Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.2 KB, 78 trang )

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam hiện nay đang được biết đến như một quốc gia ổn
định về chính trị, tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế, với mức tăng trưởng
8,5% trong năm 2007, cao nhất trong hơn 10 trở lại đây. Để đạt được những
thành tựu kinh tế như vậy không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của
cộng đồng các doanh nghiệp mà đặc biệt là các DNV&N (hiện đang chiếm
96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt
động theo Luật doanh nghiệp; chiếm 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh
doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực
lượng lao động phi nông nghiệp).
Xác định được tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển kinh tế
đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã
có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả
hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình doanh nghiệp
này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần
được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày
càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân
biệt đối xử so với các doanh nghiệp lớn giảm nhiều. Đặc biệt, ở yếu tố quan
trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N là
việc tiếp cận với các nguồn vốn đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so
với những năm trước đây, nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là
một bước “chuyển đổi tích cực” trong cơ cấu tài sản.
Nhưng theo kết quả điều tra do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương phối hợp với Tổ chức Danida (Đan Mạch) tiến hành năm 2007 với
2.800 DNV&N tại 10 tỉnh, thành phố cho thấy trong những trở ngại mà DN
gặp phải thì thiếu vốn, ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất.
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
1
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp


Hầu hết các DNV&N đang rất lao đao trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng. Khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường
xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị ngân hàng từ chối. Số doanh
nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng
gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên
mức 26,5%.
Bài toán Ngân hàng – DNV&N đến khi nào mới giải được để khơi
thông nguồn vốn hỗ trợ cho 96% doanh nghiệp Việt Nam phát triển ?
Đứng trước thực tế đó, trong thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu
tại phòng tín dụng 3 Sở giao dịch của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam em đã quyết định lực chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam” làm chuyên đề thực tập cho mình.
Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết chung về hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại, cùng với việc phân tích thực trạng hoạt động cho vay
tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em xin được phép
đưa ra một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu và tài liệu tham
khảo, nội dung chuyên đề gồm 3 chương sau:
Chương I: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp vừa vừ nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
2
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp

Chương I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể
nhận được những khoản vay trả góp để thanh toán cho việc mua sắm những
tiện nghi trong gia đình hay để trang trải học phí, đầu tư mở rộng hoạt động
kinh doanh…Bên cạnh đó ngân hàng cũng là địa chỉ tin cậy nếu như chúng
ta muốn nhận được sự tư vấn về đầu tư, kinh doanh chứng khoán…hay sử
dụng các dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh, những dịch vụ ngân hàng hiện đại như
homebanking, phonebanking....Có thể nói ngân hàng với hệ thống chân rết
len lỏi đến tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tác động đến sự phát triển của
mọi lĩnh vực trong một nền kinh tế.
Ngày nay, hoạt động ngân hàng không ngừng phát triển, sự phát triển
ấy có thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự mở rộng mạng lưới
cho đến sự ra đời của rất nhiều sản phẩm dịch vụ mới…Tuy nhiên, càng
ngày ngân hàng càng phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt
hơn. Thực tế là, rất nhiều các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm các
công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh bất động sản…
đều đang cố gắng cung cấp những dịch vụ ngân hàng. Để đối phó, ngân hàng
cũng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ của mình, hướng về lĩnh vực bất
động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm… Vì vậy
để có thể phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác thì cách tiếp
cận thận trọng nhất có thể xem xét là trên phương diện những loại hình dịch
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
3
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp. Bằng cách tiếp cận này thì có thể

hiểu:
Ngân hàng thương mại là loại tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Tại Việt Nam, theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi
năm 2004: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong
đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hiểu một cách đơn giản nhất, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một
khoảng thời gian xác định.
Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay
trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà
ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện
đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
Khả năng cho vay của ngân hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng
được các cơ quan quản lý Nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Nhà nước kỳ
vọng ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của địa phương thông qua việc cung
cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu
dùng ở một mức lãi suất hợp lý. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối
liên hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
4
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức
sống cho nền kinh tế.

Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm quá
nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân hàng.
Đồng thời, rủi ro của hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh
mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về mặt tài chính của một ngân
hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số
nguyên nhân như: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc
tín dụng, chính sách tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng
suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế…
1.1.3 Đối tượng cho vay của NHTM.
Ngân hàng xem xét cho vay các đối tượng sau:
• Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị bao gồm cả
thuế giá trị gia tăng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục
vụ đời sống…
• Nhu cầu tài chính của khách hàng: Số tiền thuế xuất
khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu,
thuế giá trị gia tăng đối với lô hàng nhập khẩu…
• Các đối tượng cho vay khác như: Cho vay góp vốn thành
lập công ty liên doanh; Cho vay trả lãi tiền vay trong thời hạn thi công...
1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1 Khái niệm
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
5
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Ở mỗi nước khác nhau quan niệm về DNV&N cũng khác nhau.
Nhưng hiểu một cách chung nhất thì DNV&N là những doanh nghiệp có
quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu.
Trong thực tế, phần lớn các nước đều sử dụng hai tiêu thức vốn điều

lệ và số lao động thường xuyên để xác định DNV&N. Chúng ta có thể thấy
rõ tiêu thức phân loại của các nước thông qua bảng sau đây:
Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNV&N tại một số quốc gia
Nước Số lao động Tổng vốn Doanh thu
Thái lan < 100 < 20 triệu Baht
Indonesia < 100 0.6 tỷ Rupi < 2 tỷ Rupi
Hàn Quốc < 300 trong công
nghiệp, xây dựng.
< 200 trong thương
mại, dịch vụ
<0.6 triệu USD
0.25 triệu USD < 1.4 triệu USD
Đài Loan < 300 trong công
nghiệp, xây dựng.
< 50 trong thương mại,
dịch vụ
1.4 triệu USD
< 1.4 triệu USD
Nhật Bản < 100 trong bán buôn.
< 50 trong bán lẻ.
< 30 triệu yên.
< 10 triệu yên
Canada < 500 trong công
nghiệp, dịch vụ
< 20 triệu đô la
Canada
(Nguồn: Kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N
ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia HCM, Hà Nội, 1996)
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001:
“DNV&N là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo

pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động
trung bình hằng năm không quá 300 người”.
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
6
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Với tiêu thức xác định DNV&N này thì ở Việt Nam hiện nay có
khoảng 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm các DNV&N và trong
khu vực kinh tế tư nhân, các DNV&N chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng
99% về lao động.
1.2.1.2 Phân loại.
DNV&N có thể được chia thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là
doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ
là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có
số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50
đến 300 lao động.
Một cách phân loại khác được các NHTM Việt Nam sử dụng hiện nay
để có thể dễ dàng hơn cho việc đánh giá, xếp hạng, quản lý khách hàng
doanh nghiệp là phân loại theo ngành nghề kinh doanh. Theo tiêu thức này
thì DNV&N được chia thành 4 loại:
- Doanh nghiệp hoạt động trong
ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
- Doanh nghiệp hoạt động trong
ngành thương mại, dịch vụ.
- Doanh nghiệp hoạt động trong
ngành xây dựng.
- Doanh nghiệp hoạt động trong
ngành công nghiệp.
1.2.1.3 Vai trò của DNV&N
Ở mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia hay lãnh thổ khác nhau, các

DNV&N có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung
có một số vai trò tương đồng như sau:
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
7
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
• Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
việc làm
Các DNV&N thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng
số doanh nghiệp. Vì vậy đóng góp của của họ này vào tổng sản lượng và
việc tạo việc làm là rất lớn. Ngay như ở Mỹ - một đất nước mà ở đó có
những cái tên như Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu – các
DNV&N vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con
số 40% GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc
khu vực này.
Theo số liệu thống kê của các nước Châu Á cũng cho thấy tỷ trọng thu
hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N ở các nước này cũng
rất đáng kể. Các DNV&N thường chiếm khoảng 81% - 98% tổng số doanh
nghiệp trong cả nước, thu hút 30-60% lao động và tạo ra 20-40% giá trị gia
tăng trong nền kinh tế.
Bảng 1.2 Khả năng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các
DNV&N
Nước Thu hút lao động Giá trị gia tăng
Singapore 35.2% 26.6%
Malaisia 47.8% 36.4%
Hàn Quốc 37.2% 21.1%
Nhật Bản 35.2% 38*%
Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2007
cho thấy, các DNV&N hiện chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo luật doanh nghiệp; 99% số
lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, tạo ra khoảng 49% việc làm

