Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.07 KB, 76 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những định chế tài chính quan trọng bậc nhất của nền
kinh tế. Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình, ngân hàng đã giúp các luồng tiền
thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Với tầm quan trọng
như vậy, sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Về bản chất, rủi ro của ngân
hàng là không tránh khỏi nhưng điều đó không có nghĩa là không làm gì. Các ngân
hàng đều cố gắng hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra bằng các biện pháp khác
nhau. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính và nền công
nghiệp dịch vụ tài chính - ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi ngành
ngân hàng phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro
trong từng hoạt động dịch vụ.
Sau khi Ngân hàng Nhà Nước ra quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng,
rủi ro càng trở thành vấn đề quan tâm của các ngân hàng và những người quan tâm.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội, em
được tiếp xúc với các công việc của tín dụng, hiểu được quy trình tín dụng cũng
như tìm hiểu được một phần các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Do vậy, em chọn đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Qua chuyên đề
này em hy vọng có thể góp phần vào việc hạn chế được những rủi ro hiện hữu cũng
như tiềm ẩn tại ngân hàng, tăng độ an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức còn hạn chế, bài chuyên đề chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của cô giáo để
em hoàn thiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1 Hoạt động tín dụng của NHTM
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó là
hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng tài sản có của
các NHTM, do đó nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
1.1.1Khái niệm tín dụng ngân hàng.
1.1.1.1Định nghĩa tín dụng.
Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thời kì luôn có một số người tạm
thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có
một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh
mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời
thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay do nhu cầu sử dụng
vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm gốc
kèm theo lợi tức, nó để thỏa mãn nhu cầu của cả hai bên, do đó nó là quan hệ bình
đẳng, cả hai cùng có lợi và mang tính thỏa thuận lớn.
Quan hệ tín dụng đã hình thành từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín dụng thô
sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã. Quan hệ
tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, qua từng thời kì, từng giai đoạn
phát triển mà dần hình thành nên các hình thức tín dụng mới có trình độ cao hơn, đã
có các hình thức tín dụng sau: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tiêu dùng. Mỗi một hình thức tín dụng đều có
một điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy nhiên trong sự phát triển của mình, các
hình thức quan hệ tín dụng trước không hề mất đi mà vẫn còn tồn tại và phát huy
tác dụng khi có sự ra đời một hình thức tín dụng mới. Ngày nay, tất cả các hình thức
tín dụng trên đều còn tồn tại và bổ sung lẫn nhau, và nó có vai trò quan trọng trong
sự phát triển kinh tế.
1.1.1.2Tín dụng ngân hàng.
Trong các hình thức trên thì tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô
cùng quan trọng, nó là một quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín

4
dụng cho các doanh nghiệp, các thể nhân khác trong nền kinh tế. Với công nghệ
ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín dụng
không thể thiếu ở cả trong nước và quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng còn bên
kia là các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá
nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ
dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu, mà là quan
hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ
vay mượn có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả 2 bên cùng có lợi.
1.1.1.3 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho vay bằng
tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền
kinh tế quốc dân.
- Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành phần
trong xã hội chứ không phải hoàn toàn bằng vốn thuộc sở hữu của chính mình như
tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối
với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những trường
hợp mà nhu cầu tín dụng ngân hàng gia tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hóa
không tăng, nhất là trong thời kì kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu thông hàng
hóa bị co hẹp nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng phá sản.
Ngược lại trong thời kì kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản xuât,
hàng hóa lưu chuyển tăng mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp.
Đây là một hiện tượng rát bình thường của nền kinh tế.
- Hơn nữa tín dụng ngân hàng còn có một số ưu điểm nổi bật so với các hình
thức khác là:

+ Tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các
tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.
+ Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với
nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.
5
+ Tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích hợp với
mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng vay.
1.1.1.4 Phân loại tín dụng ngân hàng.
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau
tùy theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một số tiêu
thức sau:
- Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành 3 loại:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được
sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu
động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá
nhân.
+ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn
phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng và xây
dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để
cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy môn lớn.
Thường tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và
một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại:
+Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng được cung cấp cho
các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
+Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ,

các thiết bị gia đình… Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có các loại tín dụng
sau:
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra
đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết
khấu và bảo lãnh.
+ Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay
phát ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường
được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với
ngân hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối
với ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh
doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ…
 Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các
6
tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì
cách phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận
động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá
hiệu quả kinh tế của chúng.
1.1.1.5Lãi suất tín dụng ngân hàng
1.1.1.5.1Khái niệm
Trước hết ta cần xem xét lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà
người cho vay nhận được ở người đi vay do việc sử dụng tiền vay của người này. Ở
đây người đi vay sử dụng vốn vay được để sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được tạo
ra trong quá trình này tất yếu được phân chia theo một tỷ lệ thỏa đáng giữa người
cho vay và người đi vay tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh.
Phần lợi nhuận dành cho người cho vay này được gọi là lợi tức.
Thực chất lợi tức là giá cả của hàng hóa( tức lượng tiền tệ) cho vay. Giá cả
này lên xuống theo quan hệ cung cầu của vốn, nhưng khác với các hàng hóa thông
thường khác là giá cả của chúng phản ánh và xoay quanh giá trị của chung, còn giá
cả của vốn lại hoàn toàn không phản ánh được giá trị của vốn, nó còn phụ thuộc vào

