Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.26 KB, 77 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam
DNVVN
SGD
NHNN

SGD NHNT
DNNN
: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam
: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
: Sở giao dịch
: Ngân hàng nhà nước
: Quyết định
: Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương
: Doanh nghiệp nhà nước


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây với chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
và những chính sách ưu đãi từ phía Chính phủ, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ
đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, dần khẳng định vị trí quan trọng mình, là thành
phần đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sự phát
triển này vẫn chưa đạt tương xứng với tiềm năng thực sự của bộ phận doanh nghiệp
này. Vấn đề lớn nhất cần được giải quyết cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ là
quy mô vốn, năng lực tài chính nhỏ bé, kém hiệu quả và thiếu tính bền vững. Và để
giải quyết bài toán “khát vốn” cho khu vực này thì tiếp cận tín dụng ngân hàng là
một phương thức hiệu quả.


Nắm bắt nhạy bén tình hình, các ngân hàng thương mại không ngừng mở
rộng cho vay, cung cấp các dịch vụ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Vì vậy, tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng và
lợi nhuận kỳ vọng cho vay ngày càng tăng.
Tuy nhiên, việc chạy đua tăng trưởng tín dụng càng cao càng đẩy các ngân
hàng vào tình thế phải đối mặt với rủi ro tín dụng cao, hơn nữa nếu tăng trưởng tín
dụng quá nóng sẽ gây ra mất ổn định kinh tế vĩ mô, gây ra lạm phát cao. Điều này
buộc các ngân hàng phải điều chỉnh tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tăng
trưởng vốn huy động thực tế, mục tiêu tín dụng đề ra và khả năng kiểm soát chất
lượng tín dụng, đảm bảo vốn khả dụng cho các nhu cầu thanh toán, an toàn hoạt
động kinh doanh.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, Sở giao dịch Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam luôn đặt ra mục tiêu phục vụ mọi nhu cầu của các
doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ với chất lượng tín dụng ngày
càng tốt hơn. Chính vì vậy theo em đề tài “ Nâng cao chất lượng tín dụng Ngân
hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam” rất cần được nghiên cứu nhằm đưa ra những giải
pháp có căn cứ khoa học và thực tiễn, góp phần giải quyết những hạn chế và nâng
4
cao hơn nữa chất lượng tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt

Nam.
Đây là một đề tài cần những lý luận mang tính chuyên ngành cao và thực
tiễn sâu rộng nên với kiến thức chuyên ngành và thực tế hạn hẹp của mình thì
không khỏi có những sai sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo, ban
giám đốc ngân hàng và bất kỳ ai quan tâm đến để đề tài hoàn thiện hơn.
Qua đây, cho em gửi lời cám ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Bất đã
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp em có cách nhìn và giải quyết vấn đề hợp lý, cho
em có những lý luận sắc bén để làm tốt bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn đến ban Giám đốc, các anh chị phòng
Nhân sự, các anh chị phòng Tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch
ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam đã cho em cơ hội thực tập,
tiếp cận, vận dụng những kiến thức chuyên ngành và giúp bài chuyên đề tốt nghiệp
của em thực sự sát với tình hình thực tế tạo tính thuyết phục cao cho đề tài.
5
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI DNVVN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong những năm qua, vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ là
trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này. Muốn định
nghĩa được doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ rõ ràng phải dựa vào độ lớn hay quy
mô của doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào loại
tiêu thức sử dụng quy định các giới hạn tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.
Với mỗi quốc gia khác nhau thì có những định nghĩa về khu vực này khác nhau dựa
trên việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô và lượng hóa các tiêu thức ấy
thông qua những tiêu chuẩn cụ thể.
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào,
còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết
quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những ưu và nhược điểm riêng, do vậy để phân loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra của doanh

nghiệp, hoặc có thể kết hợp cả hai loại yếu tố với nhau.
Nếu căn cứ và quy mô doanh nghiệp thì DNVVN được chia làm 3 loại là
doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của
nhóm Ngân hàng Thế giới quy định doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số
lao động nhỏ hơn 10 lao động, doanh nghiệp nhỏ có số lao động từ 10 đến 50 người
và doanh nghiệp vừa có số lao động từ 50 đến 300 người.
6
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNVVN của Ngân hàng Thế giới
Loại hình doanh nghiệp Số lao động
(người)
Doanh thu hàng
năm (tr.USD)
Tổng tài sản
(tr.USD)
Doanh nghiệp siêu nhỏ 1

9 <0,1 <0,1
Doanh nghiệp nhỏ 10

49 <3 <3
Doanh nghiệp vừa 50

300 <15 <15
(Nguồn www.business.gov.vn)
Đây là những tiêu chí để phân loại các loại hình doanh nghiệp phổ biến và
chính xác, được nhiều các nước trên thế giới công nhân. Tuy nhiên với mỗi quốc
gia có nền kinh tế phát triển khác nhau thì sự phân chia này chỉ mang tính chất
tương đối.
Ở Việt Nam, các tiêu chí được đưa ra để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
dần dần phù hợp với từng giai đoạn phát triển và đặc điểm ngành kinh tế nước ta.

