Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu các trang thiết bị thông tin ở Công ty cổ phần dự án công nghệ DHA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.81 KB, 72 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định đẩy mạnh Công nghiệp hoá-
Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp. Trong bối cảnh thế giới khoa học công nghệ phát triển như
vũ bão Việt nam không thể nằm ngoại lệ, muốn đạt mục tiêu thì phải có trình
độ công nghệ nhất định và liên tục được nâng cao. Năng lực nội sinh hiện tại
của Việt nam còn thấp, không thể chỉ tự phát huy nội lực mà cần phải học hỏi
bạn bè các nước. Có nhiều cách học hỏi nhưng lựa chọn cách thích hợp và có
hiệu quả thì mới đem lại thành công. Đối với Việt nam hiện nay, những mặt
hàng chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao như các trang thiết bị công
nghệ thông tin có tính năng tiện dụng cao nhưng trong nước chưa đủ khả năng
sản xuất mặc dù nhu cầu trên thị trường Việt nam lớn thì nhập khẩu là tất yếu
và rất cần thiết.
Hoà chung với xu thế đó nhiều cơ hội đã mở rộng với các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt Nam. Công ty cổ phần
dự án công nghệ DHA là một trong số doanh nghiêp đó.Công ty chuyên nhập
khẩu kinh doanh các trang thiết bị về công nghệ thông tin tại thị trường Việt
Nam đồng thời cũng là nhà phân phối các sản phẩm điện tử - công nghệ thông
tin – viễn thông – thiết bị số với thời gian hoạt động dài và có nhiều bước tiến
triển. Nhập khẩu cho phép DHA khai thác các tiềm năng thế mạnh về trang
thiết bị công nghệ thông tin của các nước phát triển trên thế giới, bổ sung các
sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ nhu cầu tiêu
dùng các thiết bị công nghệ thông tin trong nước.
Ta cũng biết các trang thiết bị thông giữ một vai trò không nhỏ trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng sức khoẻ mỗi
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN


1
Chuyên đề tốt nghiệp
người dân, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình phát triển các ngành khác
và toàn bộ nền kinh tế. Đó là một mục tiêu lớn của Nhà nước nói chung
cũng như của Ngành công nghệ thông tin ở nước ta nói riêng trong thời đại
hội nhập phát triển.
Qua một thời gian thực tập tại Công ty cổ phần dự án công nghệ DHA
tôi xin chọn đề tài: ‘’Hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu các trang
thiết bị thông tin ở Công ty cổ phần dự án công nghệ DHA’’
Đề tài được kết cấu gồm ba phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần dự
án công nghệ DHA
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập
khẩu trang thiết bị công nghệ thông tin ở Công ty cổ phần dự án công
nghệ DHA
Kết luận.
Với thời gian thực tập còn ngắn nhiều hạn chế về kiến thức, cũng là lần
đầu tiên thực tập nên em rất mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của quý thầy cô.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NHẬP KHẨU
1.1. Lý luận chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh
nghiệp thương mại
1.1.1. Khái niệm
Có thể nói, từ khi nước ta mở cửa thị trường cho đến nay thì việc nhập
khẩu không phải là vấn đề gì mới mẻ và lạ lẫm nữa, nhưng để hiểu rõ hơn ,

trước hết ta sẽ xem xét thế nào là nhập khẩu hàng hoá.
Theo Luật Thương mại(6/2005) “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa
được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật.”
1.1.2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
1.1.2.1. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung.
Có thể nói nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động cơ bản của
thương mại quốc tế. Nhìn lại lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng
ta không thể phủ nhận vai trò của thương mại quốc tế nói chung và hoạt động
nhập khẩu nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động này có ý nghĩa sống
còn với các nước tham gia và có những vai trò to lớn, cụ thể là:
Thứ nhất: Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối và lưu
thông hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta
với sản xuất và tiêu dùng của các nước khác trên thế giới. Mà trong đó, phân
phối và lưu thông hàng hoá là một khâu quan trọng, có vai trò quyết định đến
quá trình tái sản xuất mở rộng. Do đó, sản xuất có phát triển được hay không,
phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào khâu này. Vì vậy, có thể nói
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
3
Chuyên đề tốt nghiệp
thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng tạo điều kiện thúc đẩy
sản xuất trong nước phát triển.
Thứ hai: Từ thực tế sản xuất trong nước và quốc tế, chúng ta có thể nhận
thấy được thế mạnh cũng như điểm yếu của mình qua đó sẽ phát triển sản
xuất những mặt hàng mà quốc gia mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt
hàng mà nước đó sản xuất hiệu quả hơn. Từ đó,chuyển đổi cơ cấu các nghành
kinh tế và phân công lại lao động xã hội cho phù hợp.
Thứ ba: Thông qua nhập khẩu, nước ta có thể tranh thủ khai thác các
tiềm năng, thế mạnh của các nước khác để thúc đẩy quá trình sản xuất xã

hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ và
sử dụng những hàng hoá tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hoặc sản xuất
không hiệu quả.
Thứ tư: Từ những hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá, các chủ thể
kinh doanh, các quốc gia thấy được lợi ích của việc hợp tác trong thương mại
quốc tế. Vì vậy, thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu hàng hoá nói
riêng góp phần thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế thế giới.
Thứ năm: Thông qua nhập khẩu hàng hoá cho phép quốc gia tiêu dùng
các mặt hàng với số lượng nhiều hơn, giá rẻ hơn và chủng loại phong phú
hơn, góp phần nâng cao khả năng tiêu dùng và mức sống của dân cư.
1.1.2.2. Vai trò của việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học.
Ngoài những vai trò chung kể trên, đối với riêng việc nhập khẩu mặt
hàng thiết bị tin học còn có những vai trò đáng kể sau:
Đối với quốc gia, việc nhập khẩu mặt hàng thiết bị tin học góp phần nâng
cao trình độ tin học cho toàn dân. Nhờ được tiếp xúc với những thiết bị tin
học những kiến thức về công nghệ thông tin được cập nhật, tránh sự lạc hậu
so với thế giới. Hơn nữa, sự có mặt của công nghệ thông tin đã tác động
không nhỏ đến tất cả các nghành, các lĩnh vực trong toàn nền kinh tế. Nhờ nó
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
4
Chuyên đề tốt nghiệp
mà các công việc được thực hiện nhanh hơn, chính xác hơn, từ đó tạo ra hiệu
quả trong sản xuất và trong các hoạt động khác.
Đối với doanh nghiệp nói chung, việc đưa công nghệ thông tin vào trong
hoạt động của mình góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của
quản lý, của sản xuất trong mỗi doanh nghiệp.
Đối với riêng các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh mặt hàng thiết bị tin
học thì việc nhập khẩu mặt hàng này là nguồn đầu vào quan trọng trong bối
cảnh thị trường nội địa chưa sản xuất được. Mặt khác, trong quá trình nhập
khẩu hàng hóa doanh nghiệp có thể giao lưu, học hỏi được những kiến thức

về quản lý, về công nghệ, … làm tăng hiệu quả trong làm việc.
Xuất phát từ những vai trò quan trọng nêu trên, việc nhập khẩu mặt hàng
công nghệ thông tin là cần thiết và cần chú trọng phát triển.
1.1.3. Các hình thức nhập khẩu.
1.1.3.1. Căn cứ vào chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu
a. Nhập khẩu trực tiếp.
Là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp nhập khẩu doanh
nghiệp tự tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy
đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng chính sách luật pháp
quốc gia cũng như quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp có những ưu điểm như:
- Doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro, tổn thất cũng như lợi nhuận thu
được. Do đó, để có hiệu quả cao đòi hỏi doanh nghiệp phải thận trọng trong
từng bước từ việc nghiên cứu thị trường cho đến khi bán hàng và thu tiền.
- Doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng với đối tác nước ngoài, còn các
hợp đồng liên quan đến khâu tiêu thụ thì có thể lập sau.
Hình thức này có ưu nhược điểm như :
*Về ưu điểm:
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
5
Chuyên đề tốt nghiệp
_Phương thức này cho phép người nhập khẩu mua được với giá cả thấp
nhất vì trực tiếp mua hàng mà không phải trả chi phí trung gian.
_Nhập khẩu trực tiếp tạo cho nhà nhập khẩu cơ hội quan hệ tốt với nhà
cung cấp thông qua các giao dịch. Đồng thời, qua đó hai bên có thể giao lưu,
hiểu biết lẫn nhau cũng như tiếp thu được những quy trình công nghệ và
những kinh nghiệm quản lý tiên tiến để áp dụng cho công ty mình.
Bên cạnh đó, việc nhập khẩu trực tiếp hàng hoá cũng giúp cho doanh
nghiệp có được nguồn hàng tin cậy, nguồn gốc rõ ràng và không phải phụ
thuộc vào các trung gian thương mại.

