Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Đánh giá tăng trưởng của các ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 72 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
II. Một số lý thuyết về tăng trưởng kinh tế 5
2.1. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển 5
2.2. Lý Thuyết tăng trưởng của KEYNES 7
2.3. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh 9
3.2. Mô hình Solow-Swan 11
KẾT LUẬN 66
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
BẢNG
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP các ngành, 2005 - 2009 Error: Reference
source not found
Bảng 2: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, 2005 - 2009 Error:
Reference source not found
Bảng 3: Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế,
2005 - 2009 Error: Reference source not found
Bảng 4. Tốc độ tăng trưởng GDP các ngành dịch vụ, 2005 - 2009 Error:
Reference source not found
Bảng 5. Đầu tư xã hội trên GDP giai đoạn 2005 - 2009 Error: Reference
source not found
Bảng 6. Thu chi ngân sách 2005 – 2009 Error: Reference source not found
HÌNH
Hình 1: Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP, 1996 - 2009Error: Reference
source not found
Hình 2: Tỷ trọng các ngành trên GDP theo giá cố định, 2000 - 2009 Error:
Reference source not found
Hình 3: Tăng trưởng giá trị sản xuất ngành công nghiệp theo tháng, 2009
Error: Reference source not found


Hình 4. 10 sản phẩm công nghiệp tăng trưởng thấp, 2009 Error: Reference
source not found
Hình 5. 10 sản phẩm công nghiệp tăng trưởng cao, 2009 Error: Reference
source not found
Hình 6. Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP ngành dịch vụ, 2009 Error:
Reference source not found
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Hình 7. Tỷ trọng các thành phần kinh tế trong tổng đầu tư toàn xã hội,
2005 - 2009 Error: Reference source not found
Hình 8. Đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN, 2005 - 2009 Error: Reference
source not found
Hình 9. Tỷ trọng đầu tư NSNN trên GDP, 2005 - 2009 Error: Reference
source not found
Hình 10. Tỷ trọng vốn FDI vào các ngành, 2009 Error: Reference source not
found
Hình 11. Vốn FDI, 2005 - 2009 Error: Reference source not found
Hình 12. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị Error: Reference source not
found
Hình 13. Diễn biến tiền tệ, 2005 - 2009 Error: Reference source not found
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tích cực,chủ động và
sâu rộng trong nền kinh tế toàn cầu. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam, một trong những mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong quá
trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2020.Để đạt mục tiêu đó một cách bền vững cần có
tăng trưởng kinh tế cao. Muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phải xây dựng được

các nhân tố ảnh hưởng, từ đó có thể đánh giá, phân tích tình hình tăng trưởng kinh
tế thông qua việc ứng dụng các mô hình kinh tế, làm sáng tỏ hơn vai trò của các mô
hình tăng trưởng kinh tế. Do vậy, việc nghiên cứu và phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại viện khoa học lao động xã hội trực thuộc Bộ lao
động, nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề và được sự hướng dẫn của thạc sĩ Lê
Đức Hoàng, em đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tăng trưởng của các
ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009” .
Cấu trúc chuyên đề gồm 3 chương :
-Chương 1 : Một số vấn đề cơ bản về tăng trưởng kinh tế
-Chương 2 :Thực trạng tăng trưởng của các ngành kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2005 – 2009.
-Chương 3 : Xây dựng mô hình đánh giá tác động của một số nhân tố đến
tăng trưởng trong các ngành kinh tế giai đoạn 2005 – 2009
Đề tài đưa ra nhằm đánh giá xem ngành nào đạt hiệu quả kinh tế cao, ngành
nào chưa cao, nguyên nhân tại sao lại có sự khác biệt đó. Đặc biệt , trong đề tài này,
quan trọng nhất là phân tích để tìm ra yếu tố tác động đến sản xuất của các ngành.
Từ đó, yếu tố nào tác động tích cực thì nên chú trọng hoàn thiện và phát huy, yếu tố
nào tác động tiêu cực thì đưa ra biện pháp khắc phục cho phù hợp với tình hình phát
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
triển chung của đất nước trong thời kì tới
Sự quan tâm, giúp đỡ của thầy và bạn bè đã tạo điều kiện tốt giúp em hoàn
thành đề tài này. Tuy nhiên do kiến thức còn non yếu và sự hạn chế về mặt số liệu
nên không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy
cô để chuyên đề đạt chất lượng tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Đức Hoàng, cô Nguyễn Thị Minh cùng các
thầy cô giáo trong khoa Toán Kinh Tế và các bạn đã giúp em hoàn thành chuyên đề

này.
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. Khái niệm và vai trò của tăng trưởng kinh tế
I.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển
kinh tế. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống và hoàn thiện
hơn.Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả những kinh
nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng.
Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn
đề kinh tế, song nó mang tính chính trị xã hội sâu sắc. Tăng trưởng và phát triển
kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu
về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của mỗi quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn
bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh
tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ
tăng trưởng). Trong phân tích kinh tế, để phản ánh mức độ mở rộng quy mô của nền
kinh tế thường sử dụng khái niệm tăng trưởng kinh tế. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa
sản lượng tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước
đó hoặc thời kỳ gốc.
Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện
ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và được phản ánh thông
qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Đứng trên góc độ
toàn nền kinh tế, thu nhập thường được thể hiện dưới dạng giá trị thu nhập, hoặc có
thể là thu nhập bình quân trên đầu người. Các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng

theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản xuất (GO); tổng
sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập quốc dân (GNI); thu nhập quốc dân (NI);
thu nhập được quyền chi (GDI); trong đó chỉ tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan
trọng nhất. Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế thể hiện cụ thể ở quy mô (mức) và
tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu giá trị nói trên. Nếu quy mô và tốc độ tăng của
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập bình quân đầu người cao, có thể
nói, đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng của tăng trưởng kinh tế.
Mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở các khía cạnh: Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Nền kinh tế có chất lượng cao là nền kinh tế phát triển bền vững, đó là sự phát
triển đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau.
I.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những
dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng
trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
- Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất
lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là
tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn
đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục
sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ,
giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn
hoá phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất

nghiệp.Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên
nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh
tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và
tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okum1
(hay quy luật 2,5% -1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong
vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
- Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng
cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội.
- Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang
phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc
gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực
tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội
như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai mặt. Chẳng hạn, tăng
trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế "quá nóng", gây ra lạm
phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng
có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi
quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự
tăng trưởng hợp lý, bền vững
II. Một số lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
2.1. Lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển
Cuối thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật, hàng loạt phát minh khoa học, nguồn tài nguyên đã được khai thác để
phục vụ quá trình sản xuất và thời kỳ này được coi là mốc đánh dấu sự ra đời của
trường phái tân cổ điển.

Lý thuyết tân cổ điển được xây dựng dựa trên cơ sở giả định rằng nền kinh tế
luôn đạt tới trạng thái cân bằng trong điều kiện toàn dụng lao động. Quá trình tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tích luỹ vốn và gia tăng lực lượng lao động.
Học thuyết của Keynes lại cho rằng cần phải có những điều kiện nhất định thì mới
có toàn dụng lao động chứ không phải đạt được một cách tự nhiên. Tuy nhiên
những phân tích của Keynes chỉ nhằm vào những điều kiện toàn dụng lao động
trong ngắn hạn. Để xem xét các nhân tố tạo ra quá trình tăng trưởng bền vững, các
nhà kinh tế tân cổ điển, mở đầu là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã đưa
ra một phương pháp tiếp cận mới.
Vào giữa thể kỷ XX, trong khi các nhà kinh tế cổ điển chỉ xem xét duy nhất
khía cạnh cung ngắn hạn, thì Harrod và Domar xem xét đồng thời cả hai khía cạnh
cung và cầu của quá trình đầu tư. Theo quan điểm của Roy Harrod và Evsay
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
Domar, trường phái Keynes không thể phân tích được quá trình tăng trưởng cân
bằng dài hạn vì đặt thấp vai trò của nhân tố vốn trong khi trên thực tế: đầu tư có tác
động rất rõ nét cả về phía cung và phía cầu. Về phía cung, đầu tư là nhân tố đầu vào
quan trọng của quá trình sản xuất, làm tăng khối lượng tài sản cố định từ đó tăng
năng lực sản xuất của nền kinh tế; về phía cầu, đầu tư sẽ làm tăng thu nhập và
khuyến khích tiêu dùng do đó sẽ làm tăng cầu và kích thích sản xuất. Nếu đầu tư
vừa làm tăng năng lực sản xuất, vừa làm tăng thu nhập thì nó sẽ làm tăng cả hai vế
trong phương trình cân bằng, tạo ra tỷ lệ tăng trưởng cần thiết. Hai ông cho rằng
đầu tư ròng trong bất kỳ thời kỳ nào cũng ngang bằng tiết kiệm ròng; thu nhập còn
lại sau khi tiêu dùng sẽ được chuyển thành tiết kiệm và được đưa vào đầu tư; sau
quá trình này tổng cung và tổng cầu sẽ tự động cân bằng.
Xét phía cung của đầu tư, Harrod-Domar cho rằng năng lực sản xuất của nền
kinh tế phụ thuộc vào đầu tư mới theo quan hệ sau:
ΔY=I.p (1)

Trong đó ΔY là sản lượng tăng thêm; I là đầu tư và p là năng suất tiềm năng
trung bình của vốn .
Đặc trưng quan trọng nhất của phương trình (1) là năng suất tiềm năng p tức là
khi p càng cao thì nền kinh tế càng có khả năng tăng trưởng nhanh. Chia cả hai vế
phương trình (1) cho Y thu được phương trình:
p
Y
I
Y
Y
=