Công văn số 681/CP – KTN ban hành ngày 20/06/1989 theo đó doanh nghiệp vừa
và nhỏ là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và vốn kinh doanh dưới 5
tỷ đồng (tương đương 378.000 USD – theo tỷ giá giữa VNĐ và USD tại thời điểm
ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra có ưu điểm là hướng tới xây dựng một bức
tranh chung về các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, tuy nhiên lại có nhược
điểm là không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ, siêu nhỏ. Chính vì
vậy, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP được đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp
nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”
Đến năm 2009, để phù hợp với sự phát triển lớn mạnh của khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tiêu chí này đã được sửa đổi trong Nghị định mới là NĐ
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cụ thể là: “ Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy định tổng
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương với tổng tài sản được xác định trong bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn
7
là tiêu chí ưu tiên)”
Một trong những điểm mới lớn nhất của Nghị định 56 là lần đầu tiên đưa ra
một định nghĩa tương đối cụ thể về doanh nghiệp vừa và nhỏ phân loại theo 3 loại
hình: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân
năm. Trong đó, điểm quan trọng nhất tại điều 3 của Nghị định 56: “Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật”, điều này có nghĩa là doanh nghiệp vừa và nhỏ đến nay không chỉ có
doanh nghiệp mà còn bao gồm cả loại hình hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể.
Bảng 1.2: Tiêu chí DNVVN theo nghị định 56/2009/NĐ-CP
Khu vực
DN siêu
nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
Nông, lâm
nghiệp và
thuỷ sản
<10
người
<20 tỷ
đồng
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
Công nghiệp
và xây dựng
<10

người
<20 tỷ
đồng
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20
tỷ đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
Thương mại
và dịch vụ
<10
người
<10 tỷ
đồng
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10
tỷ đồng đến
50 tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
(Nguồn NĐ 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa)
Tuy nhiên, theo Nghị định 56, việc phân loại DNVVN dựa vào tiêu chí “quy
mô tổng nguồn vốn” sẽ gây khó khăn trong việc xác định loại hình doanh nghiệp.

Như đã biết thì tổng nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn
vay ngân hàng, phải trả người bán… Mặc dù vốn chủ sở hữu tương đối ổn định
nhưng vốn vay ngân hàng và phải trả người bán thì biến động thường xuyên. Do đó
tổng nguồn vốn của doanh nghiệp cũng biến động thường xuyên. Vậy sẽ xảy ra
trường hợp là tại thời điểm này một doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp nhỏ thì
8
đến thời điểm khác lại là doanh nghiệp vừa và ngược lại.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2.1. Ưu điểm
Sự phát triển lớn mạnh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những
năm trở lại đây chứng minh những ưu điểm, lợi thế của loại hình doanh nghiệp này
với nền kinh tế, cụ thể:
- Là loại hình doanh nghiệp rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi
với các nhu cầu và thay đổi của thị trường, dễ dàng thay đổi mặt hàng kinh doanh,
đổi mới công nghệ theo xu hướng phát triển của nền kinh tế. Do có quy mô nhỏ nên
có khả năng len lỏi vào các thị trường mới dễ dàng không gây sự chú ý hay cạnh
tranh từ các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, đáp ứng
nhu cầu có tính nhỏ lẻ, địa phương mà các doanh nghiệp lớn không làm được. Sẵn
sàng đầu tư vào những lĩnh vực mới, lĩnh vực mạo hiểm.
- Là loại hình có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ
linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định làm tiết kiệm chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, quan hệ giữa người lao động và người
quản lý không hoặc rất ít xảy ra xung đột.
- Sử dụng lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, dễ thu hút lao động,
tận dụng lao động dồi dào trong nền kinh tế tiết kiệm chi phí kinh doanh.
- Vốn đầu tư ban đầu của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường ít nhưng hiệu quả
kinh tế lại cao, thu hồi vốn nhanh hấp dẫn nhiều cá nhân tổ chức ở mọi thành phần
kinh tế đầu tư vào khu vực này.
- Có khả năng khai thác và nắm bắt điều kiện cụ thể của đất nước về mặt tài
nguyên, lao động sẵn có nên chịu ít tác động của những cú sốc, khủng hoảng kinh tế

đồng thời nếu xảy ra sự trì trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì
cũng không ảnh hưởng lớn hoặc rất ít gây ra khủng hoảng kinh tế - xã hội.
1.1.2.2. Nhược điểm
Trong thời gian qua, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đang dần khẳng định
những ưu điểm của mình song lại càng lộ ra những mặt hạn chế cần nhìn nhận một
9
cách khách quan. Hạn chế lớn nhất của DNVVN xuất phát từ chính đặc điểm của nó
đó là quy mô vốn nhỏ, vốn ít nên thường xuyên rơi vào tình trạng “khát vốn” trầm
trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó không thể không kể
đến các nhược điểm vẫn đang tồn tại như:
- Về thông tin: các DNVVN thường bị hạn chế về thông tin cũng như kỹ năng
quản lý. Các dịch vụ hỗ trợ cho kinh doanh đã trở nên lạc hậu, không theo kịp được
sự phát triển kinh tế trong nước và trên thế giới. Các DNVVN phải tự mình tìm
kiếm thông tin thông qua các kênh thiếu đầy đủ, chính xác mà không có sự hỗ trợ từ
các hiệp hội, cơ quan chức năng một cách phù hợp và đúng mức. Bên cạnh đó vấn
đề tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ và dịch vụ tư vấn như tư vấn thị trường, đào tạo
thiết kế sản phẩm, mẫu mã sản phẩm, quản lý chất lượng, môi trường không được
sử dụng nhiều và đầy đủ. Do tính chất vừa và nhỏ, các DNVVN khó khăn trong
việc mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh
nghiệp đó đang hoạt động.
- Về năng lực quản lý: Ở nước ta, quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
mang tính gia đình, người chủ sở hữu đồng thời cũng là người quản lý hay quản
đốc, cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp. Những người này một lúc thực hiện hàng
loạt các vai trò và chức năng khác nhau trong tổ chức kinh doanh, ngoài góp vốn thì
họ còn có quan hệ huyết thống, họ hàng, bạn bè thân thiết. Do đó, kỹ năng quản trị
nội bộ là không cao, thiếu tính cơ bản, chỉ dựa vào những kinh nghiệm kinh doanh
của bản thân, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết
kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển. Hơn nữa, lao động làm
trong khu vực này chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ thấp, ít được đào tạo cơ