*Về nhược điểm .
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, nhập khẩu bằng phương thức trực tiếp
cũng tồn tại những hạn chế, như:
Chi phí cho những việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường quốc tế cao, thời
gian tìm hiểu lâu cho nên trong trường hợp mua không thường xuyên, số
lượng ít, cần đáp ứng ngay thì không nên sử dụng phương thức này.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu trực tiếp đòi hỏi có những cán bộ
nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: Giỏi về giao dịch đàm phán, am
hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán
quốc tế thông thạo, có như vậy mới bảo đảm kinh doanh nhập khẩu trực tiếp
có hiệu quả.
b. Nhập khẩu liên doanh.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện
giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực
tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp
có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo
hướng có lợi cho các bên tham gia, lãi cùng hưởng rủi ro cùng chịu.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những ưu điểm như:
- Các bên tham gia chỉ phải góp một phần vốn nhất định và tỷ lệ phân
chia lãi lỗ phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp giữa các bên.
- Doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được kim ngạch nhập khẩu, nhưng
khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số bán hàng trên số hàng theo tỷ
lệ vốn góp và chịu thuế trên doanh số đó. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu
phải lập hai hợp đồng:
+ Một hợp đồng với đối tác nước ngoài.
+ Một hợp đồng với đối tác liên doanh.
c. Nhập khẩu uỷ thác.

Trong giao dịch quốc tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham
gia một cách trực tiếp do nhiều yếu tố khác nhau, trong khi đó họ lại muốn
được giao dịch. Từ nhu cầu đấy hình thành nên phương thức nhập khẩu uỷ
thác. Đó là phương thức mà doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có
chức năng giao dịch trực tiếp tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên
nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục
nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi
là phí uỷ thác.
Hoạt động nhập khẩu ủy thác có những ưu điểm như:
- Doanh nghiệp nhập khẩu (doanh nghiệp nhận uỷ thác) không phải bỏ
vốn, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu mà chỉ đứng
ra làm đại diện cho bên uỷ thác giao dịch, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập
khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại, bồi thường với bên
nước ngoài khi có tổn thất.
- Doanh nghiệp được uỷ thác nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch nhập
khẩu chứ không được tính doanh số, doanh thu. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp phải lập hai hợp đồng:
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
7
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Hợp đồng mua bán hàng hoá với người nước ngoài
+ Hợp đồng uỷ thác với bên uỷ thác
1.1.3.2 Căn cứ vào cách thức tiến hành
a. Buôn bán đối lưu.
Là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, phương tiện thanh toán
trong hợp đồng này không phải là tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích nhập
khẩu ở đây không phải chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để
xuất khẩu được hàng và thu lợi từ hoạt động xuất khẩu nữa.
Hiện nay, phương thức buôn bán đối lưu chiếm khoảng 24% kim nghạch
buôn bán toàn cầu với 6 hình thức buôn bán chủ yếu, như:

Hàng đổi hàng (Barter):
Là việc hai bên trao đổi với nhau những hàng hóa có giá trị tương đương,
việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời.
Trao đổi bù trừ (Compensation)
Trong nghiệp vụ bù trừ (Compensation) hai bên trao đổi hàng hóa với
nhau trên cơ sở giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sánh, đối
chiếu giữa trị giá hàng giao với trị giá hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền
hàng như thế mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu
của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên chủ nợ tại nước bị nợ.
Mua đối ứng (counter – purchase): Hai bên ký kết với nhau hai hợp
đồng mua hàng của nhau, cân bằng tổng số tiền của từng hợp đồng. Hợp đồng
mua thanh toán bằng hợp đồng bán.
Chuyển giao nghĩa vụ: Tức là bên nhập khẩu sẽ chuyển nghĩa vụ thanh
toán tiền hàng cho bên thứ ba.
Giao dịch bồi hoàn: Hình thức này được tiến hành giữa hai bên trong đó
bên nhập khẩu hàng hoá chủ yếu là máy móc thiết bị và thanh toán cho bên
kia bằng cách dành cho bên kia những ưu đãi như: Đầu tư, hợp tác hoặc giúp
đỡ bán hàng.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Nghiệp vụ mua lại (buying back): một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc
sáng chế, hoặc bí quyết kỹ thuật sản xuất (know-how) cho bên kia và cam kết
mua lại sản phẩm do thiết bị hoặc know-how làm ra.
Tuy nhiên, dù tiến hành theo hình thức nào cũng phải tôn trọng nguyên
tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện như sau:
Thứ nhất là cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy hàng quý, mặt
hàng thừa ế đổi lấy mặt hàng thừa ế.
Thứ hai là cân bằng về điều kiện giao dịch: Cùng giao FOB cảng đi
hoặc cùng giao CIF cảng đến.