(2)
đặt g=
Y
Y∆
thì g chính là tỷ lệ tăng trưởng.
Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về mặt lý thuyết thì đầu tư (I)
luôn bằng tiết kiệm (S). Nếu gọi s là tỷ lệ tiết kiệm trong GDP thì:
Y
I
Y
S
s ==
Từ đó ta có phương trình: g=s.p (3)
Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn-đầu ra thì ta có:
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế


pY
I
Y
K
k
1
=

=


=
(4)
Ở đây k được gọi là hệ số ICOR. Nó phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất
và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Từ đó ta có phương trình cuối cùng là:
g=
k
s
Phương trình nhìn từ phía cung 2 ông cho rằng thu nhập quốc gia là hàm của
đầu tư tăng hơn cho thấy vốn đầu tư là nhân tố chính xác định tỷ lệ tăng trưởng và
tiết kiệm quốc gia là nguồn gốc của đầu tư.
Về phía cầu Harrod-Domar sử dụng khái niệm nhân tử Keynes, là của bản
thân đầu tư và nếu đầu tư trong năm sau không tăng so với năm trước thì thu nhập
quốc gia năm sau sẽ không thể tăng so với năm trước.
Như vậy Harrod-Domar đã vạch ra một mô hình tăng trưởng cho các nước
đang phát triển đó là tăng trưởng dài hạn với mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền
vững phải dựa vào việc tích luỹ vốn cho đầu tư.
2.2. Lý Thuyết tăng trưởng của KEYNES
Vào những năm 30 của thế kỷ XX khung hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra

thường xuyên và nghiêm trọng. Vào năm 1936, Keynes đã xuất bản cuốn sách nổi
tiếng bàn về nguyên nhân của cuộc đại suy thoái của chủ nghĩa tư bản lúc đó với
tiêu đề : “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Về ngắn hạn, xuất phát
điểm của lý thuyết Keynes là nguyên tắc cầu thực. Ông sự dụng lý luận về việc làm
và sản lượng do cầu quyết định để giải thích mức sản lượng thấp và thất nghiệp cao
kéo dài trong những năm 30 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây. Do đó lý
thuyết này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu. Theo ông: tổng việc làm phụ thuộc
vào tổng cầu thực, cầu thực này lại phụ thuộc vào chỉ tiêu có nguồn gốc từ thu
nhập. Do nhấn mạnh vai trò của cầu nên Keynes tập trung vào xử lý cầu gộp. Cầu
gộp được chia làm hai thành phần là: cầu tiêu dùng và cầu đầu tư. Trong khi cầu
tiêu dùng được xem là ổn định với thu nhập thì cầu đầu tư biến động rất phức tạp và
phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư, tuy nhiên nhà nước vẫn có thể tác động trực tiếp vào
cả hai thành phần này để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
Theo Keynes, trong ngắn hạn thì đầu tư luôn luôn ngang bằng với tiết kiệm
nhưng cơ chế xác định hai chỉ tiêu này hoàn toàn khác nhau. Trong khi tiết kiêm
phụ thuộc vào thu nhập thì đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất; phương trình cân bằng
tiết kiệm-đầu tư cho phép xác định đồng thời thu nhập và lãi suất, hợp thành đường
cong IS nổi tiếng (I(r)=S(Y)). Khi đầu tư thì cầu thực của nền kinh tế tăng làm cho
sản xuất tăng (trong điều kiện nền kinh tế chưa sử dụng hết công suất). Do đó,
Chính phủ có thể chủ động tăng chi tiêu ngân sách, nhất là đầu tư vào các dự án
công cộng, làm tăng đầu tư chung của toàn nền kinh tế kéo theo tổng cầu tăng, mở
ra quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
Lý thuyết Keynes chủ yếu là đóng góp trong phân tích kinh tế ngăn hạn. Trong
dài hạn, nhìn chung Keynes vẫn sử dụng những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết tân
cổ điển. Các mô hình kinh tế vĩ mô theo lý thuyết Keynes vẫn coi tiết kiệm là nguồn
gốc của đầu tư là nhân tố quyết định quá trình tăng trưởng dài hạn.

Hàm sản xuất trong mô hình Keynes có dạng gộp như sau:
Y=f(K, L)
Trong đó: Y là kết quả sản xuất ( sản lượng).
K là vốn cố định và L là lao động.
Trong mô hình này L được xem là biến ngoại sinh, nó ảnh hưởng tích cực đến
tăng trưởng do đó khi số người tham gia lao động tăng lên thì sản xuất sẽ tăng. Đối
với tiết kiệm và đầu tư, Keynes đồng ý với các nhà kinh tế tân cổ điển là tiết kiệm
chịu ảnh hưởng của thu nhập chứ không phải là lãi suất do đó nếu đầu tư giảm thì
thu nhập giảm dẫn tới tiết kiệm giảm gây ra sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư cho giai
đoạn tiếp theo. Keynes cũng cho rằng đầu tư là nhân tố then chốt để tăng trưởng,
thực hiện toàn dụng lao động nhưng ông cho rằng không tồn tại cơ chế tự động giữ
tiết kiệm và đầu tư luôn ở mức cân bằng. Từ đây ông đề cao vai trò của Chính phủ:
chính phủ có thể kích thích đầu tư thông qua tăng thâm hụt ngân sách; khi đầu tư
tăng thì sản xuất và việc làm tăng, kéo theo tăng nhu cầu; nhu cầu tăng sẽ lại kích
thích sản xuất để đáp ứng cầu làm cho tăng kinh tế nhanh hơn.
Tuy nhiên, các giả thuyết cơ bản của lý thuyết Keynes đã không phù hợp với
các nước đang phát triển. Ví dụ: như để chính sách tăng trưởng dựa vào kích cầu
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
thắng lợi Keynes đòi hỏi nền kinh tế phải luôn trong tình trạng cung lớn hơn cầu
nhưng điều này là không hiện thực tại các nước đang phát triển. Một nước mà nơi
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, công nghiệp rất yếu kém, cung luôn luôn
không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu Do đó các nhà kinh tế sau Keynes đã
đi sâu nghiên cứu, phát triển lý thuyết Keynes để giải thích những vấn đề về tăng
trưởng dài hạn phù hợp với các nước đang phát triển.
2.3. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Mô hình tăng trưởng ngoại sinh được phát triển bởi nhiều tác giả như Samsey
(1928), Swan (1956) và đặc biệt là Solow (1956) đã chứng minh vai trò của từng