bản, các kỹ năng còn hạn chế.
- Về công nghệ: Hiện nay các DNVVN đang sử dụng những công nghệ cũ, lạc
hậu và rất khó để vay một khoản tín dụng trung dài hạn để đầu tư mua công nghệ
do vốn đầu tư thấp. Mặt khác nếu muốn xuất khẩu máy móc thiết bị nước ngoài thì
10
chịu thuế suất rất cao trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì được
miễn trừ.
- Về đất đai: Các DNVVN gặp khó khăn trong việc cấp quyền sử dụng đất,
khó khăn trong việc thuê đất làm trụ sở và nhà máy. Nguyên nhân là những thủ tục
chưa được thông suốt, còn rườm rà, không rõ ràng và thường không công nhận đối
với các DNVVN, đặc biệt các trường hợp đất công nghiệp, quyền mua bán, cầm cố
quyền sử dụng đất để ký quỹ chưa được chấp nhận.
- Về khả năng cạnh tranh trong nước và trên thế giới: Do những thủ tục hành
chính rườm rà, môi trường cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước là
nguyên chính gây ra tình trạng bản quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp
không được đảm bảo. Trên thị trường các mặt hàng giả, hàng nhái làm giảm sức
cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường nội địa. Còn trên thị trường quốc tế sức
cạnh tranh của DNVVN được đánh giá là rất thấp. Nguyên nhân chính là do hạn chế
về hoạt động thương mại, chất lượng sản phẩm thấp, marketing còn chưa trú trọng
đúng mức, thiếu khách hàng truyền thống, thân thiết, thông tin nắm bắt trên thị
trường nước ngoài có kém.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển kinh tế.
Hiện nay, chúng ta không thể không thừa nhận tầm quan trọng của DNVVN,
hoạt động và sự phát triển của chúng đóng góp vai trò lớn trong sự phát triển của
nền kinh tế đất nước.
Thứ nhất, làm cho nền kinh tế vận hành nhạy bén, hiệu quả hơn. Nếu hiểu
đơn giản theo quy luật vật lý thì khối lượng một vật các lớn thì quán tính của nó
càng lớn. Thật vậy, trong một nền kinh tế, các đơn vị càng to lớn như các tập đoàn,
công ty lớn thì càng thiếu tính linh hoạt thiếu khả năng phản ứng nhanh so với các
đơn vị kinh tế nhỏ. Nếu đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay

các doanh nghiệp quy mô lớn trong nền kinh tế thì sẽ trở nên chậm chạp, không bắt
kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, nếu đặt một tỷ lệ
thích hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nên kinh tế thì sẽ trở nên năng
động, nhạy bén, phản ứng kịp thời hơn, tính hiệu quả của nền kinh tế được nâng
11
cao. Số lượng loại hình doanh nghiệp này càng gia tăng sẽ góp phần tạo đổi mới
công nghệ, thúc đẩy phát triển ý tưởng và kỹ năng mới, thúc đẩy sự đầu tư giữa các
nền kinh tế trong và ngoài khu vực.
Thứ hai, tạo việc làm cho người lao động, giải quyết vấn đề thất nghiệp trong
xã hội. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới, mức độ sử dụng lao động
của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng gấp 4 – 10 lần, hàng năm thu hút trên
35% lao động trên thị trường. Với một quốc gia hơn 80 triệu dân như nước ta thì
điều này có ý nghĩa rất lớn, giải quyết các vấn đề về việc làm, hạn chế các vấn đề xã
hội. Vấn đề thất nghiệp đang là một vấn đề cấp bách thế nên khu vực này là giải
pháp hiệu quả cho những lao động có trình độ phổ thông, kỹ năng hạn chế tìm kiếm
được việc làm.
Thứ ba, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập dân cư. Mức
đóng góp trung bình của các DNVVN vào thu nhập quốc dân là khoảng 40 - 45%.
Do là một thành phần tích cực trong nền kinh tế phục vụ chủ yếu cho nhu cầu trong
nước, hoạt động dựa trên tiềm lực quốc gia, phát triển công nghệ và kỹ năng trong
nước, chính vì vậy nó có ý nghĩa là đòn bẩy giúp nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân, giảm những gánh nặng từ những tiêu cực xã hội.
Thứ tư, bên cạnh những vai trò trên thì khu vực DNVVN cũng có những vai
trò tích cực trong nền kinh tế như: gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh,
tăng nguồn vốn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương, cải thiện mối quan hệ giữa
các khu vực kinh tế với nhau, phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương góp
phần tăng trưởng kinh tế, giữ gìn và phát huy ngành nghề truyền thống thể hiện bản
sắc dân tộc.
1.1.4. Các kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thông thường nguồn vốn dành cho các DNVVN gồm nhiều nguồn khác nhau,

