguồn vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế với nhiều phương
thức và thể thức khác nhau.
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân cũng không ngừng mở thêm nhiều
phòng giao dịch, điểm giao dịch để nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi
thuộc các thành phần kinh tế ở khắp mọi nơi gửi vào ngân hàng. Đồng thời, ngân
hàng cũng không ngừng nâng cao chất lượng và uy tín đối với khách hàng, tạo niềm
tin đối với khách hàng.
Với những hoạt động trên, trong những năm qua kết quả đã đạt được của công
tác huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân là đáng khích lệ.
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động
Đơn vị: triệu đồng
TT Chỉ tiêu
Số dư Số dư
Số

So sánh
2008-2007
So sánh
2009-2008
2007 2008 2009
Tỷ
trọng
(%)
Chênh lệch

Tỷ
trọng
(%)
Chênh
lệch
1
1
Nguồn vốn
huy động
423.389 463.811 530.282 -6,8 40.422 -9,07 82.471
- Tiền gửi tiết
kiện, kỳ phiếu
242.478 292.792 305.610 4,54 34.314 -4,18 28.818
- Trái phiếu,
CCTG
5.206 29.489 3.365 5,36 24.283 -2,18 -6.124
2
2
Nguồn vốn đi
vay NHTW
224.284 316.707 541.092 6,8 92.423 9,07 224
3
3
Tổng nguồn
vốn
647.673 780.518 1.071.374 0 132.845 0 306.856
( Nguồn: Chép từ : Báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân)
Hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân
tương đối đa dạng. Tổng nguồn vốn luôn có xu hướng tăng lên thể hiện quy mô của
ngân hàng ngày một phát triển. Cụ thể là: năm 2008 đạt 764.518 trđ tăng 132.845 trđ

so với năm 2007 và năm 2009 đạt 1.071.374 trđ tăng 306.856 trđ so với năm 2008.
Đối với tiền gửi của các tổ chức kinh tế: tiền gửi của các tổ chức kinh tế tại
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân tăng không đều qua các năm. Cụ thể là
năm 2007 đạt 175.705 trđ chiếm 27,13%/tổng nguồn vốn năm 2007 và năm 2008 đạt
141.530 trđ chiếm 18.5%/tổng nguồn vốn, giảm 34.175 trđ tương ứng giảm 9,9% so
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
21
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
với năm 2007. Nhưng đến năm 2009 đạt 201.307 trđ đã tăng 59.777 trđ so với năm
2008, tương ứng với tỷ trọng tăng là 6,36 %. Mặc dù năm 2008 lượng tiền gửi giảm
đi so với năm 2007, nhưng năm 2009 lại tăng lên. Tỷ lệ này chưa cao nhưng nó cao
nhưng nó cũng đáng khích lệ cho ngân hàng. Ngân hàng cần phải chú ý hơn nữa đến
chiến lược khách hàng, tạo thói quen cho khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt
qua ngân hàng, vừa ổn định tiền tệ quốc gia, vừa an toàn, thuận lợi cho khách hàng.
Đồng thời qua đó khơi tăng nguồn thu cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải có
những biện pháp hữu hiệu để thu hút lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày
càng có hiệu quả.
Về tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu của ngân hàng qua các năm đều tăng lên. Như
năm 2008 đạt 276.792 trđ tăng 34.314 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 4,54% so với
năm 2007, và năm 2009 đạt 305.610 trđ tăng 28.818 trđ tương ứng với tỷ lệ giảm
4,18%. Sở dĩ năm 2009 lượng tiền gửi tăng lên nhưng tỷ trọng lại âm là do tốc độ
tăng của năm 2009 chậm hơn so với năm 2008.
Trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng cũng không ổn định, tăng giảm
qua các năm. Như năm 2008 đạt 29.489 trđ, tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,36% so với
năm 2007, nhưng đến năm 2009 thì chỉ đạt 23.365 trđ giảm 2,18% so với năm 2008.
Ta thấy đến năm 2009 lượng tiền này giảm, do khách hàng không lựa chọn hình
thức tiền gửi kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Vì thời gian đáo hạn tương đối
dài nên tuy lãi suất có thể cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm nhưng rủi ro và bất tiện
cho người mua là lớn, nhất là khi họ cần chuyển đổi sang tiền mặt sẽ gặp khó khăn.
Đối với nguồn vay của ngân hàng cũng tăng qua các năm: năm 2008 đạt

