Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hạ Long.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.3 KB, 80 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng và hội nhập mạnh
mẽ với nền kinh tế thế giới. Năm 2008 vừa qua Việt Nam đã là thành viên
chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO). Hội nhập là cơ
hội để chúng ta có thể tiếp cận những nền khoa học công nghệ hiện đại,
những nền kinh tế phát triển trên thế giới, cơ hội để kinh tế nước ta có thể
sánh vai cùng các cường quốc Năm châu.
Ngân hàng là một lĩnh vực vô cùng nhạy cảm trong nền kinh tế. Ngành
ngân hàng của nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, đây chính là vấn đề gây khó
khăn nhất cho chúng ta trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tuy nhiên
đây cũng chính là vấn đề nóng nhất khi sức mạnh hội nhập lan toả trên toàn
bộ nền kinh tế nước ta.
Sức cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng thương mại trong
nước với nhau mà còn cả các ngân hàng nước ngoài, các định chế tài chính
khác như công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các tập đoàn tài chính…khác nữa.
Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế năng động đó, mỗi ngân hàng
cần phải xác định cho mình con đường đi phù hợp và hiệu quả nhất. Nâng cao
vị thế trên thị trường, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động luôn là vấn đề cốt
lõi. Đó chính là việc xác định lượng vốn huy động được và vấn đề sử dụng
vốn đó như thế nào của các ngân hàng thương mại. Huy động vốn là cơ sở để
tiến hành hoạt động, là cơ sở để đảm bảo thanh toán, là uy tín và cũng chính
là tiền đề cho sự sống còn của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và NHNN&PTNT nói
riêng trong quá trình hoạt động của mình luôn xác định được vai trò quan
trọng của việc huy động vốn. Hoà chung vào không khí đó, NHNo & PTNT
Hạ Long luôn ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình, để từ đây có thể
1
đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống ngân hàng nước
ta nói chung và hệ thống NHNN&PTNT nói riêng.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập vừa qua, em đã không những tham
gia, nắm bắt và học hỏi kinh nghiệm làm việc của các anh chị nhân viên trong


ngân hàng mà còn đi sâu vào nghiên cứu về hoạt động huy động vốn tại
NHNo & PTNT Hạ Long. Do đó đề tài mà em chọn chính là: “Giải pháp
nhằm tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hạ Long” .
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về NHTM và hoạt động huy động vốn của
NHTM
Chương 2 : Thực trạng vấn đề huy động vốn tại NHNo & PTNT Hạ Long
Chương 3 : Giải pháp nhăm tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT
Hạ Long
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện chuyên đề em đã được sự
giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của ThS ******* - giáo viên khoa Tài chính -
Ngân hàng - Viện Đại học Mở Hà Nội, Các cô chú và anh chị cán bộ công
nhân viên trong NHNo & PTNT Hạ Long. Tuy nhiên do điều kiện có hạn,
mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót và
hạn chế, em rất mong được sự sửa chữa và góp ý của các thầy cô,các anh chị
và các bạn.
2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.1. Một số vấn đề cơ bản về NHTM
1.1.1. Khái niệm về NHTM
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức tài chính quan trọng
trong nền kinh tế. Đây là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất bởi lẽ các cá nhân,
tổ chức hay doanh nghiệp đều gửi tiền tại đây, nguốn vốn của họ phần lớn
xuất phát từ đây. Các cá nhân gửi tiền với mục đích tăng thu nhập. thêm lợi
nhuận, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội gửi phục vụ thanh toán, chi tiêu,
trả lương…Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội.
Bên cạnh đó ngân hàng còn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh
nghiệp, cá nhân và có thể là cả nhà nước nữa. Cho vay tiêu dùng , cho vay để
đầu tư, cho vay để phục vụ sản xuất, cho vay để xây dựng cơ sở hạ tầng…

phần lớn các nguồn vay ấy đếu được thực hiện tại ngân hàng.
Mặt khác Ngân hàng còn là một trung gian tài chính quan trọng nhất
trong nền kinh tế, ngân hàng là trung gian cho người dư thừa vốn gặp những
người đang cần vốn và tạo điều kiện đem lại lợi ích cho họ. Chính sách tiền tệ
là bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế trong mỗi quốc gia và ngân hàng
đóng vai trò quyết định chính sách ấy.
Như vậy có thể nói ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhất, thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng 2006 Nước CHXHCN Việt Nam đã chỉ
rõ: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tièn gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ tiền tệ”.
3
NHTM là bà đỡ cho mọi nền kinh tế, Một nền kinh tế phát triển và tăng
trưởng mạnh là một nền kinh tế mà ở đó NHTM đóng vai trò chủ chốt và
quyết định nhất.
1.1.2. Chức năng của NHTM
NHTM có ba chức năng cơ bản đó là:
- NHTM là một trung gian tài chính: NHTM là cầu nối giữa người dư
thừa vốn và người đang có nhu cầu vốn. Với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết
kiệm thành đầu tư, các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là
chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập chính vì thế họ cần phải bổ
sung thêm vốn; bên cạnh đó lại tồn tại các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng
dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn chi tiêu và họ có tiền
để tiết kiệm. Hai nhóm này tồn tại hoàn toàn độc lập với ngân hàng và điều tất
yếu sẽ xảy ra đó là nguồn vốn hợp lí sẽ được chảy từ nơi thừa vốn sang nơi
thiếu vốn. Đây chính là chức năng trung gian của ngân hàng. Một điều quan
trọng nữa là để thực hiện được tốt chức năng này thì việc tìm hiểu thông tin
cân xứng là khả năng đảm bảo hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng.