phi nông nghiệp (chiếm khoảng 25% tổng số lao động trong cả nước) đồng
thời cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia và chi phối
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
8
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
hầu hết các hoạt động phân phối (bán lẻ) của cả nước (chiếm tỷ trọng
khoảng 80%).
• Góp phần ổn định nền kinh tế
Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNV&N là những nhà thầu của
những doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm
cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, các DNV&N được ví như
là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
• Tác nhân giúp cho nền kinh tế năng động hơn
Vì có quy mô nhỏ về vốn và lao động, nên các DNV&N dễ điều chỉnh
(xét về mặt lý thuyết) hoạt động của mình. Khi ngành nghề kinh doanh mà
doanh nghiệp đang hoạt động gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp có thể
nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh, thay đổi ngành nghề kinh doanh, cơ
cấu sản phẩm…Mặt khác, do quy mô nhỏ nên tốc độ tăng trưởng, mở rộng
quy mô hoạt động của doanh nghiệp thường cao, khả năng thu hồi vốn
nhanh chóng góp phần đáng kể trong việc tạo nên một nền kinh tế năng
động.
• Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan
trọng
Các DNV&N thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết
được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, đây là cơ sở hình
thành nên ngành công nghiệp phụ trợ có tác động rất lớn đến sự phát triển
của ngành công nghiệp chính. Ví dụ: Có thể kể đến những tập đoàn lớn như
Boeing hay Microsoft, những tập đoàn này cũng không thể hoạt động đơn lẻ
mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ trong việc sản
xuất phụ kiện phụ trợ cho sản phẩm chính.

• Là trụ cột của kinh tế địa phương
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
9
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh
tế lớn của đất nước, thì DNV&N lại có mặt ở khắp các địa phương và chính
là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách của địa phương, vào sản
lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, các DNV&N còn đóng
vai trò quan trọng trong việc góp phần gìn giữ và phát triển những làng nghề
truyền thống, tích tụ vốn là cơ sở hình thành những doanh nghiệp lớn.
1.2.1.4 Đặc điểm của DNV&N
• Quy mô nhỏ về cả vốn và số lượng lao động
Một cuộc điều tra quy mô được Cục phát triển DNV&N (thuộc Bộ Kế
hoạch và đầu tư) tiến hành năm 2005 với sự tham gia của hơn 63 nghìn
doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy: gần 50% số doanh nghiệp
có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ
đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
Và cho đến năm 2007, trong số 250 nghìn doanh nghiệp vẫn có đến
40% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
Do có quy mô nhỏ bé về cả vốn và lao động nên các DNV&N còn có
hàng loạt các đặc điểm sau:
o Vì quy mô đầu tư vốn ban đầu nhỏ nên thời gian thu hồi vốn
của các DNV&N nhanh, hiệu quả sử dụng vốn cao.
o Các doanh nghiệp rất nhanh nhạy đối với những thay đổi của
thị trường, dễ dàng chuyển đổi loại hình kinh doanh cũng như cơ cấu
sản phẩm. Đây là một lợi thế của các DNV&N so với các doanh
nghiệp lớn.
o Tuy vậy, chính quy mô sản xuất nhỏ dẫn đến chi phí sản xuất
của các DNV&N lại khá cao, kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất

Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
10
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
lượng sản phẩm thấp và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên các
DNV&N rất khó tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước ngoài.
• Loại hình kinh doanh đa dạng
Các DNV&N tham gia kinh doanh với mọi hình thức trong mọi ngành
nghề khác nhau vì vậy có thể xen vào tất cả các “khe” của thị trường, phục
vụ mọi nhu cầu phát sinh của nền kinh tế, lấp vào khoảng trống của các
doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
• Bộ máy tổ chức gọn nhẹ
Với bộ máy tổ chức gọn nhẹ, cơ chế quản lý linh hoạt, các DNV&N
có thể áp dụng được nhiều mô hình quản lý khác nhau góp phần làm giảm
thiểu chi phí quản lý, giảm thủ tục hành chính và dễ dàng chuyển đổi hình
thức kinh doanh.
• Hạn chế về vốn
Hạn chế về vốn là đặc điểm chung của đại đa số các DNV&N. Trong
khi các doanh nghiệp lớn có khả năng thu hút vốn bằng nhiều cách khác
nhau như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng…thì các
DNV&N lại chỉ loay hoay trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Một mặt vì
những khó khăn, trở ngại trong việc tiếp xúc với nguồn vốn vay. Mặt khác
thường là các DNV&N không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị
trường chứng khoán.
• Thiếu minh bạch trong việc xác định tài sản
cá nhân và tài sản pháp nhân
Rất nhiều DNV&N, nhất là các công ty trách nhiệm hữu hạn, tài sản
pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó
thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của doanh nghiệp. Nguyên nhân của
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
11