yếu tố vốn, lao động, công nghệ trong tăng trưởng kinh tế và đã giải thích được
nguồn gốc của sự tăng trưởng trong những năm 50-60. Theo nhận định của nhiều
nhà kinh tế, sự tăng trưởng nhanh của những nước NIC dựa phần lớn vào sự huy
động các nguồn lực đầu vào như lao động, tư bản chứ không phải dựa vào hiệu quả
của việc sử dụng các nguồn lực đó. Song từ những năm 70 đã có những nhận định
về sự tăng trưởng kinh tế của những nước công nghiệp mới. Đó là sự tăng trưởng
kinh tế không chỉ phụ thuộc vào sự tăng trưởng của các nguồn lực vật chất, của
năng suất, là làm thế nào để duy trì được năng suất nhân tố tổng hợp mà chỉ với mô
hình tăng trưởng ngoại sinh thì không giải thích được. Vì các giả định của mô hình
ngoại sinh tỏ ra còn quá đơn giản so với thế giới hiện thực như giả định rằng: nền
kinh tế chỉ có 2 khu vực là hộ gia đình và doanh nghiệp mà vai trò Chính Phủ chưa
được tính đến hoặc họ giả định chỉ có một loại tư bản (tư bản vật chất) song trong
thế giới hiện thực có nhiều loại tư bản khác nhau như: tư bản hiện vật, vốn nhân
lực, tư bản của khu vực tư nhân, tư bản của khu vực công cộng, ; Thêm nữa mô
hình tăng trưởng ngoại sinh, không lý giải nó và các yếu tố quyết định nó. Đến thập
kỷ 70 và 80, các nhà kinh tế đã đưa ra mô hình tăng trưởng nội sinh nhằm khắc
phục các khiếm khuyết của mô hình tăng trưởng tân cổ điển.
Cách tiếp cận của mô hình tăng trưởng nội sinh là yếu tố ngoại sinh thành nội
sinh. Các tác giả như Romer (1986), Lucas (1988) và Rabelo (1991) đã đưa tiến bộ
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
công nghệ từ biến ngoại sinh trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển thành biến nội
sinh trong mô hình tăng trưởng nội sinh. Theo mô hình, tăng trưởng xuất phát từ
những nỗ lực đổi mới trong sản xuất, trong đó đổi mới mang tính nội sinh. Nó phụ
thuộc vào việc lựa chọn các phương thức sản xuất ra các loại sản phẩm mới đáp ứng
được nhu cầu của thị trường tiềm năng. Sự lựa chọn này phụ thuộc và nhiều yếu tố
như: quy mô dân số, trình độ công nghệ hiện tại và khả năng đổi mới công nghệ
trong tương lai. Sự tăng trưởng về cơ bản sẽ đạt được từ những yếu tố ngoại sinh

nhưng lại được tạo ra trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa sự cải tiến và
đổi mới của các đơn vị sản xuất. Theo quan điểm này thì lý thuyết tăng trưởng nội
sinh đã trở lại với lý thuyết phát triển của Schumpeter (1991), đó là coi đổi mới là
động lực của sự tăng trưởng. Theo các nhà kinh tế hậu Schumpeter và những người
theo thuyết tăng trưởng nội sinh, các sáng kiến cải tiến thường có xu hướng tập
trung theo ngành công nghệ và theo hình thức tổ chức sản xuất nên nhiều khi chỉ
một sáng kiến mang tính đột phá căn bản. Chẳng hạn tạo ra một sản phẩm mới, một
công nghệ mới có khả năng áp dụng rộng rãi thì có thể đem lại một quá trình tăng
trưởng dài hạn. Như vậy, 2 khía cạnh tạo ra sáng kiến và phổ biến rộng rãi sáng
kiến tự chúng đã hoà hợp với nhau tạo thành thuyết kinh tế nội sinh hoàn chỉnh.
Theo lý thuyết tăng trưởng, nền kinh tế của một quốc gia có những đặc thù
riêng nên mức độ tiếp cận các luồng trí thức, mức độ tham gia trao đổi hàng hoá,
sản phẩm sẽ khác nhau. Vì vậy, các quốc gia không có cùng một nhịp độ tăng
trưởng kinh tế dài hạn và con đường dẫn đế sự tăng trưởng cũng rất đa dạng, phong
phú. Từ đó, Chính phủ có thể đề ra đường lối và chính sách phát triển đất nước cho
phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nước mình. Như vậy, Chính phủ có tiềm năng
hoặc là rất lớn hoặc là rất yếu trong việc tác dộng tới tăng trưởng trong dài hạn bằng
các hoạt động của chính mình như thuế khoá, duy trì trật tự, an ninh và luật pháp,
cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng, đảm bảo luật sở hữu trí tuệ và các quy định về
thương mại quốc tế, thị trường tài chính và nhiều khía cạnh của nền kinh tế
Mô hình tăng trưởng nội sinh đã chỉ ra nhiều kênh ngoại sinh qua đó cho phép
Chính phủ có thể tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả tích cực tới tăng trưởng
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
kinh tế trong đó cần phải kể đến kênh vốn đầu tư và vốn nhân lực : trong đó vốn
sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất tới tăng trưởng và là nhân tố tiền đề để tạo
cơ sở cho sự ra đời và tích tụ các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho quá
trình sản xuất. Mặt khác, dù rằng công nghệ đã được khẳng định là có vai trò rất