Thứ ba là cân bằng về cơ sở giá cả: Cùng tính cao hơn hoặc thấp hơn giá
cả quốc tế.
Và cuối cùng là cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau.
b. Buôn bán tái xuất.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá không phải để tiêu thụ ở nội địa mà để
xuất sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này
không được qua chế biến ở nước tái xuất. Phương thức nhập khẩu này được
thực hiện thông qua 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất.
Hình thức này nhằm:
Mục đích là mua rẻ hàng hóa ở nước này bán đắt hàng hóa ở nước khác
và thu số ngoại tệ lớn hơn số vốn bỏ ban đầu. Giao dịch này luôn luôn thu hút
ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Buôn bán tái xuất có 2 hình thức:
Một là: Hình thức kinh doanh chuyển khẩu.
Chuyển khẩu là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho
một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt
Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
Hai là: Hình thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất”.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Kinh doanh tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua bán hàng hóa của
một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa
ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, rồi làm thủ
tục xuất khẩu mà không qua khâu chế biến.
Ở Việt Nam thời gian hàng hóa tạm nhập để tái xuất khẩu được lưu
chuyển là 60 ngày.
Khi sử dụng phương thức kinh doanh này doanh nghiệp thực hiện nghiệp
vụ tái xuất phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về thị trường và giá cả;
có nhiều bạn hàng ở nước ngoài để ráp nối mua bán giữa họ với nhau; có

những nhân viên giỏi về nghiệp vụ thanh toán.
c. Gia công quốc tế
Đâylà một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia
công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt
gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận thù
lao (gọi là phía gia công).
Đây là một trong những hình thức xuất khẩu đang trong bước phát triển
mạnh mẽ và được nhiều quốc gia chú trọng.
Đối với bên đặt gia công: Phương thức này giúp họ lợi dụng về giá rẻ về
nhân công của bên nước được gia công.
Đối với bên nhân gia công: Phương thức này giúp họ giải quyết công ăn
việc làm cho những lao động trong nước hoặc nhập được thiết bị hay công
nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc như
Nam Triều Tiên, Thái Lan, Singapor….
*Gia công quốc tế gồm các hình thức :
Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành dưới
hình thức sau đây:
_Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
10
Chuyên đề tốt nghiệp
gia cụng và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi sản phẩm và trả về phía
gia công.
_Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời
gian sản xuất, chế tạo sẽ mua thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở
hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.
Ngoài ra người ta cũng có thể áp dụng hình thức kết hợp trong đó bên
đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu chính cũn bên nhận gia công
cung cấp những nguyên vật liệu phụ.
Xét về giá cả gia công người ta có thể chia việc gia công thành hai hình

thức:
_ Hợp đồng thực chi, thực thanh (cost phis contract) trong đó bên nhận
gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của
mỡnh cộng với tiền thù lao gia công.
_Hợp đồng khoản trong đó ta xác định một giá trị định mức (target price)
cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phớ định mức và thự lao định mức. Dự chi
phí của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán
theo định mức đó.
Mối quan hệ giữa bờn nhận gia công và bên đặt gia công được xác định
bằng hợp đồng gia công. Hợp đồng gia công thường được quy định một số
điều khoản như thành phẩm, nguyên liệu, giá cả, thanh toán, giao nhận…
d. Một số phương thức nhập khẩu đặc biệt khác.
*Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa:
Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá là việc giao dịch được tiến hành ở
một thị trường đặc biệt, được tổ chức ở một nơi nhất định, hoạt động trong
một khoảng thời gian nhất định. Ở đó thông qua các môi giới của sở giao dịch
hàng hoá người ta mua bán những mặt hàng có khối lượng lớn, phẩm chất
tương đồng và được tiêu chuẩn hóa.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
11
Chuyên đề tốt nghiệp
*Đấu giá quốc tế.
Đấu giá quốc tế là phương thức bán hàng đặc biệt, được tổ chức công
khai ở một nơi nhất định. Tại đó, sau khi xem xét hàng hóa những người mua
sẽ tự do cạnh tranh trả giá và cuối cùng hàng hóa sẽ được bán cho người mua
trả giá cao nhất.
*Đấu thầu quốc tế
Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người
mua (tức người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (tức
người dự thầu) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của