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
hiện tượng này chính là do trình độ học vấn và sự kém hiểu biết cán bộ quản
lý doanh nghiệp.
• Hệ thống báo cáo tài chính không có hoặc
thiếu minh bạch
Các DNV&N thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không
tuân chủ chế độ phát hành hóa đơn bán hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội
dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp không đầy đủ,
thiếu chính xác và minh bạch. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
thường được xây dựng chỉ mang tính chất đối phó với cơ quan thuế. Doanh
nghiệp không xác định được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy nếu nộp đơn xin
vay vốn ngân hàng cũng không thể tính toán được đúng khả năng trả nợ
trong tương lai.
• Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ thấp
Một thực trạng phổ biến trong các DNV&N hiện nay là hệ thống máy
móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với
ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ
đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so
với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so
với định mức tiêu chuẩn của thế giới.
Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so
với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá
thành cao và năng suất thấp.
• Đội ngũ lao động thiếu trình độ
Một trong những khó khăn hiện nay của các DNV&N gặp phải là
thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Có thể nói trình độ học
vấn của cả người lao động và của chủ các DNV&N là rất thấp.
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
12

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Theo thống kê năm 2006, trong số hơn 25% lao động có chuyên môn
thì chỉ 6% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có
trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được
hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng
quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ lại luôn khó
khăn về vốn nên hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để
đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
Đây là một lực cản mà tất cả các doanh nghiệp đều gặp và cần phải
quyết tâm vượt qua vì sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp này trong điều
kiện hội nhập hiện nay.
1.2.2 Vai trò của hoạt động cho vay DNV&N
1.2.2.1 Đối với DNV&N
Thứ nhất, vốn vay NHTM là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời
và phát triển của các DNV&N. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, bên
cạnh thông tin, nhân lực và công nghệ, một trong những nhu cầu không thể
thiếu của doanh nghiệp là vốn. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
thường dựa các nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu, vốn vay ưu đãi, vốn vay
phi chính thức và vốn vay ngân hàng. Một mặt, do vốn chủ sở hữu của các
DNV&N thấp lại không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị trường
chứng khoán. Mặt khác, không phải DNV&N nào cũng nhận được nguồn
vốn vay phi chính thức từ người thân, bạn bè…và nếu có được nhận thì
nguồn này cũng rất ít ỏi; đối với nguồn vốn vay ưu đãi thì thủ tục xin vay
vốn lại khá rườm rà, phức tạp, yêu cầu có tài sản thế chấp và phí môi giới để
được hưởng khoản vay cao khiến các doanh nghiệp nản lòng. Vì vậy, có thể
nói vốn vay ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với các DNV&N,
không những trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và
phát triển mà ngay từ khi thành lập, nếu không có nguồn hỗ trợ tích cực của
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
13

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
tín dụng từ ngân hàng thì nhiều doanh nghiệp cực kỳ khó khăn trong việc
thành lập và hoạt động ban đầu.
Thứ hai, vốn vay NHTM là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nâng
cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để được
vay vốn ngân hàng, buộc các doanh nghiệp phải nâng cao uy tín cũng như
hiệu quả hoạt động của mình đồng thời cũng phải xây dựng được những
phương án kinh doanh có hiệu quả hoặc dự án đầu tư khả thi. Bên cạnh đó
với áp lực của việc phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn cho ngân
hàng các doanh nghiệp cũng phải tính toán và lập ra được phương án trả nợ
hiệu quả nhất.
Thứ ba, hoạt động cho vay của NHTM góp phần hình thành đồng bộ
hệ thống các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNV&N. Đa số các
DNV&N có vốn lưu động rất thấp so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để
mua vật tư, hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp
bằng vốn vay NHTM. Mặt khác, hoạt động cho vay của NHTM cũng tác
động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua
mở rộng cho vay tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá.
1.2.2.2 Đối với NHTM
Hiện nay, ở Việt Nam, có nhiều ngân hàng đã rất tích cực tiếp thị vốn
ngân hàng đến cộng đồng các DNV&N qua các cuộc hội thảo hoặc đối thoại
trực tiếp với các doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
Nguyên nhân là do các ngân hàng đã nhận thức được vai trò của việc mở
rộng cho vay đối với đối tượng doanh nghiệp này.
Thị trường khách hàng tiềm năng: Trước đây, những ngân hàng lớn
thường không chú trọng cho vay đối với các DNV&N vì họ tin rằng các
khoản cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này nói chung có quy mô nhỏ
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
14