quan trọng đới với tăng trưởng kinh tế nhưng tiến bộ về công nghệ hiện đại, với
vốn nhân lực làm chủ được các lạo công nghệ đó thì nền kinh tế mới có bước
nhẩy vọt về tăng trưởng.
III. Mô hình tăng trưởng kinh tế
3.1. Hàm sản xuất Cobb-Douglas
Các nhà kinh tế học tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng thông qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên
của đầu ra với sự gia tăng của các yếu tố đầu vào: lao động, tài nguyên thiên nhiên,
khoa học- công nghệ và vốn.
Cobb-Douglas đưa ra mô hình dạng đơn giản:
Y=AK
α
L
β
Trong đó :
K và L là lượng vốn sản xuất, lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
α và β là các hệ số co giãn phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào. Chính là
tỷ phần đóng góp của các yếu tố (thông thường giả định α+β=1)
Về sau hàm sản xuất Cobb-Douglas đã được mở rộng theo nhiều chiều
hướng khác nhau. Người ta thấy rõ sự cần thiết phải phản ánh đầy đủ hơn nữa
hiệu quả của qui mô sản xuất và ảnh hưởng của tiến bộ kỹ thuật. Những dạng cải
biên của hàm sản xuất như: tổng các số mũ không nhất thiết bằng đơn vị hoặc
thêm vào một nhân tử đặc trưng cho tiến bộ kỹ thuật dưới dạng hàm của thời
gian t, thường là dạng e
vt
(v là hằng số đặc trưng cho nhịp độ phát triển). Kết quả
ta có hàm sản xuất dạng sau:
Y=AK
a
L

β
e
vt
3.2. Mô hình Solow-Swan
Mô hình Harrod-Domar không đề cập tới nhân tố lao động (với giả thiết ngầm
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
định là tỷ lệ vốn/lao động không đổi), do đó không xét tới sự thay thế giữa vốn và
lao động cũng như tiến bộ công nghệ. Mô hình Solow-Swan sẽ mở rộng với các
nhân tố này. Đây là mô hình đề cập tới hai nhân tố cơ bản là nguồn vốn và lao động
và chỉ ra sự gia tăng, tích luỹ vốn đặc biệt là sự tăng trưởng của tỷ suất vốn/lao
động quyết định sự tăng trưởng của nhân tố và các biến nội sinh khác.
Xét mô hình Solow-Swan với sản lượng (đầu ra) xác định bởi hàm sản xuất
dạng Cobb-Douglas hiệu quả không đổi theo qui mô.
Y
t
=K
α
(L
t
.A
t
)
1-α
Trong mô hình này nguồn lao động L là biến ngoại sinh, được xác định từ bên
ngoài. Với giả định nguồn lao động L tăng tỷ lệ với việc tăng dân số, khi đó:
L=L
0

e
nt
Trong đó: n là nhịp độ tăng trưởng lao động (ổn định), t là biến thời gian và L
0
là nguồn lao động của thời kỳ gốc.
Ký hiệu k (=K/L) là cấu tạo hữu cơ của tư bản thể hiện mức trang bị vốn cho
một lao động; s(k) (=K/L) là tỷ lệ của vốn đầu tư trên sản lượng (tỷ lệ tiết kiệm); giả
sử công nghệ A tăng với tốc độ không đổi. Ta có:
Y=A
1-α
L.f(k) với f(k)=k
α
Gọi k là đạo hàm của tỷ suất vốn/lao động theo thời gian. Nền kinh tế đạt
trạng thái tăng trưởng cân đối-các chỉ tiêu đều tăng trưởng với nhịp độ giống nhau
thì phương trình sau được thoả mãn:
k=s(k).f(k)-(h+n).k
Trong đó h là tỷ lệ khấu hao vốn, n là nhịp tăng trưởng của nguồn lao động
(ổn định).
Giải phương trình trên ta được nghiệm k
*
(k
vàng
) =
α
α








+
1
1
hn
và xác định mức
tích luỹ “vàng” s
*
=α (s
vàng
).
Ta lại có mức đầu tư theo đầu người ứng với s
vàng
, k
vàng
là:
i
vàng
=(n+h).k
vàng
Vậy: với tỷ suất tích luỹ “vàng” nền kinh tế vừa nghĩ tới thế hệ tương lai (đầu
tư i
vàng
) vừa quan tâm đến thế hệ hiện tại một cách tối đa (tiêu dùng c
vàng
).
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh

tế
Thông thường, điểm xuất phát của nền kinh tế của các nước nghèo ứng với
trường hợp k
0
<k
*
, s
0
<s
vàng
và nhiệm vụ quan trọng là nâng cao tốc độ tăng trưởng để
đạt tăng trưởng cân đối thông qua con đường đầu tư.
IV. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, bao gồm nhân tố kinh tế
và nhân tố phi kinh tế.
4.1. Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế tác động đến tăng trưởng kinh tế là những nhân tố có tác
động trực tiếp đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế, bao gồm vốn, lao
động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên.
• Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế, bao
gồm nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như
những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế
được các nhà kinh tế trường phái Keynes đánh giá rất cao. Cụ thể, nó được lượng
hóa thông qua mô hình Harrod-Domar. Để có được vốn sản xuất, phải thực hiện đầu
tư. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ
đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững.
• Lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất. Trước đây người ta
chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất giống như vốn và được xác định bằng số
lượng lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đầu người hay thời gian lao