- NHTM có chức năng tạo phương tiện thanh toán: Ngân hàng thương
mại là tổ chức kinh tế có khả năng huy động tiền gửi lớn nhất , tại đây tất cả
các nguồn gửi ngắn, trung và dài hạn đều được tập hợp. Sở dĩ có thể khẳng
định rằng NHTM tạo tiền cho nền kinh tế bởi vì khi khách hàng đem tiền đến
gửi tại ngân hàng thì sau khi để lại một tỉ lệ dự trữ theo quy định thì số tiền
còn lại được đem cho vay. Và cứ thế nguồn vốn được quay vòng một cách
đều đặn và liên tục đem lại thu nhập cho ngân hàng.Như vậy qua các nghiệp
vụ kế toán, ngân hàng đã góp một vai trò quan trọng trong việc tạo tiền cho
nền kinh tế.
- NHTM là trung gian thanh toán:NHTM nhận tiền gửi của doanh nghiệp
cũng đồng thời là nơi doanh nghiệp đến vay hay thực hiện bất kỳ một hoạt
4
động thanh toán, chuyển tiền nào. Ta đã biết mục đích của doanh nghiệp luôn
là tối đa hoá giá trị tài sản của họ, doanh nghiệp hoạt động được là phải có
vốn. Vốn để mua sắm trang thiết bị, vốn đẻ tiến hành sản xuất. Ngân hàng là
tổ chức luôn đáp ứng được tốt nhất nhu cầu đó, là đơn vị thu chi và thanh toán
hộ cho doanh nghiệp. Hơn ai hết để làm được điều này ngân hàng luôn có đầy
đủ thông tin về tài chính, về môi trường kinh doanh, về tình hình trong và
ngoài nước để phục vụ tốt nhất nhu cầu của doanh nghiệp- khách hàng của
họ. Ngân hàng luôn là điểm tựa vững chắc cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó
ngân hàng cũng chính là trung gian thanh toán cho các cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế.
1.1.3. Hoạt động của NHTM
a. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn (HĐV) là các hoạt động nhằm tạo vốn cho ngân hàng,
hình thành tài sản nợ cho ngân hàng. Huy động vốn là hoạt động nền tảng cho
sự hoạt động và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng dùng nhiều hình thức
huy động vốn khác nhau:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi thanh toán
Huy động tiền gửi có kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi tiết kiệm

Vay từ Ngân hàng trung ương (NHTW) và các tổ chức tín dụng (TCTD)
Phát hành kỳ phiếu hoặc trái phiếu
Huy động thêm vốn chủ sở hữu
Huy động theo các nguồn khác
Hiên nay các ngân hàng thương mại đang đưa ra nhiều chương trình,
nhiều biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn.

5
b. Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng vốn là việc ngân hàng sử dụng nhưng nguồn đã huy động được
để đưa vào kinh doanh thu lợi nhuận, đây là ngiệp vụ hình thành tài sản có
trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Ngân hàng sử dụng vốn cho hoạt động ngân quỹ( bản chất là dự trữ),
hoạt động này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng chi trả cho ngân
hàng. Các nước trên thế giới thường duy trì tỉ lệ dự trữ bắt buộc là
8%/năm.Ngân hàng sử dụng một phần tiền gửi của khách hàng để dự trữ theo
quy đinh bắt buộc của Ngân Hàng trung ương.
- Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, là hoạt động sống còn của
ngân hàng. Đây là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác
theo những đảm bảo nhất định về tài sản, vật thế chấp, về khả năng hoàn trả,
vế lãi suất…Hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chính cho Ngân hàng,
là cơ sơ để Ngân hàng có thể tồn tại được.Hiện nay các ngân hàng thương mại
đang đa dạng hoá các loại hình cho vay : cho vay theo thời hạn tín dụng, cho
vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tiêu dùng, cho vay căn cứ vào tài sản thế
chấp…để làm sao thoả mãn được tối đa nhất nhu cầu của khách hàng.
- Hoạt động đầu tư : Khác với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư mang
lại nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng. Khi xác định đầu tư vào một khoản mục
nào đó thì mọi chi phí, mọi rủi ro là do ngân hàng hoàn toàn chụi trách nhiệm.
Tất nhiên song hành với điều đó là một quy luật của tự nhiên đó là rủi ro càng
cao thì lợi nhuận thu được càng lớn, vì vậy Ngân hàng luôn luôn phải cân

nhắc kĩ lưỡng trước khi đầu tư. Các loại hình đầu tư mà ngân hàng thực hiện
đó là đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bên cạnh đó còn đầu tư
kiên doanh liên kết với các ngân hàng, càc tổ chức khác trong nền kinh tế.
Ngân hàng tham gia đầu tư không chỉ với mục đích duy nhất là gia tăng lợi
nhuận mà ngân hàng còn với mục đích sâu xa nữa đó là xâm nhập sâu hơn
6
vào thị trưòng tài chính, tham gia chi phối nền kinh tế hoàn thành mục tiêu
cuả mình.
c. Hoạt động trung gian khác
Đây là hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng. Nền kinh tế càng phát
triển nhu cầu tiêu dùng và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng càng đựơc quan
tâm và đòi hỏi một sự phát triển cao hơn. Các hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt, thanh toán qua phát hàng Sec, thẻ tín dụng… ngày càng được
ưu tiên.
Bên cạnh đó ngân hàng còn thực hiên các nghiệp vụ như uỷ nhiệm thu,
uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng…Các hoạt động này bên cạnh
việc đem lại nguồn thu nhập lơn cho ngân hàng còn góp phần nâng cao vị thế
của ngân hàng trên thương trường.
1.2 Nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Vốn là cơ sở và nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng. Đây là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản có của ngân hàng, nó được xác định
từ nhiều nguồn khác nhau. Để thuận lợi cho mọi quá trình vận hành và xác
định người ta đã chia ra thành hai loại vốn cơ bản đó là vốn chủ sở hữu và
vốn vay.
1.2.1.1 Vốn chủ sở hữu
Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào muốn thành lập và
hoạt động được phải có một lượng vốn nhất định. Vốn này có vai trò quyết
định trong quá trình tiến hành đăng kí kinh doanh, quá trình thành lập hay quá
trình hình thành nên tài sản, trang thiết bị, nhà xưởng, hay máy móc thiết bị…