nhu cầu và sự thỏa thuạn của 2 bên. Chính vì vậy, lợi tức chưa phản ánh được hiệu
quả của số vốn cho vay phát ra.
Như vậy, để xác định khả năng sinh lợi của vốn cho vay người ta đã so sánh
lợi tức với vốn cho vay hình thành nên lãi suất tín dụng. Vì vậy ta có định nghĩa
khái quát về lãi suất tín dụng như sau: lãi suất tín dụng là tỉ lệ so sánh giữa số lợi
tức thu được với số vốn cho vay phát ra trong một thời kì nhất định. Lãi suất tín
dụng chính là sự cụ thể hóa của lợi tức tín dụng, nó là cái giá của quyền được sử
dụng vốn trong một thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở
hữu nó.
1.1.1.5.2 Các loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và các hình thức tín dụng mà các loại
lãi suất tín dụng cũng được hình thành một cách đa dạng, đại bộ phận chúng đều do
ngân hàng trung ương kiểm soát và khống chế. Các hình thức lãi suất càng phong
phú thì càng tạo độ linh hoạt và hiệu quả trong quan hệ tín dụng vì chính lãi suất là
chất xúc tác hình thành nên quan hệ tín dụng, do đó cần phải phân biệt được các
loại lãi suất tín dụng ngân hàng để thấy được hiệu quả của chúng trong phát triển tín
dụng nói riêng và phát triền nền kinh tế nói chung.
Thông thường hệ thống lãi suất trên thị trường có các loại lãi suất sau:
7
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ sở cho
các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh.
+ Lãi suất sàn và lãi suất trần: là lãi suất thấp nhất và lãi suất cao nhất trong
một khung lãi suất nào đó mà ngân hàng trung ương ấn định cho các NHTM hoặc
do NHTM quy định trong hệ thống của nó nhằm thống nhất các hoạt động tín dụng
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà ngân hàng nhà nước
dành cho các ngân hàng thương mại, trong trường hợp cấp vốn cho các NHTM
thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá. Lãi suất tái
chiết khấu là lãi suất gốc của các NHTM, để từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu
và lãi suất cho vay khác trong khung lãi suất được phép.

+Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực:
•Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính đến
sự biến động của giá trị tiền tệ, nó được xác định cho một kì hạn gửi hoặc cho vay,
thể hiện trên quy ước giấy tờ được thỏa thuận trước.
•Lãi suất thực là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ,
như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ. Do đó ta có công thức tính lãi suất thực như sau:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát dự đoán.
Do vậy, lãi suất danh nghĩa luôn lớn hơn 0 nhưng lãi suất thực thì không phải
lúc nào cũng dương, khi xảy ra lạm phát mà tỉ lệ lạm phát lại lớn hơn lãi suất danh
nghĩa thì lúc dó lãi suất thực sẽ nhỏ hơn 0 điều này sẽ gây bất lợi cho người cho vay
và người đi vay lại có lợi hơn. Chính lãi suất thực ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc
tái phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay, vì vậy ngân hàng chỉ
thực sự huy động được tiền gửi khi đưa ra được chính sách lãi suất thực dương.
1.1.1.6Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Là mối quan hệ kinh tế, tín dụng ngân hàng có những tác động nhất định đến
hoạt động kinh tế. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, nó có vai trò khá quan trọng:
1.1.1.6.1 Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội
phát triển.
Nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng nên các doanh nghiệp có điều kiện
bổ sung vốn thiếu hụt tạm thời hay mở rộng nguồn vốn đảm bảo được quá trình sản
xuất bình thường và còn có thể mở rộng sản xuất cải tiến kĩ thuật áp dụng kĩ thuật
công nghệ mới tăng tính cạnh tranh. Tín dụng đã giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh
quá trình sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa sản
8
xuát, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường,
mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, do đó tín dụng ngân
hàng trong lĩnh vực tín dụng quốc tế cũng trở nên quan trọng giúp cho việc liên kết
chuyển giao công nghệ giữa các nước trên thế giới được nhanh chóng, rút ngắn thời
gian phát triển.