nhưng chủ yếu là các nguồn chính sau đây:
Một là, vốn tự có của DNVVN là vốn được tạo ra từ vốn riêng của doanh
nghiệp, vốn đóng góp của các cổ đông, bạn bè, họ hàng. Nguồn vốn này thường
chiếm khoảng 5-10% vốn luân chuyển của doanh nghiệp.
12
Hai là, nguồn tài chính phi chính thức là nguồn chủ yếu của DNVVN.
Nguồn vốn này được tìm kiếm từ cho vay nặng lãi, cho vay giữa các doanh nghiệp,
vay người thân, họ hàng, người quen, bạn bè…
Ba là, là nguồn tài chính chính thức bao gồm quỹ hỗ trợ phát triển, các
nguồn phi chính phủ và chính phủ. Các nguồn vốn chính thức này trên thực tế thì
các DNVVN khó có thể tiếp cận được. Thông thường các nguồn vốn quốc tế chỉ
dành cho các DNVVN có đủ điều kiện vay vốn như vốn điều lệ tối thiểu, sự cam kết
thực hiện hợp đồng của chủ doanh nghiệp, phương án kinh doanh khả thi. Trên thực
tế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít được các ngân hàng thương mại cho vay vốn
bởi các điều kiện về tài sản, các doanh nghiệp này không đủ giấy tờ pháp lý của các
bất động sản đem thế chấp, bản thân doanh nghiệp cũng chưa đủ sức để lập kế
hoạch kinh doanh thuyết phục, có hiệu quả. Chính vì lẽ đó thiếu vốn là một trở ngại
vô cùng lớn cho các DNVVN thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.1. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng có ba loại quan hệ chủ yếu: quan hệ tín
dụng ngân hàng với doanh nghiệp, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư,
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài nước.
Trong suốt sự phát triển lâu dài của tín dụng thì tín dụng ngân hàng tỏ ra có ưu
thế hơn hẳn các hình thức trước như: tín dụng cho vay nặng lãi, tín dụng thương
mại. Nguyên nhân là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng vay mượn là tiền,
ngoài ra nguồn vốn cho vay rất lớn vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà

Ngân hàng có thể tập trung và huy động được.
Có thể nói hình thức tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu
trong nền kinh tế thị trường và nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền
kinh tế một cách kịp thời, linh hoạt. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những
13
đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền
nằm phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh và qua đó làm cho sự phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp
cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.2.2. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong nước kéo theo sự đa dạng hóa
các hình thức tín dụng ngân hàng và khẳng định vai trò to lớn của nó với các thành
phần kinh tế khác đặc biệt là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho DNVVN.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì thường phải dựa vào ba nguồn vốn
chủ yếu là vốn tự có, vốn từ ngân sách và vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực
tế vốn ngân sách cho các doanh nghiệp thì rất ít ỏi mà vốn tự có thì lại hạn chế,
chính vì vậy vốn quan trọng nhất là vốn ngân hàng. Các ngân hàng luôn đa dạng
hóa các hình thức tín dụng ngân hàng để các doanh nghiệp có thể tiếp cận với
nguồn vốn một cách tốt nhất, nhưng các doanh nghiệp vẫn có hạn chế khi tiếp cận
với nguồn vốn này đặc biệt là DNVVN. Việc DNVVN thiếu vốn là điều khó có thể
tránh khỏi bởi sự ràng buộc về thể chế tín dụng và môi trường pháp lý chưa thực sự
đồng bộ.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và
phát triển của các DNVVN. Có thể nói tín dụng ngân hàng như một người đỡ đầu
cho doanh nghiệp ngay từ khi bắt đầu thành lập đến khi đi vào hoạt động, nếu
không có tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp khó có thể hình thành và rất nhiều
doanh nghiệp hoạt động một cách khó khăn.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, khuyến khích phát
huy các lợi thế để phát triển DNVVN.

Thứ tư, tín dụng ngân hàng giúp DNVVN nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi
doanh nghiệp đi vay ngân hàng thì doanh nghiệp bắt buộc phải có một phương án
kinh doanh phù hợp để có thể chịu áp lực trả nợ cho ngân hàng trong một thời gian
14
nhất định. Chính nguồn vốn vay từ ngân hàng đã thúc đẩy các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả nhất. Do vậy
vô hình chung đã đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp lên cao đòi hỏi doanh
nghiệp phải cạnh tranh trên các sản phẩm của mình về mẫu mã, chất lượng, thay đổi
công nghệ hiện đại bắt kịp với công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống
các yếu tố đầu vào và đầu ra cho các DNVVN. Hầu hết các DNVVN đều dùng
nguồn vốn ngân hàng để mua vật tư, hàng hóa để dự trữ cho sản xuất kinh doanh do
nó có vốn lưu động tự có rất thấp. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng cũng là nhân tố tác
động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp thông qua mở rộng tín
dụng tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa. Việc ngân hàng chọn lọc những doanh nghiệp có
hàng hóa chất lượng cao, sức cạnh tranh tốt đã thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế
mới theo hướng hiện đại, tiên tiến.
1.2.3. Hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Giống như tín dụng đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có đầy đủ các hình thức tín dụng như:
Tín dụng ngắn hạn DNVVN: là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng. Đây
là loại tín dụng sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền gửi,
trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên các khoản tín dụng ngân hàng thường tài
trợ ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thì nhu cầu về vốn vay ngắn hạn là chủ yếu do tính hoạt động của khu vực doanh
nghiệp này là kinh doanh thương mại và sản xuất nhỏ.
Tín dụng trung và dài hạn DNVVN: là hình thức tín dụng có thời hạn trên
một năm, trong đó các khoản tín dụng từ trên 1 năm đến 5 năm được coi là tín dụng