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
với rủi ro lại tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Song, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt buộc các ngân
hàng phải hướng tới DNV&N như là một khách hàng quan trọng và tiềm
năng. Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là đối
tượng khách hàng chiến lược của mình như Agribank, Vietcombank, VP
bank...
Cho vay đối với DNV&N phân tán được rủi ro. Do số lượng các
doanh nghiệp rất lớn, ngành nghề kinh doanh lại rất đa dạng, thêm vào đó
những khoản vay của các doanh nghiệp lại không quá tập trung vốn vì vậy
việc cho vay đối với DNV&N có thể phân tán được rủi ro. Việc một hoặc
một số doanh nghiệp gặp khó khăn cũng thường không đem lại hậu quả quá
lớn đối với hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, không như các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn có quan
hệ với nhiều ngân hàng cùng một lúc, các DNV&N thường có quan hệ với
chỉ một hoặc hai ngân hàng. Vì vậy ngân hàng có thể cung cấp và thu phí
trọn gói các dịch vụ tài chính của mình như vừa thực hiện việc cho vay vừa
cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính...
Thêm vào đó, do quy mô doanh nghiệp tương đối nhỏ gọn, địa bàn
hoạt động của các doanh nghiệp cũng thường nằm trong một địa phương xác
định, vì vậy dễ dàng hơn cho ngân hàng trong việc tìm hiểu thông tin về
doanh nghiệp cũng như quản lý việc vay vốn, sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
1.2.3 Phân loại hoạt động cho vay đối với DNV&N.
1.2.3.1 Phân loại theo hình thức đảm bảo tiền vay.
a) Cho vay đảm bảo bằng tài sản.
Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc tài sản của bên
thứ ba
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
15

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Cầm cố là hình thức theo đó doanh nghiệp vay vốn (hoặc bên thứ ba)
phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời
gian vay vốn.
Thế chấp là hình thức theo đó doanh nghiệp (hoặc bên thứ ba) phải
chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu các tài sản đảm bảo sang ngân
hàng nắm giữ trong thời gian vay vốn.
Ngân hàng thường yêu cầu đảm bảo bằng hình thức cầm cố khi xét
thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo không an toàn cho ngân hàng.
Thường đó là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng như chứng khoán,
ngoại tệ mạnh, kim khí quý... Song, nhiều tài sản của khách hàng tuy trở
thành tài sản đảm bảo cho các khoản vay của ngân hàng nhưng vẫn phải
tham gia vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp ví dụ như máy móc,
trang thiết bị, nhà đất…vì vậy không thể dùng để cầm cố. Mặt khác, các tài
sản này thường cồng kềnh, phân tán, hơn nữa việc chuyển giao lại cho ngân
hàng nắm giữ lại không đơn giản vì vậy đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Ví dụ: khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để nhập khẩu hàng
hóa nhưng giá trị tài sản đảm bảo của doanh nghiệp không đáng kể, thì số
hàng hóa hình thành từ vốn vay có thể trở thành tài sản đảm bảo cho khoản
vay ngân hàng.
Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc doanh
nghiệp bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi doanh nghiệp
không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá,
khó bán. Do đó cách thức bảo đảm này thường áp dụng cho các doanh
nghiệp mà các tài sản đảm bảo khác có ít, hoặc không thể trở thành tài sản
đảm bảo cho ngân hàng.
b) Cho vay không có tài sản đảm bảo
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
16

GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội
Bảo lãnh vay vốn là việc người thứ ba cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện được. Đối với người bảo lãnh có uy tín, ví dụ như Chính phủ, các tổ
chức tài chính lớn…ngân hàng chấp nhận hình thức bảo lãnh bằng uy tín của
người thứ ba mà không cần tài sản đảm bảo.
Hiện nay tại Việt Nam, những DNV&N có dự án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay; có tổng giá trị tài
sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối
thiểu bằng 30% giá trị khoản vay, không có các khoản nợ thuế, nợ quá hạn
tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác sẽ được Quỹ bảo lãnh
tín dụng các tỉnh thành trực thuộc trung ương cấp bảo lãnh tín dụng tối đa
bằng 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp,
cầm cố của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng để hỗ trợ cho doanh nghiệp
vay vốn tại ngân hàng.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với doanh nghiệp có đủ
điều kiện
Cho vay không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho những doanh
nghiệp có uy tín, thường là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
thường xuyên có lãi, có tình hình tài chính tốt, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây
dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc
những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà mà ngân hàng có khả năng
giám sát việc bán hàng…cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Sau khi chấm điểm và xếp hạng khách hàng, những khách hàng uy tín
được ngân hàng cho vay không cần tài sản đảm bảo bao gồm:
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
17
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp

+ Đối với khách hàng nhóm AA, AAA, trong phạm vi quy định của
pháp luật, của Ngân hàng Nhà nước, được BIDV xem xét cho vay, bảo lãnh
tối đa đến 100% dư nợ cho vay, số dư bảo lãnh không có tài sản đảm bảo.
+ Đối với khách hàng nhóm A, BBB, trong phạm vị quy định của
pháp luật, của Ngân hàng nhà nước, được BIDV xem xét cho vay không có
tài sản đảm bảo bằng tài sản đối với khách hàng đến mức tối đa 40% dư nợ
vay tại BIDV.
+ Đối với khách hàng nhóm B, BB, được BIDV xem xét cho vay
không có tài sản đảm bảo bằng tài sản đối với khách hàng đến mức tối đa
30% dư nợ vay tại BIDV.
1.2.3.2 Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến khả năng hoàn trả của khách hàng, tính an toàn
và sinh lời của hoạt động cho vay của ngân hàng. Theo thời gian cho vay
được phân thành:
a) Cho vay kinh doanh ngắn hạn
Các khoản cho vay ngắn hạn có thời hạn cho vay không quá 12 tháng,
tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay từng món hoặc theo hạn mức, có
hoặc không có tài sản đảm bảo, dưới hình thức thấu chi hay luân chuyển.
Cho vay ngắn hạn bao gồm các trường hợp:
Cho vay vốn lưu động: Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng
để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hóa
(thành phẩm). Các khoản cho vay này thường tận dụng chu kỳ tiền mặt
thông thường trong một doanh nghiệp, kỳ hạn của khoản vay được bắt đầu
tính từ khi doanh nghiệp cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc khi
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
18
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho

ngân hàng.
Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng: các khoản cho vay này
cung cấp vốn cho bên thi công để thuê nhân công, thuê thiết bị xây dựng,
mua nguyên vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng.
Cho vay kinh doanh bán lẻ: ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong
việc mua trả góp xe máy, đồ dùng gia đình, nội thất và các hàng hóa lâu bền
khác bằng cách tài trợ cho các khoản phải thu mà người bán những hàng hóa
này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp.
Cho vay trên tài sản: là khoản vay được bảo đảm bằng các tài sản
ngắn hạn của doanh nghiệp, được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong
tương lai. Tài sản chủ yếu được dùng để đảm bảo cho khoản vay bao gồm
các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng
cho vay theo một tỷ lệ nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu
hoặc giá trị hàng tồn kho.
b) Cho vay trung hạn và dài hạn
Cho vay trung hạn có thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm, tài trợ cho các
tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng, vật nuôi, trang
thiết bị chóng hao mòn…
Cho vay dài hạn là khoản vay có thời hạn cho vay trên 5 năm, tài trợ
cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị
có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì
nhiều khoản cho vay không xác định được trước chính xác thời hạn. Phân
chia hoạt động cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
19
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao
hơn cho vay trung và dài hạn: Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu

động của doanh nghiệp. Cho vay trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp
hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động cho
vay đối với DN vừa và nhỏ
1.2.4.1 Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm
quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính
sách rõ ràng và được xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách
tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh định hướng tài trợ của một ngân
hàng, trở thành hướng dẫn chung cho toàn bộ cán bộ tín dụng và nhân viên
ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng, tạo sự
thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao
khả năng sinh lời.
Chính sách khách hàng.
Thông thường, các ngân hàng thường xuyên tiến hành việc phân loại
khách hàng thành khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và khách
hàng khác. Những khách hàng truyền thống và quan quan trọng thường được
hưởng những chính sách ưu đãi của ngân hàng về nhiều mặt như thủ tục vay
vốn, lãi suất... Việc ngân hàng xác định đối tượng DNV&N là đối tượng
khách hàng quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng hoạt động cho
vay đối với đối tượng doanh nghiệp này, doanh nghiệp sẽ có được những
điều kiện ưu đãi tốt nhất để có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng.
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng.
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
20
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng cho khách hàng vay tối đa bằng nhu cầu của khách hàng
và phù hợp với các quy định dựa trên tính toán của ngân hàng về rủi ro và
sinh lời. Ngoài các giới hạn do luật quy định mỗi ngân hàng còn có quy định