Như vậy hoạt động tín dụng của các NHTM đã góp phần thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh chóng ngay cả trong nước và quốc tế.
1.1.1.6.2 Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan
trọng, từ đó giúp cho việc tích tụ và tập trung sản xuất.
Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn
lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu quả cao. Đồng thời các doanh
nghiệp cũng nhờ các khoản tín dụng mà có đủ vốn để mở rộng sản xuất rút ngắn
thời gian tích lũy vốn. Tóm lại, tín dụng đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất.
Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ
sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị
công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng khả năng cạnh tranh làm cho
doanh nghiệp lớn ngày càng lớn lên, doanh nghiệp nhỏ bị phá sản do không cạnh
tranh nổi, từ đó các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau tăng khả năng cạnh
tranh, như vậy tín dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung.
1.1.1.6.3 Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hòa nguồn vốn góp
phần ổn định thịtrường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành trong kinh tế quốc
dân và dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Thông qua tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm
cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở nơi thiếu vốn, giúp
cho việc sử dụng vốn có hiệu quả, góp phàn làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa
và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát triển đồng đều trong các ngành.
Việc điều hòa nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất quy định giúp
cho chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện, điều hòa lưu thông tiền tệ góp
phần ổn định tiền tệ, và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.
Hơn nữa,thông qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có những chính sách ưu
tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào
việc đưa ra các ưu đãi itns dụng… do vậy đã kích thích thúc đẩy các doanh nghiệp
đầu tư vào các vùng, ngành trọng điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.

9
1.2 Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế đã khiến môi trường cạnh
tranh trong các lĩnh vực kinh doanh ngày càng gay gắt, hầu hết các doanh nghiệp,
những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với những thua lỗ và
quy luật đào thải khắc nghiệt của thị trường. Chính điều đó đã làm cho tỉ lệ nợ xấu
của các ngân hàng tăng lên trong những năm gần đây.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
và các tổ chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả. Việc hoàn trả được nợ gốc
trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hóa trên thị trường, còn
việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá trí thặng dư trên
thị trường. Do đó, có thể xem rủi ro tín dụng cũng là rủi ro kinh doanh nhưng được
xem xét dưới góc độ của ngân hàng.
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng và các tổ chức tín dụng” là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của ngân hàng, của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết (Điều 2-QĐ 493 Về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng). Khi thực
hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó
sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý
kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối
với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung.
Do vậy khi tổn thất xảy ra dưới mức tỷ lệ dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành
công trong quản lý.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Theo phương diện quản lý
- Rủi ro có thể kiểm soát được: là rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần
nòa dự đoán được chủ thể gây ra nó, ước tính được mức độ ảnh hưởng của nó, dự
kiến được thời gian phát sinh ra nó, từ đó có những biện pháp hợp lý để phòng

ngừa, hạn chế những tổn thất mà nó có thể gây ra xuống mức tối thiểu. Những rủi ro
tín dụng loại này thường do chủ quan con người gây ra, cụ thể hơn là do khách hàng
gây ra hoặc do chính bản thân ngân hàng gây ra cho mình.
- Rủi ro không thể kiểm soát được: là loại rủi ro tín dụng mà các ngân hàng
không thể dự đoán trước được, không thể biết chúng sẽ xảy ra khi nào, cũng không
thể tính toán được một cách cụ thể, chính xác những ảnh hưởng mà chúng gây ra là
10
chủ yêu do những bất lợi thuộc về các yếu tố tự nhiên như hạn hán, mất mùa, lũ lụt,
hỏa hoạn…
Các NHTM thường phải tập trung vào để ngăn chặn hạn chế những rủi ro có
thể kiểm soát được, còn rủi ro không thể kiểm soát được thì chỉ có cách chống đỡ
khi chúng xảy ra.
Phân loại theo tính chất của rủi ro:
- Rủi ro sai hẹn: là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không hoàn trả gốc và
lãi tiền vay đúng hẹn như trong hợp đồng.
- Rủi ro mất vốn: là loại rủi ro xảy ra khi người vay vốn không trả được gốc
tiền vay một cách đầy đủ như trong hợp đồng.
Dù là chia theo cách nào đi chăng nữa thì rủi ro tín dụng cũng là một điều
không mong muốn, luôn mang lại những tổn thất đối với tất cả các ngân hàng. Một
khi có hoạt động ngân hàng thì còn tồn tại rủi ro trong hoạt động tín dụng. Việc tìm
hiểu và đưa ra các biện pháp để quản lý tốt rủi ro tín dụng luôn được các ngân hàng
quan tâm chú trọng.
1.2.3 Bản chất của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của NHTM, hoạt động
tín dụng. Khi thực hiện một loạt các hoạt động tà trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng
phân tích các yêu tố của người vay sao cho đọ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân
hàng chỉ cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Khả năng hoàn trả
vốn vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều
cán bộ ngân hàng không có khả năng phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên
quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là

khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh
doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Vì vậy, rủi ro dự kiến luôn
được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.2.4 Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dung
Rủi ro tín dụng là sự tồn tại khách quan trong hoạt động của ngân hàng song
các ngân hàng phải luôn quản lí rủi ro tín dụng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các
tổn thất có thể xảy ra. Những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng
phản ánh rủi ro tín dụng:
1.2.4.1 Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn
Nợ bao gồm:
- Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;
11
- Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác;
- Các khoản bao thanh toán;
- Các hình thức tín dụng khác;
“Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn, hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai mục đích, hoặc tài sản
đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc khách hàng phá sản…
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá
hạn
=
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Theo quy định hiện hành của ngân hàng Nhà nước thì tỉ lệ nợ quá hạn cho
phép đối với các NHTM không được vượt quá 5% tổng dư nợ cho vay. Quy định
này nhằm mục đích hạn chế tình trạng các ngân hàng cho vay ồ ạt, thiếu sự quản lý
dẫn tới khả năng thanh khoản kém.
“Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ” là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận

điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh giá
khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trên hợp đồng
tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở đánh giá khách hàng có khả năng trả
đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu.
1.2.4.2 Nợ xấu và tỷ lệ xáu trên tổng dư nợ cho vay:
“Nợ xấu” của ngân hàng được quy định là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5.
Tức là nó bao gồm các nhóm nợ: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả
năng mất vốn.
Tỉ lệ nợ xấu =
Nợ xấu
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. theo quy định hiện hành thì tỷ lệ này không được vượt quá 3%.
Theo quyết định 18 về sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 493, tổ
chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo năm nhóm như sau:
+ Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn
12
còn lại;
+ Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng
trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
+ Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
+ Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
+ Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
Cũng theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2006/QĐ-
NHNN thì dự phòng cụ thể được trích lập trên rủi ro tín dụng thuần của các khoản
cho vay theo tỷ lệ tương ứng:
Bảng 1.1: Bảng phân loại nợ
Nhóm Loại Tỷ lệ dự phòng cụ thể
1 Nợ đủ tiêu chuẩn 0%
2 Nợ cần chú ý 5%
3 Nợ dưới tiêu chuẩn 20%
13
4 Nợ nghi ngờ 50%
5 Nợ có khả năng mất vốn 100%
1.2.4.3 Hệ số rủi to tín dụng

Hệ số rủi ro tín
dụng
=
Tổng dư nợ cho vay
x 100%
Tổng tài sản có
Hệ số này thể hiện tỷ trọng khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục
tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận cũng lớn nhưng đồng thời rủi ro
cũng cao.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro
tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên
quan tới thanh khoản và các rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới
chi trả cho tiền gửi và tiền cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đồi là một lời cảnh báo
cho ngân hàng: Hy vộng thu lại tiền vay cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
1.2.5 Nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và
người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian
cụ thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi
trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro
tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách
quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên
nhân chủ quan.
1.2.5.1 Nguyên nhân khách quan từ bên ngoài
Khi khách hàng nhận khoản giải từ ngân hàng, họ sẽ dùng đồng vốn vào mục
đích kinh doanh như: Đầu tư vào dây chuyền sản xuất, tài sản cố định, nguyên vật
liệu… Trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ phát sinh những rủi ro không
mong muốn mà đôi khi các doanh nghiệp không lường trước được như:
- Rủi ro do nền kinh tế không ổn định.
- Rủi ro do các thủ tục pháp lý ở các địa phương còn rườm rà.
- Rủi ro do các thị trường bị bóp méo bởi hàng hóa nhập lậu.

Rủi ro do nền kinh tế không ổn định
Khi tiến hành qua trình sản xuất kinh doanh, bao giờ doanh nghiệp cũng tiến
hành đánh giá tình hình thị trường cũng như đưa ra những dự báo phát triển thị
14
trường, dự báo tăng trưởng doanh số. Nếu nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế
quốc nội vận hành theo quỹ đạo đã dự báo thì doanh nghiệp sẽ thực hiện tốt các kế
hoạch đề ra.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta hiện giờ đang phụ thuộc nhiều vào các ngành
sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Mà những
ngành này lại phụ thuộc nhiều vào rủi ro thời tiết.
Khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng, tất yêu sẽ ảnh hưởng lớn đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu. Những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may,
xuất khẩu hàng nông sản ( xuất khẩu cà phê, hạt điều, tiêu…) có nguy cơ không bán
được hàng khi nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng. Hoặc một sự thay đổi trong
chính sách nhập khẩu (tăng thuế, giảm hạn ngạch, thay đổi tiêu chuẩn nhập khẩu)
tại các nước sở tại ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu.
Rủi ro do các thủ tục pháp lý
Sự chậm trễ, rườm rà trong các thủ tục cấp giấy phép, các thủ tục hải quan…
nhiều lúc ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ hội kinh
doanh của doanh nghiệp có tính thời điểm, nhưng nó sẽ không thể thực hiện nhanh
chóng nếu không được “cởi trói” bởi các thủ tục pháp lý. Việc chậm trễ sẽ dẫn đến
hệ quả của hàng loạt các hợp đồng kinh tế bị đình trệ, các dự án đầu tư “buộc lòng”
phải “treo” trên giấy. Điều này gây tổn thất lớn về mặt kinh tế đối với các doanh
nghiệp vay vốn.
Rủi ro do hàng hóa nhập lậu tràn vào trong nước
Hàng hóa nhập lậu vào Việt Nam qua các con đường vùng biên ừ lâu đã là nỗi
“ám ảnh” của các doanh nghiệp nội địa. Hàng hóa nhập lậu có ưu điểm rẻ hơn về
giá, loại hình phong phú đánh mạnh vào nhu cầu của đại bộ phận người tiêu dùng
có thu nhập thấp. Các mặt hàng về đồ điện tử, kim khí, quần áo, mỹ phẩm là một
minh chứng cho hiện tượng trên.