cho mỗi tổ chức. Ngân hàng thương mại cũng vậy, nguồn vốn chủ sở hữu là
điều kiện tiên quyết cho mọi vấn đề. Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng
được cụ thể thành các loại như sau:
7
a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu
khác nhau. Ngân hàng thương mại nhà nước là Ngân hàng được sở hữu bởi
nhà nước, vốn do ngân sách nhà nước cấp. Ngân hàng cổ phần là ngân hàng
có số vốn góp do các cổ đông hợp sức lại, Ngân hàng liên doanh do các bên
liên doanh góp vốn, Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Vốn hình thành ban đầu hay vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, là
xuất phát điểm cơ bản cho mọi hoạt động của ngân hàng và cũng đồng thời là
yếu tố tài chính quan trọng để đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng, là
niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Tuy vậy Ngân hàng lại là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng
hoá đặc biệt, rất nhạy cảm – đó chính là vốn. Nguồn vốn ban đầu của ngân
hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Song qua đây nó lại
cho ta thấy được thực lực của ngân hàng, quy mô và uy tín của ngân hàng, và
hơn hết nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác cho họ.
Hiện nay các NHTM Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn hình thành ban
đầu thấp, tỷ lệ vốn tự có/ tài sản có của phần lớn các ngân hàng là <5% trong
khi đó tiêu chuẩn của thế giới tối thiểu là 8 %. Đây chính là yêu cầu đặt ra đối
với các ngân hàng nước ta trong thời kỳ hội nhập.
b. Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Ngoài việc hình thành vốn ban đầu, trong quá trình hoạt động các
NHTM luôn bổ sung vốn kinh doanh của mình bằng nhiều cách: bổ sung từ
lợi nhuận không chia, bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần …
- Nguồn từ lợi nhuận: không chỉ có ngân hàng thương mại mà tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh đều có nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận không chia,
đây là một nguồn vốn không đều đặn, nó được xác định tuỳ thuộc vào kết quả

kinh doanh từng năm của doanh nghiệp. Tuy vậy nó lại vô cùng quan trọng,
8
khi thu nhập ròng của doanh nghiệp lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu
hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành
vốn đầu tư, tỷ lệ tích luỹ bao nhiêu tuỳ thuộc vào cách xác định và phương
hướng kinh doanh của từng ngân hàng. Nguồn vốn này có chi phí thấp và
mang lại hiệu quả cao nên luôn được các ngân hàng sử dụng va cân nhắc
trước hết.
- Nguồn vốn bổ sung bằng cách phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm…để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để
đáp ứng nhu cầu gia tăng thêm vốn chủ sở hữu theo quy định của ngân hàng
nhà nước. Khi đó NHTM sẽ yêu cầu các cổ đông đóng góp hoặc đi xin được
cấp thêm…Tuy vậy cách huy động nguồn vốn này thường phức tạp, khó khăn
và không đem lại hiệu quả cao, chỉ những khi quá cần thiết thì ngân hàng mới
áp dụng.
c. Các quỹ
Ngân hàng hay bất kỳ một tổ chức nào hoạt động đều phải có các quỹ
riêng: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc, quỹ dự phòng,…Bên
cạng đấy ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - một lĩnh vực nhạy cảm
nên các quỹ của nó cũng mang nhiều đặc thù riêng.
- Quỹ dự phòng tổn thất: Loại quỹ này đựơc trích lập hàng năm, dùng để
bù đắp những tổn thất xảy ra. Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng là rất lớn,
nguồn quỹ này rất được chú trọng và quan tâm, Ngân hàng Trung ương ở mỗi
quốc gia thường phải đặt ra một tỷ lệ cố định cho việc trích lập dự phòng này.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì quỹ dự phòng tổn thất
của các ngân hàng tại Việt nam bao gồm hai loại quỹ đó là quỹ dự phòng để
xử lý rủi ro và quỹ dự phòng tài chính.
- Quỹ bảo toàn vốn là loại quỹ được hình thành nhằm bù đắp hao mòn
của vốn dưới tác động của lạm phát.
9

- Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh
lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Quỹ này
cũng có vai trò quan trọng vì theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền và nó
liên quan tới việc đánh giá lại tài sản của ngân hàng.
- Ngoài ra còn có các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ giám đốc...
mang tính chất động viên khích lệ các cá nhân, nhóm tổ chức trong ngân hàng
để họ có điều kiện thuận lợi phát triển và cống hiến.Các quỹ này được hình
thành trên cơ sở thu nhập hàng năm của ngân hàng.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Vốn của ngân hàng không chỉ giới hạn bởi vốn đóng góp của cổ đông
hay số vốn góp ban đầu của ngân hàng , do tính chất sử dụng lâu dài : có thể
đầu tư vào nhà cửa, đất đai, bất động sản…có thể không phải hoàn lại, do vậy
mà các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành
cổ phần và cũng được coi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
1.2.1.2 Vốn nợ
a. Tiền gửi
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng.
Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp ta có thể phân biệt
ngân hàng với các doanh nghiệp khác. Năng lực của ngân hàng thể hiện ở khả
năng huy động tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính cho phép ngân hàng có thể
cho vay và là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng.
Tiền gửi có nhiều loại:
- Tiền gửi thanh toán
- Tiền gửi tiết kiệm của doanh ngiệp và tổ chức xã hội
- Tiền gửi tiết kiệm dân cư
- Tiền gửi của các ngân hàng khác
10
b. Tiền vay
Ngoài nghiệp vụ tiền gửi, khi cần thêm vốn để phục vụ kinh doanh hay
vì một mục đích nào đó NHTM có thể chủ động đi vay. Hoạt động này chủ