động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía
cạnh phi vật chất của lao động là vốn con người, đó là lao động có kỹ năng sản
xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị, phức tạp, lao động có sáng kiến và
phương pháp mới trong hoạt động kinh tế Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô (số lượng) lao động, còn yếu tố
vốn con người có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng nguồn nhân lực của các
nước này còn thấp.
• Tiến bộ công nghệ là yếu tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng kinh
tế hiện nay. Yếu tố công nghệ cần được hiểu đày đủ theo hai dạng: Thứ nhất, đó là
những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra
những nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
kỹ thuật; Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào
thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Vai trò của công nghệ
đã được nhiều nhà kinh tế đánh giá cao đối với tăng trưởng như Solow (1956),
Kuznets (1966), Lucas (1988) hay Samuelson (1998). Solow (1956) cho rằng “
Toàn bộ tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ
thuật” , Kuznets (1966) hay Samuelson (1998) đều khẳng định công nghệ kỹ thuật
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững.
• Tài nguyên bao gồm đất đai và tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất. Các
nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng
đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát triển. Song, nguồn
tài nguyên thì có hạn, không thể tái tạo được, hoặc nếu tái tạo được phải mất nhiều
thời gian, sức lực và chi phí. Do đó, tài nguyên được đưa vào sử dụng để tạo ra sản
phẩm cho xã hội càng nhiều càng tốt nhưng phải đảm bảo chúng được sử dụng có
hiệu quả, không lãng phí. Việc sử dụng tài nguyên là vấn đề có tính chiến lược, lựa
chọn công nghệ để có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên của quốc gia là

vấn đề sống còn của phát triển. Sử dụng lãng phí tài nguyên có thể được xem như
sự hủy hoại môi trường, làn cạn kiệt tài nguyên. Hiện nay, các mô hình tăng trưởng
hiện đại thường không nói đến tài nguyên với tư cách là biến số của hàm tăng
trưởng kinh tế. Họ cho rằng tài nguyên là yếu tố cố định, vai trò của chúng có xu
hướng giảm dần, hoặc tài nguyên có thể được quy về vốn sản xuất.
Như vậy, có thể thấy nguồn gốc của tăng trưởng do nhiều yếu tố hợp thành,
vai trò của nó phụ thuộc vào hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mỗi quốc gia. Đối
với các nước nghèo, vốn vật chất, lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò
quan trọng. Ngược lại đối với các nước công nghiệp thì vai trò của vốn con người
và tiến bộ công nghệ quan trọng hơn. Các công trình nghiên cứu về nguồn gốc tăng
trưởng của Romer (1986) và Levine (1992) đều cho rằng, trong bối cảnh chuyển đổi
nền kinh tế từ hậu công nghiệp sang kinh tế tri thức thì nhân lực và khoa học công
nghệ vượt trội hơn các yếu tố truyền thống khác.
4.2. Các nhân tố phi kinh tế
Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay còn gọi
là các nhân tố phi kinh tế, có tác động gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể mức độ
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế. Có thể kể ra một số nhân tố phi kinh tế
tác động đến tăng trưởng như: Vai trò của nhà nước, các yếu tố văn hóa – xã hội,
thể chế, cơ cấu dân tộc tôn giáo và sự tham gia của cộng đồng.
Ngày nay nhà nước là yếu tố vật chất thực sự cho quá trình tăng trưởng, và
mọi quốc gia không thể coi nhẹ vấn đề này. Nhà nước và khung khổ pháp lý không
chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là yếu tố của cả đầu ra trong quá trình sản xuất. Rõ
ràng cơ chế chính sách có thể có sức mạnh kinh tế thức sự, bởi chính sách đúng có
thể sinh ra vốn, tạo thêm nguồn lực cho tăng trưởng. Ngược lại, nhà nước quyết
sách sai, điều hành kém, cơ chế chính sách không hợp lý sẽ gây tổn hại cho nền
kinh tế, kìm hãm tăng trưởng cả về mặt số lượng và chất lượng. Stiglitz (2000) cho