Các rủi ro cơ bản trên đã ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Một khi các đồng vốn mà doanh nghiệp đi vay đổ vào sản xuất kinh
doanh mà không thu lại được, tất yếu sẽ đẩy doanh nghiệp tới việc mất dần khả
năng trả nợ. Ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ khó thu hồi lại khoản cho vay
này.
1.2.5.2 Nguyên nhân thuộc về năng lực ngân hàng
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó
15
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm
tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh
doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân
hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ
thống “phanh” của “cỗ xe” tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống
này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ
rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Năng lực cán bộ còn hạn chế:
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ
NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm
giả hồ sơ vay, hay nâng lãi giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cáo so với thực tế để
rút tiền ngân hàng.
Đạo đức của cán bộ là mọt trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn
đề hạn chế rủi ro tín dụng. một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm,
nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng
nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng hường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
dịnh trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách
chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm

quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung.
Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề
ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội
kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các
NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại
gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin
quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được
kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vài trò của CIC(Credt Information
Center: trung tâm thông tin tín dụng của NHNN) chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói
cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không
16
thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi
ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi
khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả
nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự
thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách
hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không
chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay,
vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
để các ngân hàng có ccs quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng
dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và
xử lí kịp thời.
1.2.5.3 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể , khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý
lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát

sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu
đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vây, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân
hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh
nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì
17
sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng
để phòng chống rủi ro tín dụng.
1.2.6 Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.2.6.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Rủi ro tín dụng xảy ra tức là ngân hàng khi đó không thu được nợ gốc hoặc lãi
hoặc đồng thời cả gốc và lãi. Trong khi đó các khoản phải trả cho vốn huy động của
ngân hàng vẫn không thay đổi, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong thu
chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, chi phí của ngân hàng tăng lên so với dự kiến,
kết quả kinh doanh của ngân hàng không tốt.
Nếu một khoản cho vay của ngân hàng bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng
phải dùng tới các nguồn khác để bù đắp cho khoản không thu hồi được này. Nếu
ngân hàng sử dụng nguồn vốn để bù đắp, và tới chừng mực nào đấy nguồn vốn

không còn đủ để bù đắp cho khoản tiền gửi của khách hàng thì ngân hàng sẽ lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn tới nguy cơ gặp phải rủi ro thanh
khoản. Kết quả làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín,
sức mạnh cạnh tranh trên thị trường giảm. Kết quả kinh doanh ngày càng xấu đi và
có thể dẫn tới thua lỗ hoặc nặng hơn nữa là phá sản nếu không có biện pháp xử lí
kịp thời.
1.2.6.2 Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính trong nền kinh tế, chuyên huy
động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức cá nhân có nhu cầu vay lại.
Như vậy thực chất quyền sở hữu của các khoản tiền này đã được chuyển từ người
gửi vào ngân hàng. Bởi vậy khi rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ ngân hàng chịu
thiệt hại mà quyền lợi người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản sẽ làm cho những
người gửi tiền không chỉ ở ngân hàng đó mà cả các ngân hàng khác hoang mang lo
sợ và kéo nhau ồ ạt tới các ngân hàng rút tiền, làm cho hệ thống ngân hàng gặp khó
khăn thanh khoản trầm trọng.
Ngân hàng phá sản sẽ làm cho tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp khó khăn do ngân hàng là nguồn cung cấp vốn lớn cho các doanh nghiệp.
Cùng lúc đó nếu doanh nghiệp chưa thu được tiền hàng tức là không có nguồn thu
thì công nhân viên của doanh nghiệp sẽ không được trả lương, cuộc sống của công
nhân viên gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất
lớn tới nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả thay đổi liên tục, sức
18
mua giảm, thất nghiệp tăng, kéo theo đó là hàng loạt các tệ nạn xã hội đi kèm. Điều
này được phản ánh rất rõ trong cuộc khủng hoảng thế giới vừa qua. Sự sụp đổ của
hàng loạt các ngân hàng lớn tại Mỹ đã làm rung chuyển nền kinh tế toàn cầu. Ngày
nay, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc rất lớn vào kinh tế khu vực và kinh
tế thế giới do vậy nếu nền kinh tế của một quốc gia có vấn đề thì các nước khác
cũng sẽ bị ảnh hưởng, nên rủi ro tín dụng của một nước cũng sẽ ảnh hưởng tới các
nước có liên quan.