yếu được thực hiện để đáp ứng nhu cầu chi trả khi mà nguồn huy động bị hạn
chế. Nghiệp vụ đi vay không đơn giản và dễ dàng như nghiệp vụ nhận tiền
gửi, khi đi vay ngân hàng còn phải tính đến mọi phí tổn cũng như phương án
trả nợ hợp lý nhất. NHTM cũng sử dụng nhiều hình thức đi vay là:
- Vay NHTW :
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong việc chi trả
của NHTM. Như ta đã được biết, NHTW là người cho vay cuối cùng, là nơi
cuối cùng mà ngân hàng thương mại có thể đến vay. Tại đây hình thức cho
vay chủ yếu là tái chiết khấu hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu
trên thị trường đã được ngân hàng thương mại chiết khấu hoặc tái chiết khấu
sẽ trở thành tài sản của họ. Khi nhu cầu vốn cấp bách NHTM đến NHTW vay
bằng hình thức đem các thương phiếu đã chiết khấu ấy đến NHTW tái chiết
khấu. Tuy nhiên không phải bất kỳ thương phiếu nào cũng được NHTW chiết
khấu, chỉ những thương phiếu có chất lượng tốt, có thời gian đáo hạn ngắn,
khả năng trả nợ cao thì NHTW mới đồng ý tái chiết khấu.
- Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn mà các ngân hàng thương mại vay muợn của lẫn nhau và
vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên nhân hàng. Khi ngân
hàng đang thiếu hụt về dự trữ, hay đang phải đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách
trong khi nguồn vốn của họ không đủ, họ phải ngay lập tức vay mượn để kịp
thời chi trả. Bên cạnh đó lại có những ngân hàng khác , các tổ chức tín dụng
khác như công ty bảo Hiểm, công ty Tài chính…đang có dự trữ vượt yêu cầu
do kết số dư tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ
có thể sẵn sàng cho vay để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Và thế là họ gặp
11
nhau, trao đổi cho nhau để cả hai bên cùng có lợi. Các khoản vay này thương
có thủ tục đơn giản, thuận lợi, xác định dựa trên uy tín của các ngân hàng với
nhau, do vậy nó thường hay được sử dụng và mang lại hiệu quả cao.
- Vay trên thị trường vốn:
Đây là các khoản vay trung và dài hạn, nó hoàn toàn phụ thuộc vào khả

năng và uy tín của ngân hàng. Ngân hàng nào có uy tín trên thị trường hoặc
có khả năng trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều và ngược lại các ngân
hàng nhỏ thưòng khó vay hơn và họ thường phải dựa vào các ngân hàng đại
lý hoặc nhờ các ngân hàng lớn bảo lãnh. Sở dĩ như vậy vì đây là hình thức
Ngân hàng vay bằng cách phát hành giấy nợ ra công chúng, Một hình thức
vay có đảm bảo : phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
Kỳ phiếu là hình thức thu hút được nhiều khách hàng, Kỳ phiếu bao gồm
hối phiếu và lệnh phiếu, là hình thức phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách
hàng.
Trái phiếu là một loại giấy chứng nhận nợ mà người cầm nó có quyền
đòi nợ người phát hàng ra nó ở đây là NHTM. Theo đó trong một thời gian
xác định được ghi trên trái phiếu ngân hàng phải hoàn trả một số tiền nhất
định về cả gốc và lãi cho người cầm nó.
c. Vốn nợ khác
Loại vốn này được hình thành trong quá trình tham gia vào các hoạt
động dịch vụ của ngân hàng. Nó bao gồm các nguồn cơ bản sau:
- Nguồn vốn uỷ thác:
Đây là một trong những dịch vụ mà ngân hàng tích cực tham gia và ngày
nay nó càng trở thành nghiệp vụ chiếm giữ vị trí quan trọng. Đó là các nghiệp
vụ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác giải ngân…Ngân hàng đồng thời
là kênh dẫn vốn, đồng thời là kênh quản lý vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự
12
phát triển, cho sự vững chắc của các công trình và bên cạnh đó lại mang về
cho họ những lợi ích đáng kể.
- Vốn trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán uỷ nhiệm thu,
uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán qua phát hành Sec…
đã vô hình chung tạo nên cho ngân hàng một luồng vốn quan trọng và ngân
hàng cỏ thể sử dụng với mục đích sinh lời.
1.2.2 Hoạt động huy động vốn của NHTM

Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm tạo lập và duy trì
nguồn vốn kinh doanh cho NH. Huy động vốn là các hình thức hoạt động
khác nhau của ngân hàng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành
phần khác trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
1.2.2.1 Các hình thức huy động vốn
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta có thể chia hoạt động huy động
vốn theo các hình thức khác nhau,sau đây là một vài tiêu chí cơ bản hay được
quan tâm:
a. Huy động vốn theo thời gian
- Vốn ngắn hạn
Đây là loại vốn có thời gian huy động dưới 12 tháng. Để thoả mãn nhu
cầu của khách hàng thì ngân hàng có thể chia ra nhiều kỳ hạn nhỏ: Dưới 1
tháng, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, hoặc khách hàng có thể rút
ra bất kỳ khi nào nếu họ cần. Nguồn này mang tính chất nhạy cảm cao nhưng
lại luôn thu hút được nhiều vì nó phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tuy
vậy chi phí cho nguồn này cũng lớn, nguồn huy động này chủ yếu để cho vay
ngắn hạn., nếu muốn cho vay dài hơn thì ngân hàng thường phải chuyển đổi
kỳ hạn tương ứng.
- Vốn trung hạn
13
Vốn trung hạn là nguồn vốn có thời hạn lớn hơn 12 tháng và đến 5năm.
Nguồn này chủ yếu phục vụ cho các khoản vay trung hạn, tạo ra các sản phẩm
với mức kỳ hạn từ 1 năm đến 5 năm cho ngân hàng. Đây là nguồn rất quan
trọng cho khách hàng và ngân hàng thường phải đặt ra các hình thức huy
động rất hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này.
- Vốn dài hạn
Vốn dài hạn là những khoản tiền mà ngân hàng huy động có thời hạn từ
5 năm trở lên, được sử dụng cho các dự án dài hạn. Đây là nguồn vốn ổn định,
ngân hàng có thể sử dụng trong thời gian dài. Tuy nhiên việc huy động nó
cũng gặp nhiều khó khăn và chi phí mà họ bỏ ra cũng tương đối lớn. Nguồn