riêng về quy mô và các giới hạn của mình. Ví dụ quy mô cho vay tối đa với
từng đối tượng doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh tế…Việc ngân hàng mở
rộng giới hạn tín dụng hay chia nhỏ hạn mức cho vay đối với đối tượng
khách hàng là các DNV&N cũng là một nhân tố thúc đẩy việc cho vay đối
với loại hình doanh nghiệp này.
Chính sách về các khoản đảm bảo.
Vấn đề nổi cộm mà các DNNVV hiện đang rất khó tháo gỡ là sự
"cách trở" trong việc tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư và hoạt động kinh
doanh. Các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng lại rất khó tiếp cận được các
nguồn vay. Trong khi đó các ngân hàng đang có nhu cầu cần cho vay đối với
các doanh nghiệp nhằm mở rộng thị phần và tăng thu nhập nhưng lại không
thể cho vay.
Nguyên nhân lớn gây nên trở ngại này do hai bên chưa có sự đồng
thuận và bảo đảm cho việc vay vốn đã tạo nền cái vòng luẩn quẩn: doanh
nghiệp không đủ tài sản thế chấp, không vay được vốn, không mở rộng được
sản xuất kinh doanh, không nhiều lợi nhuận và tài sản vì thế cũng chẳng có
nhiều tài sản để thế chấp... đã diễn ra nhiều năm nay.
Vì vậy, những sự thay đổi trong chính sách về các khoản đảm bảo của
ngân hàng ví dụ như mở rộng danh mục các tài sản có thể sư dụng làm tài
sản đảm bảo, tăng tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo, mở rộng hình
thức cho vay bảo lãnh…là những nhân tố tác động rất lớn đến việc mở rộng
cho vay.
- Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
21
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Theo V.Le Nin: “ Ngân hàng chẳng qua là một xí nghiệp đặc biệt kinh
doanh tiền tệ”. Vì vậy, cũng như các doanh nghiệp thông thường, để có thể
mở rộng việc tiêu thụ sản phẩm thì điều kiện cần là sản lượng sản phẩm
được sản xuất ra phải đủ để cung ứng cho nhu cầu của thị trường. Tương tự

như vậy đối với ngân hàng, để mở rộng hoạt động cho vay buộc các ngân
hàng phải có đủ vốn để cung ứng cho việc mở rộng.
Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng phụ thuộc vào rất nhiều các
yếu tố như quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng
vay mượn của ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu…, sự phát triển hay suy
thoái của nền kinh tế, sự điều tiết hoạt động của thị trường tài chính, tiền tệ
do ngân hàng trung ương điều hành.
Ví dụ, trong năm 2007, khi nền kinh tế ở một số nước Đông Á như
Trung Quốc, Việt Nam…tăng trưởng quá nóng, buộc Ngân hàng Trung
ương phải sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt như tăng lãi suất chiết khấu,
buộc các NHTM mua trái phiếu Chính phủ, hay bằng biện pháp mạnh mẽ
hơn là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
lên mức kỷ lục từ trước đến nay là 13%) đã làm giảm khả năng cung ứng
vốn của các NHTM từ đó làm giảm nhiệt cho thị trường tín dụng.
- Trình độ của cán bộ ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc
đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một nguyên nhân hạn chế sự mở
rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc đánh giá và phân loại không
chính xác về năng lực và tình hình hoạt động của khách hàng sẽ gây khó
khăn và cản trở cho khách hàng có nhu cầu vay vốn. Ví dụ: Đánh giá quá
thấp năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng
chỉ qua thông tin “tĩnh” mà thiếu đi các thông tin “động”, hay việc định giá
quá thấp tài sản đảm bảo của khách hàng khiến lượng vốn được vay giảm
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
22
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
thấp hơn yêu cầu tối thiểu cần thiết khiến hiệu quả hoạt động của khách
hàng giảm xuống, khả năng trả nợ của khách hàng giảm, từ đó ảnh hưởng
đến thu nhập của ngân hàng.
Để có thể mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N, cán bộ ngân