trung hạn, tín dụng trên 5 năm được coi là tín dụng dài hạn.
Mặc dù nhu cầu vốn vay chủ yếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ là ngắn hạn
song các khoản tín dụng trung và dài hạn cũng đóng góp phần quan trọng không
kém về nhu cầu đầu tư tài sản cố định, đổi mới dây truyền công nghệ, xây dựng nhà
15
xưởng sản xuất, trụ sở văn phòng, mua phương tiện đi lại… nhằm tăng cường năng
lực sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường cho các DNVVN. Cùng với sự
phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thì hình thức tín dụng trung và dài
hạn càng tỏ ra là được ưa chuộng bởi không những nó là nguồn đầu tư cho tài sản
cố định mà còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các DNVVN.
Tín dụng trung và dài hạn tạo ra một năng lực sản xuất mới hoặc nâng cao
năng lực hiện tại của doanh nghiệp. Đối tượng chủ yếu của hình thức này là vốn cố
định của doanh nghiệp, các chi phí hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh
nghiệp nên thời gian hoàn vốn chậm, mức độ rủi ro thường cao. Mặt khác các ngân
hàng thường tài trợ cho doanh nghiệp thông qua các dự án, chính vì thế đòi hỏi
ngân hàng hay các nhân viên tín dụng phải phân tích và xem xét dự án kỹ lưỡng
trước khi có quyết định tài trợ.
1.2.4. Quy trình tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Do tính cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng như phụ thuộc vào từng đặc
điểm của mỗi ngân hàng mà các ngân hàng chọn ra một quy trình tín dụng phù hợp
nhất với ngân hàng mình. Nhưng các quy trình này đều dựa trên một nguyên tắc cơ
bản và một quy trình chuẩn chung như sau:
Bước Tên Nội dung
1
Lập hồ sơ
tín dụng
- Giấy đề nghị vay vốn
- Giấy chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng( giấy
phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt
động…)

- Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự
án đầu tư.
- Báo cáo sản xuất kinh doanh cảu kỳ gần nhất
- Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo
lãnh nợ vay
- Các giấy tờ liên quan cần thiết khác.
2 Phân tích
tín dụng và
- Phân tích năng lực tài chính của doanh nghiệp
- Phân tích năng lực quản lý, điều hành của doanh nghiệp
16
Bước Tên Nội dung
trình phê
duyệt
- Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh trong thời gian qua
và sắp tới
- Đánh giá kế hoạch, chiến lược của doanh nghiệp
- Đánh giá tài sản bảo đảm của doanh nghiệp
3 Quyết định
và ký hợp
đồng tín
dụng
- Đồng ý cấp tín dụng và có thể bổ sung thêm thông tin
- Hoặc từ chối cấp tín dịnh và nêu rõ lý do từ chối
4
Giải ngân
Trên cơ sở hồ sơ chứng từ cụ thể của từng khoản tín dụng,
ngân hàng có thể phê duyệt giải ngân hoặc từ chối giải ngân.
5
Giám sát

tín dụng
- Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng
- Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ.
- Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ
- Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoặt động sản xuất kinh
doanh hoặc nơi cư ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn
- Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay
- Giám sát các hoạt động của khách hàng thông qua mối quan
hệ với khách hàng khác
- Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu nhập
khác
6 Thanh lý
hợp đồng
tín dụng
- Thu nợ
- Tái xét hợp đồng tín dụng
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
Khi nói đến chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ trên thị trường thì
ta thường xem xét đến mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về
mặt tài chính cho nhà cung cấp. Theo lối tư duy đó, trong kinh doanh tín dụng ngân
hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thỏa mãn nhu cầu vay vốn của khách
17
hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng ngân
hàng, ta xét trên ba khía cạnh sau:
Xét trên góc độ khách hàng: Khi khách hàng đến ngân hàng vay vốn để hoạt
động sản xuất kinh doanh thì chất lượng tín dụng được đánh giá trên theo tính chất
phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý.