rằng thị trường hiệu quả chỉ có được dưới các điều kiện nhất định. Do đó trong
nhiều trường hợp, một sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực và kết quả đầu ra sẽ khó
đạt được nếu không có sự can thiệp của chính phủ. Thomas, Dailami và Dhareshwar
(2004) cũng đã chỉ ra tác động tích cực của quản lý nhà nước đối với tăng trưởng
kinh tế về số lượng và chất lượng.
Như vậy, có thể nhận thấy tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào năng lực
của bộ máy nhà nước, trước hết là trong việc thực hiện vai trò quản lý của nhà
nước. Quản lý hiệu quả của nhà nước vào quá trình tăng trưởng có thể xem xét qua
các tiêu chí là ổn định vĩ mô, ổn định chính trị, xây dựng thể chế và hiệu lực của
pháp luật. Triển vọng tăng trưởng được duy trì trong tương lai ở mức cao sẽ dễ đạt
được hơn ở nững nước có thể chế và quy định minh bạch, rõ rang và tính thực thi
của pháp luật cao, có bộ máy nhà nước ít quan liêu, tham nhũng, đồng thời tạo điều
kiện cho mọi công dân thực hiện tốt các quyền của họ.
Văn hóa – xã hội là nhân tố quan trọng, tác động nhiều tới quá trình phát triển
của mỗi quốc gia. Nhân tố văn hóa – xã hội bao trùm nhiều mặt, từ tri thức phổ
thông đến những tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ,
văn học, lối sống, phong tục tập quán… Trình độ văn hóa cao đồng nghĩa với trình
độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nhìn chung trình độ văn
hóa của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động,
kỹ thuật, trình độ quản lý. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ
bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển.
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
Thể chế được hiểu là các ràng buộc do con người tạo ra nhằm quy định cấu
trúc tương tác giữa người với người. Các thể chế chính trị - xã hội được thừa nhận
có tác động đến quá trình phát triển đất nước, đặc biệt thông qua việc tạo dựng hành
lang pháp lý và môi trường đầu tư. Vì nền tảng của kinh tế thị trường là dựa trên
trao đổi giữa các cá nhân và các nhóm người với nhau, bởi vậy nếu không có thể

chế thì các hoạt động này không thể diễn ra bởi vì người này không thể tương tác
với người kia mà không có chế tài nào đó ngăn cản người kia hành động tùy tiện và
ngược lại với thỏa thuận. Các cá nhân và doanh nghiệp chỉ có thể mua, bán, thuê
mướn hợp đồng, đầu tư nếu họ có một mức độ tin tưởng nhất định rằng các thỏa
thuận hợp đồng của họ sẽ được thực hiện (Kasper và Streit, 1998). Theo Douglass
(1994), các cá nhân tham gia giao dịch thường không có đủ thông tin. Do đó, sẽ có
các chi phí phát sinh gọi là chi phí giao dịch. Tất cả các chi phí này liên quan đến
thể chế. Một thể chế không tốt sẽ làm cho chi phí thực thi các hợp đồng cao và như
vậy sẽ không khuyến khích các giao dịch kinh tế. Hơn nữa, một cấu trúc thể chế tốt
sẽ tạo ra sự khuyến khích nhất định, ảnh hưởng quyết định đến việc phân bổ nguồn
lực con người theo hướng tốt hay xấu cho tăng trưởng kinh tế. Baumol (1990, 1993)
cho rằng nếu một thể chế không khuyến khích một tài năng kinh doanh sáng tạo mà
chỉ khuyến khích tái phân phối, tìm kiếm đặc lợi thì tăng trưởng sẽ thấp đi.
V. Một số chỉ tiêu đánh giá về tăng trưởng
Theo mô hình kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế được xác định theo các chỉ
tiêu thuộc hệ thống tài khoản quốc gia như sau:
5.1. Tổng giá trị sản xuất (GO – Gross output)
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Chỉ tiêu
tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu
bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thứ
hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia
tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
5.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic product):
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động
kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định.
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản là: Tiếp cận từ chi tiêu, thu nhập, giá
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh

tế
trị gia tăng (sản xuất).
• Phương pháp chi tiêu
Theo phương pháp chi tiêu, tổng sản phẩm quốc nội của một quốc gia là tổng
số tiền mà các hộ gia đình trong quốc gia đó chi mua các hàng hóa cuối cùng. Như
vậy trong một nền kinh tế giản đơn ta có thể dễ dàng tính tổng sản phẩm quốc nội
như là tổng chi tiêu hàng hóa và dịch vụ cuối cùng hàng năm.
GDP=C+G+I+NX
Trong đó:
C là tiêu dùng của hộ gia đình
G là tiêu dùng của chính phủ
I là tổng dầu tư
I = De+In
De là khấu hao
In là đầu tư ròng
NX là cán cân thương mại
NX=X-M
X (export) là xuất khẩu
M (import) là nhập khẩu
Tiêu dùng (C) bao gồm những khoản chi cho tiêu dùng cá nhân của các hộ
gia đình về hàng hóa và dịch vụ. ( xây nhà và mua nhà không được tính vào tiêu
dùng mà được tính vào đầu tư tư nhân).
Đầu tư (I) là tổng đầu tư ở trong nước của tư nhân. Nó bao gồm các khoản
chi tiêu của doanh nghiệp về trang thiết bị và nhà xưởng hay sự xây dựng, mua nhà
mới của hộ gia đình. (lưu ý hàng hóa tồn kho khi được đưa vào kho mà chưa đem đi
bán thì vẫn được tính vào GDP)
Chi tiêu chính phủ (G) bao gồm các khoản chi tiêu của chính phủ cho các
cấp chính quyền từ TW đến địa phương như chi cho quốc phòng, luật pháp, đường
xá, cầu cống, giáo dục, y tế, Chi tiêu chính phủ không bao gồm các khoản chuyển
giao thu nhập như các khoản trợ cấp cho người tàn tật, người nghèo,