hàng phải am hiểu đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực mà
các doanh nghiệp tham gia kinh doanh, môi trường cạnh tranh ủa doanh
nghiệp...Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay…
Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn
diện.
1.2.4.2 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường
- Môi trường pháp lý
Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận
tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khách cho khách hàng,
họ phải tiến hành những công việc trong một khung pháp lý chặt chẽ được
xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Trong đó, những quy
định có liên quan đến hoạt động cho vay có ảnh hưởng rất lớn đến danh mục
cho vay của ngân hàng vì danh mục cho vay có vai trò rất lớn tới sự an toàn
trong hoạt động của ngân hàng.
Việc mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N nhằm thúc đẩy
sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này phụ thuộc rất lớn vào chính
sách tiền tệ của NHNN, vào việc chính phủ có xây dựng được một môi
trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho các DNV&N trong việc tiếp
cận với nguồn vốn theo hướng: cơ chế chính sách phải đồng bộ; xoá bỏ
những phân biệt đối xử về tín dụng, đơn giản hóa cơ chế và thủ tục hành
chính của Nhà nước như vấn đề công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo…
Sự ổn định trong chính sách của nhà nước đối với các ngành kinh tế
cũng ảnh hưởng rất lớn đến dự mở rộng cho vay đối với các DNV&N. Ví dụ
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
23
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
Ở nước ta hiện nay chính sách trong một số ngành như: lắp ráp ô tô, xe máy,
chế biến gỗ… không ổn định gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi
đầu tư dài hạn và Ngân hàng không thể mạo hiểm mở rộng cho vay trung và
dài hạn đối với những DNV&N hoạt động trong những lĩnh vực này.

-Môi trường kinh tế-xã hội
Hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là hoạt động cho vay của ngân hàng
là hoạt động cực kỳ nhạy cảm với các diễn biến của nền kinh tế. Sự phát
triển hay suy thoái của nền kinh tế đều có tác động trực tiếp đến khả năng
cung ứng tín dụng của ngân hàng cũng như nhu cầu tín dụng trong nền kinh
tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, một môi trường chính trị ổn định,
thuận lợi là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Nhu cầu
đầu tư sản xuất tăng khiến nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng tăng lên. Đồng
thời, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, thu nhập của người dân cao hơn, vì
vậy tiết kiệm tăng và nguồn tiền gửi vào các ngân hàng cũng dồi dào hơn.
Và hoàn toàn ngược lại trng một nền kinh tế suy thoái.
-Môi trường khoa học - công nghệ
Thực tế là hiện nay phần lớn công nghệ đang được sử dụng trong các
DNV&N Việt Nam đã trở nên lạc hậu từ 1-2 thế hệ. Với nhiều doanh nghiệp
mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm
hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do
ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và phần lớn là do thiếu vốn, rất nhiều
DNV&N đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy
móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải tiến.
Song, với xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với tốc độ phát triển khoa
học-công nghệ chóng mặt như hiện nay, sớm muộn các doanh nghiệp cũng
phải giải các bài toán về công nghệ. Và lời giải cho bài toán này thuộc về sự
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
24
GV hướng dẫn: Đào Hùng Chuyên đề tốt nghiệp
mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng vì để có thể đổi mới công nghệ
thì vấn đề đặt ra đầu tiên là vốn.
1.2.4.3 Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng
- Nhu cầu vay vốn của DNV&N
Hoạt động cho vay nhằm phục vụ nhu cầu về vốn của khách hàng. Do

đó nhu cầu của khách hàng với các đặc tính khác nhau (tùy theo ngành nghề
kinh doanh, loại hình doanh nghiệp…) quyết định nội dung và sự thành công
của việc mở rộng hoạt động cho vay. Do những đặc điểm của loại hình
DNV&N, ta có thể nhận thấy nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tập
trung vào các mặt:
• Để có thể thành công trong một nền kinh tế
cạnh tranh cao độ như hiện nay buộc các doanh nghiệp phải thường
xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí
quyết sản xuất. Thế nhưng một thách thức có tính nội tại nhưng không
phải là nhỏ của các DNV&N là: hiện nay phần lớn công nghệ do các
DNV&N đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, có khi vài chục
năm. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng
được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh, đến việc nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm,
làm tăng chi phí sản xuất, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường. Đồng thời làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNV&N
của Việt Nam. Vì vậy, hiện nay nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để
đầu tư cải tiến công nghệ của các DNV&N là rất lớn.
• Thêm vào đó, đa số các DNV&N có vốn lưu
động rất thấp so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng
hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn đi
vay. Đặc biệt trong điều kiện giá cả nguyên vật liệu ngày càng tăng
Lê Thị Thu Trang Lớp: Ngân hàng 46A
25

×