Bên cạnh đó chất lượng tín dụng còn thể hiện ở thủ tục vay mượn đơn giản, thuận
lợi cho khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng trong nền kinh tế nhưng ngân
hàng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
Xét trên góc độ Ngân hàng thương mại: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở
phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân
hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng
hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng nhỏ là việc cấp tín dụng ở
mức độ và trong phạm vi nhất định để thỏa mãn nhu một cách tốt nhất khách hàng
của mình.
Xét trên góc độ nền kinh tế: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở việc tín
dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc
làm, khai thác tiềm lực trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế,
hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
Có thể hiểu chất lượng tín dụng cũng chính là chất lượng các khoản cho vay
của ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là vốn vay được đưa đến khách hàng
sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, tạo được lợi nhuận cao trên đồng vốn bỏ ra,
qua đó ngân hàng có thể thu hồi được gốc và lãi đúng thời hạn. Thông qua hành
động này ngân hàng không những tạo ra hiệu quả kinh doanh mà còn tạo ra được
hiểu quả kinh tế xã hội.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNVVN
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh độ thích nghi của
18
Ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh
của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Có rất nhiều chỉ
tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, dưới đây sẽ phân tích theo 2 khía cạnh chỉ tiêu
mang tính định lượng và chỉ tiêu mang tính định tính.
1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính
Chỉ tiêu này được đánh giá bởi chính khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ

của ngân hàng được thể hiện qua những biểu hiện sau:
- Ấn tượng đầu tiên đối với một khách hàng mới bước vào ngân hàng đó là
cách bố trí sắp xếp phòng làm việc của ngân hàng, trang phục của ngân viên, thái độ
phục vụ của các cán bộ ngân hàng đặc biệt là những chuyên viên quan hệ khách
hàng. Nếu khách hàng có một ấn tượng tốt, cảm giác thấy yên tâm, được đối xử nhẹ
nhàng, thái độ phục vụ nhiệt tình, thật thà, chân thành thì khách hàng sẽ có ấn tượng
rất tốt với ngân hàng, qua đó họ cảm nhận được chất lượng tín dụng của ngân hàng
đó tốt.
- Bên cạnh đó là cách làm việc chuyên nghiệp của nhân viên, cách ứng xử
giao tiếp, văn hóa doanh nghiệp của ngân hàng, uy tín của ngân hàng cũng góp phần
tạo ấn tượng và cảm tình của khách hàng, thu hút được các khách hàng mới và giữ
được các khách hàng truyền thống, điều đó đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng tốt hay xấu.
- Ngoài ra, có những chi tiết nhỏ, nếu ngân hàng không để ý thì sẽ mất đi
thiện cảm của khách hàng khi đến ngân hàng. Đó là Ngân hàng cần phải có đội ngũ
bảo vệ, bãi gửi xe, nhân viên trong xe không nên thu lệ phí gửi xe của ngân hàng,
nhân viên lễ tân niềm nở, chu đáo, hướng dẫn tận tình khách hàng. Điều này giúp
ngân hàng nâng cao được chất lượng tín dụng cho mình.
1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng
Muốn đánh giá được một ngân hàng tốt hay xấu, mạnh hay yếu, sức cạnh
tranh cao hay thấp thì dựa vào chỉ tiêu chất lượng tín dụng của ngân hàng đó. Hay
nói cách khác là một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt là ngân hàng có hiệu quả
19
sử dụng vốn cao, an toàn, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng sử dụng vốn
đồng thời mang lợi nhuận cao cho ngân hàng. Để đánh giá được chất lượng tín dụng
ngân hàng thì có thể dựa vào rất nhiều các chỉ tiêu, dưới đây là một số chỉ tiêu định
lượng cơ bản:

Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo

khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng
đúng hạn.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ
Khi nói đến tín dụng luôn luôn nhắc đến tính hoàn trả khoản vốn và tính an
toàn của khoản vay. Nếu một khách hàng không trả được khoản vay cho ngân hàng
đúng thời hạn như đã cam kết thì lúc đó khoản vay sẽ thuộc diện nợ quá hạn và bị
hưởng phạt lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Khi đó rủi ro trong kinh doanh của
ngân hàng sẽ cao lên do có khả năng mất vốn, mất khả năng thanh toán và sẽ giảm
lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao và chất lượng tín dụng càng thấp.
Theo quyết định QĐ493/2005 – NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dung trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
do thống đốc NHNN ban hành, gồm 5 nhóm nợ trong đó 4 nhóm nợ là thuộc nợ quá
hạn, tính lần lượt từ nhóm 2 đến nhóm 5 là: nhóm nợ cần chú ý, nhóm nợ dưới tiêu
chuẩn, nhóm nợ nghi ngờ, nhóm nợ có khả năng mất vốn. Trong 4 nhóm nợ quá
hạn này thì các nhóm nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 là những nhóm nợ xấu, khả năng thu
hồi chậm hoặc không thể thu hồi làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng
Để biết được trong tỷ lệ nợ quá hạn có bao nhiêu % tổng nợ quá hạn có khả
năng thu hồi, bao nhiêu % không có khả năng thu hồi và đánh giá tỷ lệ nợ quá hạn
chính xác hơn, người ta dùng thêm hai chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn không
khả năng thu hồi
=
Nợ quá hạn không khả năng thu hồi
x 100%
Tổng nợ quá hạn
20


Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Đây là chỉ tiêu cho biết trong một thời gian nhất định vốn tín dụng qua được
mấy vòng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ vốn vay ngân hàng đã luân
chuyển nhanh. Cũng là một khoản tiền đó nhưng nếu vòng quay vốn tín dụng nhanh
thì đáp ứng càng nhiều nhu cầu vốn cho nhiều doanh nghiệp, ngân hàng càng có
khả năng sử dụng vốn cho các hoạt động đầu tư khác của mình. Hệ số này càng tăng
càng phản ánh tình hình quản lý tín dụng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.

Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng vốn huy động
Trong quá trình kinh doanh đòi hỏi ngân hàng luôn phải xem xét đánh giá tỷ
trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của mình và đòi hỏi về vốn của nền
kinh tế hay chưa để biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, ngân
hàng đưa ra các quyết định về quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách
hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn vay, vừa thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.

Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng
Lãi từ hoạt động tín dụng
Thu nhập từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Một khoản tín dụng được coi là có chất lượng cao khi nó đem về cho ngân
hàng mức sinh lời cao. Ngân hàng tồn tại và phát triển được là nhờ vào các nguồn
thu từ hoạt động tín dụng chính vì thế nếu ngân hàng chỉ chú trọng vào việc giảm và
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả
năng thu hồi

= Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
Tổng nợ quá hạn
21
duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín
dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp cũng không có ý nghĩa. Do đó trong kinh doanh ngân
hàng luôn phải cân bằng khoản sinh lời với mức rủi ro tín dụng để đảm bảo khoản
cho vay thu hồi được mà vẫn có lợi cho mình.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNVVN.
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan.
Chính sách tín dụng là chính sách của ngân hàng được đặt ra trong từng giai
đoạn, thời kỳ phát triển cụ thể, nó phản ánh phương hướng mục tiêu tín dụng của
ngân hàng và có ý nghĩa quyết định trong kinh doanh ngân hàng. Chính sách tín
dụng bao gồm hạn mức tín dụng, kỳ hạn của các khoản vay, lãi suất cho vay và mức
lệ phí, các loại cho vay được thực hiện. Chính sách tín dụng của ngân hàng phải
được xây dựng trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế, chính sách tiền tệ, chính
sách của NHNN, tiềm lực của chính ngân hàng mình, nhu cầu vốn của khách hàng.
Khi một trong các yếu tố này thay đổi thì ngân hàng cũng có chính sách tín dụng
thay đổi theo. Đối với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau thì ngân hàng xây dựng
chính sách tín dụng cho phù hợp, linh động cho từng khách hàng, có những chính
sách ưu đãi cho các khách hàng lâu năm, uy tín của ngân hàng.
Chính sách tín dụng luôn đi đôi với chất lượng tín dụng, để đảm bào và nâng
cao chất lượng tín dụng thì ngân hàng phải có những chính sách tín dụng phù hợp
với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của người gửi tiền.
Bất kể một ngân hàng nào muốn có một chất lượng tín dụng tốt cũng phải đầu tư
xây dựng chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế của ngân hàng cũng
như thị trường.
Tổ chức nhân sự: Trong bất cứ một hoạt động kinh doanh nào thì con người
cũng luôn là yếu tố quyết định nhiều nhất đến sự thành, bại. Sử dụng nguồn lực con
người là một cách khôn ngoan và là chiến lược để đi đến thành công. Trong kinh

doanh ngân hàng, muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh, chất lượng tín dụng thì ngân
hàng phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, chuyên nghiệp, am hiểu và có kiến
thức sâu rộng về thị trường đặc biệt là lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững
22
những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Ngân hàng luôn coi
trọng công tác đào tạo tuyển chọn nhân tài hàng năm để có được đội ngũ lao động
trẻ, năng động sáng tạo tiếp cận nhạy bén với công nghệ tiên tiến trên thế giới. Bên
cạnh đó, cần xây dựng một văn hóa doanh nghiệp tốt quy định những chuẩn mực về
đạo đức, tính liêm khiết, bởi lẽ nếu cán bộ tín dụng vô trách nhiệm trong công việc
hay cố ý vi phạm thì sẽ gây tổn thất rất lớn cho ngân hàng.
Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước
tiến hành trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó
bao gồm các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra trong
quá trình cho vay đến khi thu hồi được nợ.
Để cho một khách hàng vay vốn ngân hàng cần trải qua nhiều khâu khác
nhau, khâu quan trọng ảnh hưởng quyết định cho vay hay không là khâu chuẩn bị
cho vay. Một chuyên viên tín dụng sẽ phải làm những công việc trong khâu này là
khai thác và tìm kiếm khách hàng, phân tích thẩm định khách hàng, phương án và
dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng của ngân hàng có tốt hay không là phụ thuộc
vào chất lượng thẩm định tín dụng của chuyên viên tín dụng cũng như các quy định
về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng đó.
Nếu như khâu kiểm tra quá trình sử dụng vốn của khách hàng là khâu giúp
ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng thì khâu thu hồi và
giải quyết nợ là khâu quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thật vậy,
một ngân hàng nhạy bén trong việc kịp thời phát hiện những biểu hiện bất lợi xảy ra
đối với khách hàng, luôn có những biện pháp phòng tránh xử lý kịp thời, tư vấn cho
khách hàng thì sẽ có tác động tích cực đối với hoạt động tín dụng.
Bên cạnh đó quy trình tín dụng còn là công tác thu thập thông tin. Ngân hàng
muốn tìm hiểu về khách hàng của mình thì có thể thông qua nhiều kênh như: từ các
ngân hàng thương mại khác, từ báo chí, thông tin truyền hình, đại chúng, thông tin