này thường chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn huy động của ngân hàng.
Việc xác định huy động vốn theo thời gian có vai trò quan trọng trong
việc xác định kỳ hạn của các khoản cho vay hay đầu tư của ngân hàng. Lượng
vốn huy động ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn sẽ quyết định xem ngân hàng
có thể cho vay với mức thời gian nào là hợp lý và lượng vay là bao nhiêu, và
bên cạnh đó để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng của họ.
b. Huy động vốn theo đối tượng
- Huy động vốn từ dân cư
Dân cư là đối tuợng huy động chủ yếu của ngân hàng. Những luồng vốn
rải rác trong dân cư sẽ được quy tụ tại ngân hàng, đây chính là vai trò trung
gian của ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thu hút vốn nhỏ lẻ trong dân cư,
trả lãi để được sử dụng vốn của họ. Nguồn huy động từ tất cả các tầng lớp dân
cư sẽ làm phong phú cho các hoạt động của ngân hàng. Hình thức huy động
này có hiệu quả cao hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của ngân
hàng. Nếu ngân hàng có khả năng và biện pháp thu hút khách hợp lý, có khả
năng thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của họ, tạo sự tin tưởng cho họ thì sẽ là
liều thuốc hữu hiệu nhất đưa họ đến với ngân hàng.
14
- Huy động vốn từ tổ chức trong nước
Các tổ chức kinh tế có luồng tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình kinh
doanh, quá trình luân chuyển vốn, Ngân hàng sẽ sẵn sàng làm két sắt cho họ,
hay tạm thời giữ vốn cho họ, và đây cũng là cơ hội cho ngân hàng thu lợi
nhuận trên chính đồng vốn đó. Đây là nguồn vốn lớn và lại có chi phí thấp,
nếu tăng cường các biện pháp thu hút và quản lý nguồn này tốt thì sẽ mang lại
cho ngân hàng một kết quả tốt.
Các tổ chức trong nước có thể là doanh nghiệp, các tổ chức, và cũng cỏ
thể là cá tổ chức tín dụng. Ngân hàng có thể huy động bằng cách đi vay các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường, nó sẽ giải quyết khi ngân hàng có nhu cầu
cấp bách mặc dù chi phí hơi cao.
- Huy động vốn từ các tổ chức nước ngoài

Ngân hàng tham gia liên kết với các tổ chức, các doanh nghiệp nước
ngoài, hay cũng có thể làm trung gian, làm đại lý cho họ. Giữ vốn cho công
trình đầu tư, giữ vốn uỷ thác, vốn để thanh toán hộ cho họ. Nghiệp vụ này tuy
không sôi nổi nhưng nó cũng có thể huy động được số vốn khá lớn mặc dù nó
không phải là nguồn vốn ổn đinh.
c. Huy động vốn theo phương thức huy động
- Huy động qua tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng. Từ trước đến nay ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để gia tăng
nguồn tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau, cụ thể là:
+ Tiền gửi thanh toán:
Đây là một trong những dich vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng
cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán cho hộ cho khách hàng. Cá
nhân hay doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích nhờ ngân hàng
giữ hộ và thanh toán hộ. Khi khách hàng có nhu cầu, ngân hàng mở cho họ
15
một tài khoản tiền gửi thanh toán, trên tài khoản này, tất cả các nghiệp vụ thu
chi của khách hàng sẽ được cụ thể hoá. Khi có yêu cầu ngân hàng lập tức phải
thanh toán các lệnh rút tiền cho 1 cá nhân hay bên thứ ba được chỉ rõ là người
thụ hưởng trên số dư cho phép.
Hiện nay để đa dạng hoá các tài khoản tiền gửi và tối đa hoá lợi ích
người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức tiền gửi thanh toán khác
nhau. Ví dụ như tiền gửi thanh toán có thể phát hành Séc, tài khoản tiền gửi
thanh toàn kết hợp với tài khoản cho vay…
Tiền gửi thanh toán có đặc điểm lãi suất thấp hoặc có thể bằng không,
tức là chi phí mà ngân hàng bỏ ra thấp mà lại mang lai nhiều tiện ích cho
khách hàng và cả ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Không phải lúc nào các khoản thu của doanh nghiệp hay tổ chức cũng
được chi trả ngay, bên cạnh đó các khoản thu này thường lớn, nếu sử dụng nó

với mục đích hợp lý thì có thể đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và cả người
gửi tiền.
Để đáp ứng được nhu cầu này, Ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có
kỳ hạn cho doanh nghiệp và các tổ chức. Một chế độ lãi suất cao hơn sẽ được
áp dụng và song hành với nó là một thời hạn được ấn định sẵn, tuỳ theo tình
hình thực tế mà khách hàng có thể lựa chọn kỳ hạn 1 tuần, 2 tuần,1 tháng, 1
năm…Khi có nhu cầu cần sử dụng mà chưa đến hạn thì khách hàng vẫn có
thể rút tuy nhiên sẽ phải chịu theo lãi suất không kỳ hạn. Hình thức này cũng
mang lại cho ngân hàng nguồn thu nhập và lợi ích lớn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Tiền gửi tiết kiệm dân cư chiếm giữ vị trí hàng đầu trong nguồn vốn của
Ngân hàng và là đề tài cạnh tranh gay gắt giữa họ. Các ngân hàng luôn xác
định cho mình một chiến lược cạnh tranh để thu hút khách hàng gửi tiền. Đây
16
là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi hoặc chưa được sử dụng trong các tầng lớp
dân cư, họ gửi vào đây với mục đích bảo toàn và sinh lời. Tận dụng cơ hội
này, các ngân hàng chuyển đổi kỳ hạn, tích tụ và tập trung vốn lại và đem cho
vay. Như vậy ngân hàng đã thực hiện được vai trò trung gian của mình, là cầu
nối giữa những người thiếu vốn và những người thừa vốn, là trung gian biến
tiết kiệm thành đầu tư.
Tuỳ theo thời hạn sử dụng mà ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức
lãi suất khác nhau như lãi tuần, lãi 1 tháng, lãi 3 tháng, lãi 6 tháng, lãi bậc
thang… và vì thế khách hàng có thể lựa chọn các hình thức phù hợp nhất với
họ. Nguồn tiền gửi này mang tính chất ổn định, chắc chắn, chủ động mặc dù
lãi suất và chi phí cao hơn. Tuy nhiên các ngân hàng luôn xác định đây là
nguồn an toàn nhất, đảm bảo nhất và cũng là chủ đạo nhất đối với nguồn vốn
của họ.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác:
Cùng tồn tại trong một nền kinh tế, cùng chịu ảnh hưởng của cơ chế thị
trường đặc biệt cùng kinh doanh trên lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế,