316.707 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 6.8% so với năm 2007 và năm 2009 đạt
541.092 trđ tương ứng với tỷ lệ tăng là 9,07% so với năm 2008. Điều đó cho ta thấy,
ngân hàng vẫn phải phụ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng trung ương.
Như vậy, từ các số liệu trên thể hiện ngân hàng đã năng động khơi tăng nguồn
vốn, đa dạng hóa các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh và các dịch vụ ngân hàng, tăng
trưởng tín dụng đảm bảo an toàn vốn và kinh doanh có lãi, thúc đẩy kinh tế trong
nước phát triển. NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thọ Xuân đã, đang và sẽ trở thành
người bạn tin cậy của mọi tổ chức kinh tế, mọi tầng lớp dân cư tại địa bàn tỉnh Thanh
Hóa cũng như các tỉnh lân cận.
2.2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn
Với nhận thức tín dụng là mặt trận hàng đầu và với phương châm "chất lượng,
an toàn và hiệu quả" thể hiện vai trò trung gian "đi vay để cho vay", NHNo&PTNT
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
22
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
chi nhánh huyện Thọ Xuân đã có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, tránh thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT chi nhánh huyện
Thọ Xuân đã không ngừng được cải thiện, đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các
hình thức thanh toán và dịch vụ. Kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Số liệu sử dụng vốn
Đơn vị: triệu đồng
s
tt
Chỉ
tiêu
Số
tiền
Số
tiền

Số
tiền
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
2007 2008 2009
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số
tiền
Tỷ
trọng
(%)
I
Tổng dư
nợ
630.541 779.588 1.038.727 149.047 -0,45 259.139 -2,31
1 Cho vay
ngắn hạn
441.353 553.125 828.512 111.772 0,95 275.387 8,81
2 Cho vay
trung, dài
hạn
189.188 226.463 210.215 37.275 -0,95 -16.248 -8,81
II Nợ quá
hạn

2.009 6.026 19.021 4.017 0,45 26.995 2,31
III
Tổng 632.550 785.614 1.071.748 153.064 0 286.134 0
(Nguồn:Chép từ: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân )
Từ bảng số liệu trên cho thấy tình hình cho vay của ngân hàng tăng qua các
năm. Cụ thể: năm 2008 đạt 779.588 trđ tăng 149.047 trđ ứng với tỷ trọng giảm
0,45% so với năm 2007 và năm 2009 đạt 1.038.727 trđ tăng 259.139 trđ với tỷ trọng
giảm 2,31% so với năm 2008. Sở dĩ, số tiền đều tăng qua các năm nhưng tỷ trọng lại
giảm là do tốc độ tăng của năm 2009 và năm 2008 chậm hơn so với năm 2007. Song,
tỷ trọng của cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất so với cho vay trung và
dài hạn: năm 2008 đạt 553.125 trđ chiếm 70,95% tăng 111.772 trđ với tỷ trọng tăng
0,95% so với năm 2007 và năm 2009 đạt 828.512 trđ tăng 275.387 trđ tương ứng với
tỷ trọng tăng là 8,81% so với năm 2008.
Còn đối với cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với cho vay
trung, dài hạn và tăng không đều qua các năm: Năm 2008 đạt 226.463 trđ chiếm
29,05% tăng 37.275 trđ ứng với tỷ trọng giảm 0,95% so với năm 2007 nhưng sang
năm 2009 chỉ đạt 210.215 trđ giảm 16.248 trđ với tỷ trọng giảm 8,81% so với năm
2008.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
23
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Tình hình nợ quá hạn của ngân hàng cũng tăng qua các năm: năm 2008 là 6.026
trđ chiếm 0,77% tăng 4.017 trđ với tỷ lệ tăng 0,45% so với năm 2007 và năm 2009 là
33.021 trđ tăng 26.995 trđ với tỷ lệ tăng là 2,31% so với năm 2008. Điều này cho
thấy tình hình nợ quá hạn của ngân hàng ngày càng tăng, song nó cũng chỉ chiếm
một tỷ trọng nhỏ. Vì vậy, ngân hàng cần phải có những biện pháp như đôn đốc khách
hàng để thu hồi nợ, giảm tổn thất cho ngân hàng
2.2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh
ĐVT: triệu đồng

stt Chỉ tiêu
Số tiền Số tiền Số tiền So sánh 2008/2007
So sánh
2009/2008
2007 2008 2009
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
I
Tổng dư
nợ
630.541 779.588 1.038.727 149.047 -0,45 259.139 -2,31
1
Cho vay
ngắn hạn
441.353 553.125 828.512 111.772 0,95 275.387 8,81
2
Cho vay
trung, dài
hạn
189.188 226.463 210.215 37.275 -0,95 -16.248 -8,81
II
Nợ quá
hạn
2.009 6.026 19.021 4.017 0,45 26.995 2,31