do cán bộ tín dụng thu thập được từ chính khách hàng, qua báo cáo tài chính của
ngân hàng. Thông tin tốt là thông tin nhanh chóng, chính xác cao, toàn diện và
khách quan, nó sẽ quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Cũng giống như chính sách tín dụng, thì quy trình tín dụng cũng luôn phải
23
linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng khác nhau, cho từng trường hợp cụ thể.
Ngân hàng luôn coi việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là hàng đầu nhưng cũng cần phải
có biện pháp cân bằng với công tác cho vay cũng như quy trình tín dụng tránh rườm
rà, phức tạp ảnh hưởng đến công tác tín dụng.
Kiểm soát nội bộ: Đây là công tác mà ngân hàng nào cũng phải coi trọng
và cần phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Nó giúp ngân hàng điều chỉnh
được phương hướng, mục tiêu kinh doanh của mình trong từng thời kỳ cụ thể
một cách kịp thời, phát hiện nhanh chóng những sai sót để sửa chữa, giải quyết
những vướng mắc trong kinh doanh. Điều này giúp cho ngân hàng thực hiện tốt
quy trình tín dụng, công tác tín dụng và qua đó cũng nâng cao chất lượng tín
dụng cho ngân hàng.
1.3.3.2. Các nhân tố khách quan từ phía khách hàng.
Đạo đức và uy tín của người đi vay: Khi ngân hàng thực hiện đúng quy
trình tín dụng tức là ngân hàng đã sàng lọc và lựa chọn ra những khách hàng có đủ
đạo đức và uy tín để cho vay. Đạo đức của khách hàng là một yếu tố quan trọng
trong công tác thẩm định tín dụng, nó được đánh giá không chỉ bằng đạo đức phẩm
chất con người mà còn được kiểm nghiệm qua những hoạt động sản xuất kinh
doanh trong quá khứ của ngân hàng đó. Đạo đức của khách hàng còn được thể hiện
thông qua tính trung thực cung cấp thông tin cho cán bộ tín dụng ngân hàng, sử
dụng đúng mục đích vay vốn và có trách nhiệm hoàn thành trả nợ và lãi đúng thời
hạn cam kết. Ngoài ra, để có kết luận chính xác ngân hàng còn dựa vào uy tín của
khách hàng, phân tích các số liệu về chất lượng, giá cả hàng hóa dịch vụ, các quan
hệ tài chính vay vốn, trả nợ của khách hàng với bạn hàng, tổ chức tín dụng khác…
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng: Năng lực của
khách hàng là yếu tố quyết định doanh nghiệp có sử dụng được hiệu quả nguồn vốn

vay hay không, cũng như hiệu quả kinh doanh có tốt hay không. Một khách hàng có
năng lực yếu kém, kinh nghiệm kinh doanh hạn chế thể hiện bởi khả năng sản xuất
kém hiệu quả, phân phối và chiếm lĩnh thị trường chậm, không dự đoán được những
cung bậc thay đổi của nền kinh tế, khi có sự cố kinh tế xảy ra thì rất dễ rơi vào
khủng hoảng hoặc thậm chí là sụp đổ. Do đó, khách hàng không thể trả được nợ
24
ngân hàng như đã cam kết, làm thiệt hại đến kinh doanh của ngân hàng. Nhưng nếu
ngân hàng phân tích năng lực khách hàng chuẩn xác, cho vay những khách hàng có
năng lực kinh doanh cao, sức cạnh tranh trên thị trường lớn, sử dụng vốn có hiệu
quả thì ngân hàng sẽ đem về cho mình càng nhiều lợi nhuận.
Chính vì vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh
nghiệm quản lý kinh doanh của người đi vay.
1.3.3.3. Các nhân tố khách quan khác.
Tác động từ môi trường kinh tế: Tính ổn định hay bất ổn về kinh tế hay
chính sách kinh tế của mỗi quốc gia sẽ tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Khi nền kinh tế xảy ra
khủng hoảng hay lạm phát hoạt đông kinh doanh sẽ rất khó khăn, các doanh nghiệp
rụt rè hơn trong các quyết định của mình, sự bất ổn bao trùm đến toàn bộ các hoạt
động của ngân hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng gây tổn thất cho ngân
hàng. Ngược lại khi nền kinh tế ổn định là điều kiện, môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận và từ đó góp phần thành
công trong kinh doanh của ngân hàng.
Tác động từ môi trường cạnh tranh: Đây là yếu tố tác động mạnh tới chất
lượng tín dụng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ta phân tích theo hai chiều
hướng như sau: thứ nhất, để chiếm được ưu thế cạnh tranh, ngân hàng luôn phải
quan tâm tới đầu tư trang thiết bị hiện đại tiên tiến trên thế giới, tăng cường đội ngũ
nhân sự có trình độ, củng cố và luôn nâng cao uy tín và thế mạnh của ngân hàng,
chính điều này đã tạo điều kiện nâng cao tín dụng cho ngân hàng. Mặt khác, khi
phân tích chiều hướng thứ hai, khi sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay
gắt, sức ép cạnh tranh rất lớn, các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng

cần thiết làm rủi ro tăng lên, làm giảm chất lượng tín dụng ngân hàng.
Tác động từ môi trường pháp lý: Một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh,
thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới luật, sự sắc nhiễu của các
cơ quan hành chính có liên quan sẽ làm cho doanh nghiệp gặp phải những khó
khăn, thụ động trong công tác kinh doanh, đưa vốn vào sản xuất, có nguy cơ gặp
nhiều rủi ro. Và như vậy doanh nghiệp khó mà hoạt động hiệu quả được, làm hệ lụy
25

×