Như vậy, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở nhiều mức độ khác
nhau, nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, không thu hồi được lãi vay, nặng
nhất là ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn tới ngân
hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được ngân hàng
sẽ bị phá sản gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân
hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận
trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
1.3 Quản lí rủi ro tín dụng
1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lí rủi ro tín dụng trong ngân hàng chính là quản lí và điều hành các
khoản cho vay vốn trong hoạt động của ngân hàng, mục đích quản lí ở đây là làm
cho chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt hơn, hạn chế rủi ro và nâng cao lợi
nhuận.
1.3.2 Sự cần thiết của công tác quản lí rủi ro tín dụng
Bản chất tự nhiên của hoạt động ngân hàng là rủi ro. Quản trị rủi ro là hoạt
động trung tâm của ngân hàng. Rủi ro chung đối với một ngân hàng có nghĩa là
mức độ không chắc chắn liên quan đến một vài sự kiện. Các ngân hàng được coi là
thành công khi mức độ rủi ro họ tham gia ở mức hợp lí, được kiểm soát trong phạm
vi và năng lực tài chính của họ. Rui ro là những tình huống xảy ra ngoài dự kiến
gây nên những tổn thất kinh tế, làm chi phí tăng lên, thu nhập giảm và lợi nhuận
giảm đi so với dự kiến ban đầu.
Ngân hàng là một doanh nghiệp. Vì là một doanh nghiệp bản thân nó trươc
nhất phải tự trang bị cho mình những biện pháp, cách thức để sinh tồn trong môi
trường kinh tế để phát triển, làm sao vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo an toàn.
Đó chính là quản lí rủi ro ngân hàng, và trong hoạt động tín dụng thì đó được gọi là
quản lí rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng không hcir là nỗi ám ảnh của bản thân ngân hàng, nó còn là
nỗi ám ảnh của toàn bộ hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xảy
19
ra, ngay cả với ngân hàng giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó phỏng đoán.

Vì thế, rủi ro tín dụng và quản lí rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề thời sự cho mỗi
ngân hàng, mỗi nền kinh tế trong mỗi thời kì.
1.3.3 Phương pháp để quản lí rủi ro tín dụng
- Phân tán rủi ro trong cho vay bằng cách không dồn vốn cho vay quá nhiều
đối với một khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành,
lĩnh vực kinh tế có rủi ro cao.
- Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết
định tài trợ.
- Bảo hiểm tiền vay, nghĩa là ngân hàng chuyển toàn bộ rủi ro cho cơ quan bảo
hiểm chuyên nghiệp.
- Phải có chính sách tín dụng hợp lí và duy trì các khoản dự phòng để đối phó
với rủi ro.
- Trước khi quyết định cho vay đối với một khách hàng, ngân hàng phải xem
xét các điều kiện sau:
+ Khả năng trả nợ của khách hàng phải lớn hơn hoặc bằng với mức cho vay.
+ Mức cho vay không được 75% tài sản đảm bảo.
+ Tổng dự nợ cho vay một khách hàng không được phép vượt quá 15% vốn tự
có của ngân hàng.
1.3.4 Các bước thực hiện quản lí rủi ro tín dụng
Công tác quản lí rủi ro tín dụng là rất quan trọng đối với ngân hàng. Để đảm bảo
cho công tác này được thực hiện tốt, ngân hàng cần có những bước thực hiện cụ thể:
Tính toán xác định rủi ro:
+ Thẩm định đánh giá rủi ro đối với từng khoản giải ngân: Tình hình tài chính
của đối tượng xin vay vốn, phân tích đặc trưng ngành của doanh nghiệp vay, phân
tích khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so với các đối
thủ cùng loại trên thị trường. Phân tích các rủi ro hệ thống, rủi ro tình hình kinh tế…
+ Đánh giá năng lực lãnh đạo của các cán bộ doanh nghiệp.
Lượng hóa rủi ro
Sử dụng các công cụ phân tích, các chỉ báo phân tích để tính toán, đo lường
những rủi ro được thể hiện qua các con số.

Quản lí, giám sát
+ Quản lí và giám sát việc doanh nghiệp sử dụng vốn. Nếu có dấu hiệu doanh
nghiệp sử dụng vốn sai mục đích: Ngưng việc giải ngân, đề nghị doanh nghiệp giải
trình và yêu cầu thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng giải ngân.
Đưa các phương pháp giải quyết rủi ro:
+ không giải ngân đối với các hợp đồng không tuân thủ các điều kiện tài
chính.
20
+ Không chấp nhận các hợp đồng có độ rủi ro cao (tài sản thế chấp không đảm
bảo, lĩnh vực đầu tư không hiệu quả, rõ ràng…)
1.3.5 Mô hình xếp hạng tín dụng trong quản lí rủi ro tín dụng
Hệ thống xếp hạng tín dụng giúp NHTM quản trị rủi ro tín dụng bằng phương
pháp tiên tiến, giúp kiểm soát mức độ tín nhiệm khách hàng, thiết lập mức lãi suất
cho vay phù hợp với dự báo khả năng thất bại của từng nhóm khách hàng. NHTM
có thể đánh giá hiệu quả danh mục cho vay thông qua giám sát sự thay đổi dư nợ và
phân loại nợ trong từng nhóm khách hàng đã được xếp hạng, qua đó điều chỉnh
nguồn lực vào nhóm khách hàng an toàn.
Mô hình xếp hạng tín dụng:
Mô hình đơn giản nhất được sử dụng trong xếp hạng tín dụng là môt hình một
biến số. Chỉ tiêu đánh giá phải được thống nhất trong mô hình. Tỷ suất tài chính
được sử dụng trong mô hình bao gồm các chỉ tiêu thanh khoản, các chỉ tiêu hoạt
động, chỉ tiêu lợi tức, chỉ tiêu vay nợ và chi phí trả lãi. Các chỉ tiêu phi tài chính
thường được sử dụng bao gồm thời gian hoạt động của doanh nghiệp, số năm kinh
nghiệp và trình độ của nhà quản trị cao cấp, triển vọng ngành. Nhược điểm của mô
hình một biến số là kết quả dự báo khó chính xác nếu thực hiện phân tích và cho
điểm các chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa mỗi người có thể hiểu các
chỉ tiêu đánh giá theo cách khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này các nhà
nghiên cứu đã xây dựng các mô hình kết hợp nhiều biến số thành một giá trị để
đánh giá thất bại của doanh nghiệp như mô hình phân tích hồi quy, phân tích logic,
phân tích xác suất có điều kiện, phân tích nhiều biến số.