III Tổng 632.550 785.614 1.071.748 153.064 0 286.134 0
Nguồn:Chép từ: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo&PTNT huyện Thọ
Xuân )
Từ bảng kết quả hoạt động kinh doanh trên ta thấy doanh số năm sau lớn hơn
năm trước và đem lại kết quả kinh doanh năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể là năm
2008 đạt 29.350 trđ tăng 13.277 trđ so với năm 2007 và năm 2009 đạt 52.000 trđ
tăng 22.650 trđ so với năm 2008.
Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng thu nhập luôn lớn hơn tổng chi phí: Như tổng
thu nhập 2008 đạt 182.850 trđ tăng 85.312 trđ so với năm 2007 và năm 2009 đạt
305.140 trđ tăng 22.650 trđ so với năm 2008. Trong đó, nguồn thu chủ yếu từ lãi cho
vay, chiếm một tỷ lệ đáng kể: năm 2008 đạt 174.599 trđ chiếm 95,49% tổng thu nhập
và tăng 82.186 trđ tương ứng với tỷ trọng tăng 0,74% so với năm 2007, nhưng sang
năm 2009 đạt 286.328 trđ chiếm 93.83% tổng thu nhập và tăng 111.729 trđ tương
ứng với tỷ trọng giảm 1,66% so với năm 2008.
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
24
Chuyên đề tốt nghiệp Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Đối với nguồn thu nhập ngoài lãi đều tăng qua các năm và chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng thu nhập: năm 2008 đạt 8.251 trđ tăng 3.126 trđ tương ứng tỷ trọng giảm
0,74% so với năm 2007 và năm 2009 đạt 18.812 trđ tăng 1,86% so với năm 2008.
Bên cạnh với tổn thu nhập tăng lên thì tổng chi phí cũng không ngừng tăng lên,
nó cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Cụ thể là: Tổng chi phí năm 2008 đạt 153.500
trđ tăng 72.085 trđ so với năm 2007 và năm 2009 đạt 253.140 trđ tăng 99.640 trđ so
với năm 2008.
Mặc dù, nguồn chi phí cũng tăng qua các năm và cũng chiếm một tỷ trọng đáng
kể nhưng so với nguồn thu nhập thì nguồn chi phí luôn chiếm tỷ trọng thấp hơn.
Điều này chứng tỏ hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tương đối tốt, ngân hàng
hoạt động kinh doanh có hiệu quả và mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân
2.2.2.1. Chỉ tiêu nợ quá hạn

Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Dư nợ tín dụng 630.541 779.588 1.038.727
Nợ quá hạn 2.009 6.026 19.021
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 0,32 0,77 1,83
(Nguồn: Chép từ :Báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo&PTNT huyện Thọ Xuân)
Một mối lo của các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay là vấn đề giải
quyết các khoản nợ xấu từ các năm trước để lại. Đó là các khoản nợ vay của các
DNNQD làm ăn kém hiệu quả hay các khoản cho vay theo chỉ định của tỉnh cũng
như của Chính phủ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho tình hình nợ quá hạn
trên tổng dư nợ của ngân hàng đạt dưới 1% trong năm 2007 và 2008. Cụ thể là năm
2008 đạt 0,77% tăng 0,45% so với năm 2007 và năm 2009 đạt 1,83% tăng 1,06% so
với năm 2008.
Như vậy, tình trạng nợ quá hạn tại ngân hàng chưa đáng lo ngại nhưng ngân
hàng cần có các giải pháp để khắc phục và hạn chế tốc độ tăng nợ quá hạn như hai
năm vừa qua, đặc biệt cần lưu ý để giảm nợ quá hạn của khu vực các DNNQD để
tránh nguy cơ ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng.
Nợ quá hạn tăng mạnh trong hai năm vừa qua là do các nguyên nhân chính sau:
- Môi trường kinh doanh thay đổi, hàng loạt các DNNQD mới ra đời trong thời
gian ngắn dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Các doanh nghiệp nếu
SV- Đỗ Thị Mai Khoa: Ngân hàng -Tài chính
25

×