các NHTM cùng địa bàn không thể tách rời nhau mà họ cùng nhau hợp tác,
trao đổi và liên kết với nhau. Họ có thể vay mượn lẫn nhau,thanh toán hộ cho
nhau hay bù trừ cho nhau. Để quá trình ấy diễn ra mang lại hiệu quả cao, các
ngân hàng thường mở cho họ một tài kkhoản tại ngân hàng bạn, khi co nhu
cầu thanh toán với khách hàng họ có thể bù trừ cho nhau một cách nhanh gọn
và thuận tiện nhất. Đây chính là một biện pháp tăng vốn hữu hiệu nhất cho
ngân hàng.
- Huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá
+ Trái phiếu ngân hàng: Là việc ngân hàng phát hành ra công chúng một
loại công cụ nợ dài hạn thường là 5 đến 10 năm. Trên trái phiếu sẽ ghi rõ
mệnh giá, lãi suất, thời gian đáo hạn. Lãi suất trái phiếu ngân hàng thường cao
17
hơn hoặc ngang bằng trái phiếu Chính Phủ. Nguồn huy động này mang tính
chất ổn định về thời gian, lượng vốn thu về lớn song chi phí bỏ ra cũng khá
lớn.
+ Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là hình thức huy động với kỳ hạn ngắn hơn,
lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm, dễ chuyển thành tiền mặt khi cần thiết và nó
được các nhà đầu tư rất ưa thích.
+ Chứng chỉ tiền gửi: Đây là giấy xác nhận khoản vay của ngân hàng, có
xác nhận về lãi suất, số tiền vay, ngày đáo hạn. Trước đây lãi suất của các loại
chứng chỉ này là cố định nhưng để phù hợp với điều kiện và thích hợp hơn
cho khách hàng thì nó có thể mang lãi suất theo thoả thuận. Hình thức này
mang tính chất đầu tư ngắn hạn, hấp dẫn các nhà kinh doanh nhỏ và hộ gia
đình. Bên cạnh đó thời gian đáo hạn là cố định nên nó đem lại nhiều tiện ích
cho ngân hàng.
- Vay từ NHTW và các tổ chức tín dụng khác:
+ Vay NHTW: Khi cần vốn cấp bách để đảm bảo khả năng thanh toán thì
NHTM có thể vay trên NHTW bằng cách tái chiết khấu giấy tờ có giá hoặc
được tái cấp vốn.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Các ngân hàng thương mại vay vốn

của lẫn nhau và của các tổ chức tín dụng khác để đảm bảo chi trả. Hình thức
này không cần đảm bảo, vốn huy động là tương đối và cũng chỉ thực hiện khi
cần nhất.
- Tăng vốn chủ sở hữu
Ngân hàng có thể tăng vốn của mình bằng cách giữ lại lợi nhuận không
chia để tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu, hoặc là có thể phát hành thêm cổ
phần, cổ phiếu. Đây là hình thức huy động khi cần thiết để đảm bảo hoạt động
của Ngân hàng, gia tăng uy tín và năng lực trên thị trường. Nguồn vốn này
không mất phí hoặc phí rất thấp, tuy nhiên huy động phức tạp.
18
- Hình thức khác: Ngoài những hình thức phổ biến trên, ngân hàng còn
có thể huy động vốn qua các hoạt động kinh doanh, các hợp đồng uỷ thác, các
hình thức thanh toán. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, hình thức này càng được chú ý và đem lại hiệu quả lớn.
d. Huy động vốn theo loại tiền:
Ngân hàng có thể huy động vốn theo loại tiền, ngoài hình thức phổ biến
và chủ đạo là tiền của quốc gia, Ngân hàng có thể thu hút thêm các loại ngoại
tệ khác, USD, EURO,…Nguồn này xuât phát từ đặc điểm kinh tế của từng
quốc gia mà có quy định khác nhau.Tuy nhiên phương thức huy động như thế
nào còn phải tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế của từng thời kỳ. Các ngân hàng
thương mại nước ta thường chia làm 2 mảng đó là:
- Tiền gửi bằng VNĐ
- Tiền gửi bằng ngoại tệ
Trên cơ sở xác định mức phí ngân hàng sẽ đưa ra lãi suất và kỳ hạn hợp
lý với từng loại tiền.
1.2.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá huy động vốn
- Quy mô huy động vốn
Câu hỏi đầu tiên khi giới thiệu về một doanh nghiệp dù hoạt động trong bất
kỳ một lĩnh vực nào cũng đều là: Quy mô hoạt động như thế nào? Nhắc đến
ngân hàng thì quy mô đó chính là quy mô về vốn. Mục đích cuối cùng của họ

là tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị tài sản, mà để làm được điều đó thì
phải mở rộng kinh doanh, nâng cao hiệu quả và chất lượng huy động vốn.
Mỗi ngân hàng có một quy mô và tốc độ thay đổi quy mô vốn khác nhau. Các
ngân hàng lớn có quy mô nguồn vốn lớn nhưng tốc độ tăng nguồn thường
không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung tâm hoạt động
tiền tệ tín dụng thường có quy mô và tốc độ tăng vốn cũng khác.
- Cơ cấu huy động vốn
19
Gia tăng nguồn vốn theo chuẩn mực nào đó là một chỉ tiêu phản ánh
chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện cơ bản để ngân hàng mở
rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn
vốn. Vì vậy các ngân hàng luôn phải lập cho mình một cơ cấu vốn hợp lý và
an toàn. Nguồn vốn có nhiều kỳ hạn khác nhau, mỗi loại có một đặc điểm
riêng, để xác định nguồn nào sử dụng cho chiến lược nào là hợp lý thì tuỳ
thuộc vào cách xác định của chủ ngân hàng. Khi ngân hàng thường xuyên huy
động nguồn vốn ngắn hạn, tính lỏng cao thì sẽ khó khăn trong việc cho vay
trung và dài hạn, Ngân hàng sẽ phải chuyển đổi kỳ hạn sao cho hợp lý nhất.
Xác định cơ cấu vốn thế nào cho phù hợp nhất với danh mục đầu tư, phong
tránh rủi ro thanh khoản luôn là yêu cầu cần thiết.
Bên cạnh đó các ngân hàng còn xem xét tỷ lệ vốn huy động theo loại
tiền. Thời gian và diễn biến của môi trường cạnh tranh cho ngân hàng quyết
định nên huy động thêm ngoại tệ hay ngừng huy động ngoại tệ. Việc cất trữ
và cho vay ngoại tệ chụi ảnh hưởng của diễn biến vể tỷ giá, tình hình lạm
phát…của từng thời kỳ.
- Chi phí huy động vốn
Chi phí của nguồn vốn huy động là nhân tố quyết định đến chất lượng
của nguồn vốn. Bên cạnh sự an toàn, khách hàng luôn có xu hướng tìm đến
ngân hàng có lãi suất cao nhất để gửi tiền, để họ có thể thu được số lãi là cao
nhất. Có nhiều ngân hàng đưa ra biện pháp điều chỉnh mức lãi suât bằng cách
mạnh dạn cải thiện biên độ giao động của lãi suất đầu ra để từ đó có thể tăng

lãi suất đầu vào mà họ vẫn có lãi, tuy vậy điều này không phải là đơn giản.
Huy động nguồn có chi phí thấp thì ngân hàng thu được lợi nhuân cao,
có thể mở rộng cho vay và đầu tư và ngược lại. Tuy nhiên nhân tố cơ bản
quyêt định chi phí đó chính là lãi suất. Chính sách lãi suất phù hợp luôn là cơ
sở cho hoạt động huy đọng vốn trong ngân hàng.
20
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân
hàng. Ở đây ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt
động huy động vốn của NHTM đó là:
1.3.1 Nhân tố khách quan
1.3.1.1 Môi trường pháp lý:
Là một doanh nghiệp kinh doanh, NHTM chịu sự quản lý của các cơ
quan có thẩm quyền, hoạt động theo quy định của pháp luật, chịu sư chi phối
và điều tiết của NHTW nước sở tại. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại ngoài việc tuân thủ theo quy định về tỷ lệ lãi suất theo quy đinh,
tỷ lệ vốn huy động của pháp luật trong nước ma còn chịu tác động của nhiều
diều lệ quốc tế. Ngoài ra, lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực có nhân tố quyết
định đến toàn bộ nền kinh tế, hoạt động dưới sự chi phối của chính sách tiền
tệ quốc gia, tuỳ từng thời kỳ mà NHTW đưa ra các biên pháp và chính sách
nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ quốc gia. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tình
hình và hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.1.2 Môi trường kinh tế:
Tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh tế năng động là cơ sở để
ngân hàng vươn lên, cơ hội để ngân hàng có thể triển khai các hoạt động của
mình, cơ hội để nắm trong tay những công nghệ hiện đại và là cơ hội để hội
nhập với nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên nó cũng đi đôi với những khó khăn
như khó khăn về cạnh tranh, khó khăn về khách hàng…
Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuân lợi cho hoạt động tạo vốn của
NH, hoạt động kinh doanh cũng được tiến hành thuận lợi hơn, có khả năng

phát triển cao hơn và ổn định hơn. Khi đó thu nhập cũng như tài sản mà người
lao đọng nắm giữ cũng sẽ lớn hơn, họ sẽ có nhiều tiền hơn đẻ gửi vào ngân
hàng và đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ thu hút được nhiều vốn hơn.
21
Và ngược lại khi nền kinh tế gặp phải nhiều vấn đề, tình hình lạm phát
gia tăng, đồng tiền trong nước bị mất giá so với nước ngoài hay vì bất cứ một
lý do nào đó sẽ ;làm cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng thay đổi, rất
có thể người dân sẽ cho rằng nắm giữ vàng, đầu tư bất động sản… tốt hơn gửi
tiền vào ngân hàng.
1.3.1.3 Những nhân tố từ phía khách hàng
Khách hàng là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến huy động vốn. Quy mô
vốn huy đọng lớn là do có nhiều khách hàng đến gửi tiền tại ngân hàng hay
quy mô vốn huy động ít tức là phần lớn khách hàng đã không chon ngân hàng
là điểm đến của họ. Khách hàng chọn ngân hàng vì chất lương phục vụ tốt -
đến đây họ được chào đón một cách nhiệt tình nhất, được phục vụ một cách
chu đáo nhất, hay họ đến đây vì ngân hàng có uy tín lớn trên thị trường, hay là
ngân hàng có thể trả một mức lợi tức cao hơn so với các ngân hnàg khác…
Yếu tố tâm lý của khách hàng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả huy động của bản
thân ngân hàng.
1.3.1.4 Cạnh tranh giữa các ngân hàng
Nền kinh tế nước ta vừa bước vào thời kỳ hội nhập, nền kinh tế có nhiều
bước chuyển biến mới, đặc biệt mở ra một kỉ nguyên mới trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài đang ào ạt tiến vào Việt Nam
đem theo những công nghệ hiện đại, những giải pháp hoàn mỹ, những lợi ích
tuyệt vời. Điều này đặt ra muôn vàn khó khăn cho hệ thống ngân hàng trong
nước, nếu không chịu đổi mới sẽ bị xâm chiếm thị phần, bị suy giảm về quy
mô hoạt động, không đủ sức cạnh tranh.
Bên cạnh đó, việc tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của ngân hàng là
rất khó, việc marketing không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả như ý
muốn. Đây cũng là một khó khăn trong việc cạnh tranh của NHTM.