NHTM áp dụng các mô hình khác nhau tùy theo đối tượng xếp loại cá nhân,
doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng. Các mô hình này có thể được điều chỉnh sau vài
năm sử dụng khi thấy có nhiều sai sót lớn giữa xếp hạng với thực tế.
Quy trình xếp hạng tín dụng:
Căn cứ vào chính sách tín dụng và các quy trình có liên quan của từng ngân
hàng nhằm xác lập quy trình xếp hạng tín dụng. Một quy trình xếp hạng tín dụng
bao gồm các bước cơ bản sau:
1. Thu nhập thông itn có liên quan đến các chỉ tiêu sử dụng trong phân tích
đánh giá, thông tin xếp hạng của các tổ chức tín dụng khác có liên quan đến đối
tượng xếp hạng.
2. Phân tích bằng mô hình để kết luận về mức xếp hạng. Mức xếp hạng cuối
cùng được quyết định theo ý kiến của Hội đồng xếp hạng. Trong xếp hạng tín dụng
thì kết quả xếp hạng không được công bố rộng rãi.
3. Theo dõi tình trạng tín dụng của đối tượng xếp hạng để điều chỉnh mức xếp
21
hạng các thông tin điều chỉnh được lưu giữ. Tổng hợp kết quả so với thực tế rủi ro
xảy ra, và dựa trên tần suất phải điều chỉnh mưc xếp hạng đã thực hiện đối với
khách hàng để xem xét điều chỉnh mô hình xếp hạng.
Phương pháp xếp hạng tín dụng theo mô hình điểm số
Mục đích của xếp hạng tín dụng là để dự đoán những khách hàng có rủi ro
cao. Các phương pháp xếp hạng tín dụng hiện đại bao gồm phương pháp nghiên cứu
thống kê dựa trên sự hồi quy và cây phân loại hoặc các phương pháp vận trù học dựa
trên toán học để giải quyết các bài toán tài chính bằng quy hoạch tuyến tính, qua đó
nhà quản trị có quyết định hợp lí cho các hành động trong hiện tại và tương lại.
Xếp hạng tín dụng theo mô hình điểm số là phương pháp khoa học kết hợp sử
dụng dữ liệu để nghiên cứu thống kê và áp dụng mô hình thuật toán để phân tích,
tính điểm cho các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình một biến hoặc đa biến. Các chỉ
tiêu sử dụng trong xếp hạng tín dụng được xác lập theo nhóm bao gồm phân tích
ngành, phân tích hoạt động kinh doanh, phân tích hoạt động tài chính. Sau đó đưa
vào mô hình để tính điểm theo trọng số và quy đổi điểm nhận được sang biểu xếp

hạng tương ứng.
1.3.6 Nguyên tắc Basel về quản lí rủi ro tín dụng
Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín
dụng. Do đó để đảm bảo mục tiêu hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát triển bền vững
nhất thiết đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng một hệ thống để phòng ngừa rủi ro
và đưa ra các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm thiểu những rủi ro tín dụng,
tránh sự đổ vỡ cho ngân hàng.
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi các nước phải tự do hóa, mở
cửa thị trường trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng để hội nhập. Do vây, trong các
hoạt động ngân hàng cần được thực hiện và quản lí thông qua các tiêu chuẩn, tiêu
chí có tính thông lệ quốc tế, đặc biệt trong quản lí nợ xấu, vì:
- Quản lí nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế hiện đại sẽ làm tăng khả năng cung
cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng nhanh vòng quay
vốn va thu hút thêm được nhiều khách hàng, bởi vì các hình thức của sản phẩm,
dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng va uy tín của ngân hàng, làm cho
khách hàng mong muốn gắn bó lâu dài với ngân hàng.
- Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng,
việc ứng dụng các mô hình quản lí tài sản hiện đại, đặc biệt là quản lí nợ xấu sẽ hạn
chế tổn thất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tăng lợi nhuận bổ sung vốn
đầu tư.
22
- Ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều hòa vốn trong
nền kinh tế. Do đó, chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng củng cố mối
quan hệ xã hội của ngân hàng, điều đó cũng có ý nghĩa là tạo được môi trường
thuận lợi nhất cho hoạt động ngân hàng phát triển, gia tăng giá trị cho các ngân
hàng đồng thời mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
- Việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản Basel giúp các cơ quan quản lí xây dựng
hệ thống thanh tra giám sát hiệu quả, hỗ trợ việc phát triển thị trường tài chính, phát
triển hoạt động ngân hàng vững mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các
NHTM.