Xuất khẩu ròng (NX)= Giá trị xuất khẩu (X)- Giá trị nhập khẩu(M)
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
• Phương pháp thu nhập
Theo phương pháp thu nhập hay phương pháp chi phí, tổng sản phẩm quốc
nội bằng tổng thu nhập từ các yếu tố tiền lương (wage), tiền lãi (interest), lợi nhuận
(profit) và tiền thuê (rent); đó cũng chính là tổng chi phí sản xuất các sản phẩm cuối
cùng của xã hội.
GDP=W+R+i+Pr+Ti+De
Trong đó
W là tiền lương
R là tiền thuê
i là tiền lãi
Pr là lợi nhuận
Ti là thuế gián thu
De là khấu hao
• Phương pháp giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng của doanh nghiệp ký hiệu là (VA) , giá trị tăng thêm của một
ngành (GO) , giá trị tăng thêm của nền kinh tế là GDP
VA = Giá trị thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp - Giá trị đầu vào
được chuyển hết vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuất
Giá trị gia tăng của một ngành (GO)
GO =∑ VAi (i=1,2,3, ,n)
Trong đó:
VAi là giá trị tăng thêm của doanh nghiệp i trong ngành
n là số lượng doanh nghiệp trong ngành
Giá trị gia tăng của nền kinh tế GDP
GDP =∑ GOj (j=1,2,3, ,m)

Trong đó:
GOj là giá trị gia tăng của ngành j
m là số ngành trong nền kinh tế
Lưu ý là kết quả tính GDP sẽ là như nhau với cả 3 cách trên. Ở Việt Nam GDP
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
được tính toán bởi Tổng cục thống kê dựa trên cơ sở các báo cáo từ các đơn vị, tổ
chức kinh tế cũng như báo cáo của các Cục thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Còn ở Mỹ GDP được tính toán bởi Cục phân tích kinh tế (vt: BEA).
5.3. Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income)
Đây là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử
dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội dung thì GNI và GNP là như nhau, tuy vậy
khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói
theo góc độ sản phẩm sản xuất ngư GNP.
Hiểu theo khía cạnh trên, GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch
vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất
định. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập
lần đầu có tính đến cả các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài.
Như vậy GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh
theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Chênh lệch thu Thu nhập lợi chi trả lợi tức
nhập nhân tố = tức nhân tố - nhân tố
với nước ngoài từ nước ngoài ra nước ngoài
Sự khác nhau về lượng giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập nhân
tố với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thì GNI thường nhỏ hơn GDP vì
thông thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm.
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế

19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁC NGÀNH KINH TẾ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005 – 2009
I. Thực trạng về tăng trưởng của các ngành kinh tế từ 2005 đến 2009
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới mặc dù không trực tiếp tác động
tới nền kinh tế Việt Nam thông qua hệ thống tài chính, tuy nhiên tác động gián tiếp
tới cung cầu là khá lớn và nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng thấp nhất trong vòng
10 năm trở lại đây khi GDP chỉ tăng 3,1% trong Quý I năm 2009 (xem bảng 1). Một
điểm đáng chú ý là 2 ngành có sản phẩm xuất khẩu như công nghiệp và nông
nghiệp chịu tác động mạnh, tốc độ tăng trưởng giảm và vẫn chưa phục hồi mức giá
trị trước khủng hoảng cho đến Quý IV/2009.
Xét chi tiết hơn ta thấy, ngoại trừ khai thác mỏ, những ngành có các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu như nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến có tốc độ tăng
trưởng rất chậm, chỉ bằng một nửa so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ các năm.
Ngành công nghiệp chế biến sụt giảm rất mạnh, tốc độ tăng trưởng năm 2009 có
quý thậm chí âm và kết thúc năm chỉ bằng xấp xỉ 1/4 tốc độ tăng trưởng cùng kỳ
các năm.
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP các ngành, 2005 - 2009
Trong khi đó, các ngành phi thương mại, như dịch vụ, xây dựng, điện, ga và
cung cấp nước lại tăng trưởng mạnh và là động lực phục hồi cho nền kinh tế. Hình 1
cho thấy ngành dịch vụ và xây dựng là 2 ngành có đóng góp lớn nhất vào tốc độ
tăng trưởng năm nay. Hai ngành này đều là những ngành phi thương mại. Đóng góp
của ngành xây dựng cho thấy tốc độ tăng trưởng của ngành này trong năm 2009 khá

ngoạn mục do tỷ trọng ngành này trên GDP thấp hơn nhiều so với công nghiệp chế
biến và nông nghiệp (xem Hình 2). Hai ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp
chiếm trên 40% GDP lại chỉ đóng góp có 1,03% trong tốc độ tăng trưởng chung
(là 5,32%).
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Toán Kinh
tế
Hình 1: Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP, 1996 - 2009

Nguồn : Tổng cục thống kê năm 2010
Hình 2: Tỷ trọng các ngành trên GDP theo giá cố định, 2000 - 2009
Nguồn: Tổng cục thống kê ( năm 2010 )
Đinh Thị Yến Lớp: Toán Kinh tế
22

×