22
1.3.2 Nhân tố chủ quan
1.3.2.1 Xuất phát từ các hình thức HĐV của ngân hàng
Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng phong phú và đa dạng sẽ
góp phần khuyến khích khách hàng tham gia vào các dịch vụ của họ. Ngân
hàng càng đi sâu vào nghiên cứu nhu cầu cũng như tâm lý của khách hàng thì
càng có cơ hội phát triển thêm những công cụ mà họ cần.
Các NHTM nước ta hiện nay có danh mục các sản phẩm huy động là
khá đa dạng: tiền gửi có nhiều loại như tiết kiệm có ký hạn trả trước, tiết kiệm
có kỳ hạn trả sau, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm bậc thang,
tiết kiệm tiêu dùng…
Bên cạnh đó ngân hàng còn đưa ra nhiều hình thức khuyến mại, dự
thưởng thu hút sự quan tâm của khách hàng. Hình thức và kỳ hạn lãi phong
phú như lãi tuần, lãi tháng, lãi năm… được triển khai liên tục và rất được
người dân và các tổ chức quan tâm. Ngoài ra trong lĩnh vực tiền gửi thanh
toán hay tiền gửi giao dịch cũng được nghiên cứu và bổ sung nhiều hình thức
phù hợp hơn.
1.3.2.2 Chính sách lãi suất huy động
Người dân gửi tiền vào ngân hàng bên cạnh mục đích cất trữ an toàn thì
lợi nhuận thu được lại là điều đầu tiên, là nhân tố quyết định. Ngân hàng nào
lãi suất cao, hấp dẫn thì vốn sẽ chảy vào đó. Khung lãi suất ngân hàng đưa ra
phụ thuộc vào mức lãi suất trần, lãi suất sàn theo quy định của NHTW và nó
được điều chỉnh theo chế độ của chính ngân hàng ấy. Lãi suất huy động còn
phải căn cứ và dựa trên lãi suất của nguồn sử dụng, hay cụ thể hơn đó là lãi
suất cho vay hay lãi suất đầu tư. Nhiều ngân hàng sử dụng nhiều hình thức lãi
suất khác nhau. Nhưng cạnh tranh theo lãi suất là loại hình cạnh tranh có
nhiều rủi ro và thường có giới hạn nên việc lựa chọn mức lãi suất phù hợp là
yêu cầu đòi hỏi đối với từng ngân hàng.
23
Tuy nhiên để thu hút được lượng khách hàng lớn và duy trì đựơc mối

quan hệ lâu dài với họ thì ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất có tính chất
cạnh tranh và linh hoạt, nhạy cảm nhất, hay có thể là thực hiện những ưu đãi
nhất định vế lãi suất cho các khách hàng tiềm năng.
1.3.2.3 Chính sách về Marketing Ngân hàng
Như ta đã biết, kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh nhạy
cảm, phụ thuộc chủ yếu vào uy tín và khả năng. Lĩnh vực huy động vốn
không ngoại lệ: khách hàng cho rằng lãi suât càng cao càng tốt thì họ sẽ lập
tức gửi vào ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất. Nhưng một khách hàng
khác lại thích gửi tiền vào một ngân hàng có uy tín, ngân hàng có thương hiệu
đã được khẳng định. Chính điều này đã đặt ra một yêu cầu cho hoạt động
Marketing trong NHTM tính đặc thù. Quá trình hình thành nên một sản phẩm
huy động mới trong ngân hàng đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức, bên
cạnh đó còn rất khó khăn không phải ngân hàng nào cũng làm được.
Các hình thức quảng bá hình ảnh của ngân hàng, đẩy mạnh xây dựng và
phát triển thương hiệu đem lại niềm tin cho khách hàng, khuyến khích khách
hàng gửi tiền và làm quen với ngân hàng, chính điều này góp phần không nhỏ
vào hiệu quả huy động vốn của họ.
Tuy nhiên khách hàng khi đến với ngân hàng thì thái độ phục vụ của
nhân viên ngân hàng lại có tính chất hỗ trợ vô cùng lớn. Một phong cách phục
vụ nhiệt tình, có trách nhiệm của nhân viên là yếu tố thu hút khách hàng,
khách hàng sẽ tin tưởng và có ý định gắn bó với ngân hàng, đó chính là đã tạo
ra lợi thế cho ngân hàng.
1.3.2.4 Công nghệ ngân hàng
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì đòi hỏi mức độ hiện đại
trong phương thức làm việc cũng như phục vụ của ngân hàng càng phải cao.
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì trang thiết bị và quy trình công nghệ
24
cần phải được đầu tư. Hiện nay đã có nhiều sản phẩm dịch vụ mới như
ATM,POS, dịch vụ ngân hàng điện tử..rất hiện đại và thuận tiện nhằm phục
vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nghiệp vụ chuyển tiền điện tử, thanh

toán qua mạng điện tử, trả lương qua tài khoản…đang ngày càng phát triển và
góp phần làm tăng hiệu quả cho hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.
25

×