Ủy ban Basel đã ban hành đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính:
(1)Yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel II
(2)Sự xem xét đánh giá của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ
chức tài chính.
(3) Sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm mạnh kỉ luật thị
trường trường như là sự bổ sung cho nỗ lực giám sát.
Bốn nguyên tắc chính của trụ cột (2)-Xem xét đánh giá của quá trình đánh giá
nội bộ và sự đủ vốn của tổ chức tài chính.
Nguyên tắc 1: Ngân hàng nên có quy trình đánh giá sự thích hợp của tổng vốn
và hồ sơ rủi ro của ngân hàng cùng với một chiến lược duy trì các mức vốn khác
nhau.
Nguyên tắc 2: Những người giám sát cần kiểm tra lại, đánh giá các chiến lược
và đảm bảo sự tuân thủ các mức vốn điều tiết. Những người giám sát cần có những
hành động giám sát phù hợp nếu họ không thỏa mãn với kết quả của quá trình đánh
giá.
Nguyên tắc 3: Kiếm sát viên nên yêu cầu ngân hàng duy trì mức cao hơn tỷ lệ
vốn điều chỉnh tối thiểu và phải có khả năng yêu cầu các đơn vị thành viên duy trì
mức mức vốn cao hơn mức vốn tối thiểu.
Nguyên tắc 4: Kiểm sát viên cần có biện pháp can thiệp ngay ở giai đoạn đầu
tiên để ngăn chặn mức vốn không bị rớt xuống thấp hơn mức tối thiểu để giải quyết
những thuộc tính rủi ro của một ngân hàng nhất định và cần có hướng giải quyết
tức thì nếu vốn không duy trì hoặc khôi phục lại được.
Hiện nay bên cạnh việc áp dụng nguyên tắc Basel, một số nước vẫn áp dụng
những tiêu chuẩn riêng của mình, nhưng nhìn chung Basel là nguyên tắc được áp
dụng phổ biến hiện nay.
23
24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN-NỘI
2.1 Khái quát chung về ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội.

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
- 13/11/1993: Ngân hàng TMCP Nông Thôn Nhơn Ái (tiền thân của Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội - SHB) được thành lập theo giấy phép
số 0041/NH /GP ngày 13/11/1993 do Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
cấp và chính thức đi vào hoạt động ngày 12/12/1993. Ra đời trong bối cảnh nền
kinh tế đất nước chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có
sự quản lý cuả Nhà nước và theo chủ trương cuả Chính Phủ, đây là giai đoạn đổi
mới và thực hiện pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã và Công ty tài chính, vốn điều lệ
đăng ký ban đầu là 400 triệu đồng, thời gian đầu mới thành lập mạng lưới hoạt động
cuả Ngân hàng chỉ có một trụ sở chính đơn sơ đặt tại số 341 - Ấp Nhơn Lộc 2 - Thị
tứ Phong Điền - Huyện Châu Thành tỉnh Cần Thơ (cũ) nay là Huyện Phong Điền
Thành Phố Cần Thơ với điạ bàn hoạt động bao gồm vài xã thuộc huyện Châu
Thành, đối tượng cho vay chủ yếu các hộ nông dân với mục đích vay phục vụ sản
xuất nông nghiệp, tổng số cán bộ nhân viên lúc bấy giờ của Ngân hàng có 08 người,
trong đó chỉ có 01 người có trình độ đại học.
- 20/01/2006: Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã ký Quyết định
số93/QĐ-NHNN về việc chấp thuận cho SHB chuyển đổi mô hình hoạt động từ
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nông thôn sang Ngân hàng Thương mại Cổ phần
đô thị, từ đó tạo được thuận lợi cho ngân hàng SHB có điều kiện nâng cao năng lực
về tài chính, mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, đủ sức cạnh tranh và phát
triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của SHB và đây là Ngân hàng TMCP
đô thị đầu tiên có trụ sở chính tại Thành phố Cần Thơ, trung tâm tài chính-tiền tệ
của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
- Việc chuyển đổi mô hình hoạt động từ Ngân hàng TMCP nông thôn sang
Ngân hàng TMCP đô thị là một giai đoạn phát triển mới của SHB với mục tiêu sẽ
trở thành một trong ngân hàng thương mại cổ phần bán lẻ đa năng, phấn đấu chuyển
đổi từ một ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với phạm vi và quy mô hoạt
động hẹp sang ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, cung cấp sản phẩm dịch vụ đa
dạng cho các thị trường có chọn lựa, ngân hàng hoạt động vững mạnh và an toàn,
phát triển bền vững đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

- Năm 2006, là năm đánh dấu sự thay đổi và bước phát triển mạnh mẽ của
25

×