người nào bán giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp cả với những điều
kiện đã nêu.
Phương thức đấu thầu được áp dụng tương đối phổ biến trong việc mua
sắm và thi công các công trình của Nhà nước, nhất là tại các nước đang phát
triển.
*Hội chợ triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và
ở một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng
bày hang hóa của mình va tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
*Thương mại điện tử
Thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử tiến hành các
hoạt động thương mại hay đúng hơn là việc trao đổi thông tin thương mại thông
qua các phương tiện kỹ thuật điện tử mà không cần phải in ra giấy bất cứ công
đoạn nào trong quá trình giao dịch.
1.2 . Quy trình nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
1.2.1. Xác định mặt hàng nhập khẩu
Mỗi doanh nghiệp có những nhiệm vụ chức năng khác nhau. Vì vậy tuỳ
thuộc vào chức năng pháp lý của từng doanh nghiệp mà doanh nghiệp cần
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
12
Chuyên đề tốt nghiệp
thực hiện nhiệm vụ kinh doanh về chủng loại hay mặt hàng nào. Từ đó lựa
chọn phương thức giao dịch nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại quốc tế
có nhiều phương thức giao dịch khác nhau để doanh nghiệp có nhiêù sự lựa
chọn phù hợp đó là :
a/ Giao dịch thông thường.
Là phương thức giao dịch đợc thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, ngời bán và
ngời mua trực tiếp quan hệ bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc qua th từ để bàn
bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.
b/ Giao dịch qua trung gian.

Trong hình thức giao dịch này có ngời thứ ba làm trung gian giữa ngời
bán và ngời mua.
c/ Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá.
Là một thị trờng đặc biệt tại đó thông qua những ngời môi giới do sở
giao dịch chỉ định.
d/ Giao dịch tại hội trợ triển lãm.
1.2.2. Điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu.
Thị trường có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của một
doanh nghiệp bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng
hoá và tiền tệ. Qua thị trường doanh nghiệp sẽ biết được lượng cung, cầu từ
đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh thích hợp. Nhiều doanh nghiệp nhờ năng
động, nắm bắt sự nhanh nhạy với thị trường mà việc kinh doanh thành đạt,
song cũng không ít doanh nghiệp vì khả năng hiểu biết thị trường hạn chế mà
dẫn đến phá sản. Do vậy, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng phải nắm vững các
yếu tố về thị trường, hiểu biết quy luật vận động của thị trường, từ đó phản
ứng kịp thời trước những thay đổi của thị trường. Nghiên cứu thị trường của
một doanh nghiệp nhập khẩu gồm :
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
13
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Nghiên cứu mặt hàng cần nhập khẩu
+ Nghiên cứu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
+ Nghiên cứu quan hệ cung cầu hàng hoá, sự biến động của chúng.
+ Nghiên cứu giá hàng hoá nhập khẩu.
+ Xác định mức giá thấp nhập khẩu đối với thị ttrờng có quan hệ giao dịch.
Trên cơ sở phân tích đúng đắn ảnh hưởng của nhân tố tới giá cả doanh
nghiệp sẽ nắm được xu hướng biến động của chúng, từ đó xác định mức giá
cho mặt hàng mà ta có kế hoạch nhập khẩu đối với thị trường ta sẽ giao dịch.
Nếu mặt hàng này thuộc về đối tượng giao dịch phổ biến hoặc có trung

tâm giao dịch trên thế giới thì phải tham khảo giá thị trường thế giới về mặt
hàng cần kinh doanh. Chú ý khi định giá cần tính đến yếu tố cước phí vận tải,
cũng có thể dựa vào chào hàng của hãng, dựa vào giá nhập khẩu của thời kỳ
trước, vào giá của lô hàng trước, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để tăng hay
giảm giá thành nhập khẩu khi giao dịch.
1.2.3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu.
a/ Sau khi chọn các bên tiến hành giao dịch đàm phán có kết quả phải đi
đến ký kết hợp đồng kinh tế .
Trước khi đàm phán ký kết hợp đồng doanh nghiệp phải đặt hàng của đối
tác cung cấp hàng nhập khẩu và dịch vụ, sau khi đặt hàng doanh nghiệp có thể
nhận được bản chào hàng hay thư trả lời của nhà cung cấp. Từ đây doanh
nghiệp có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết về giả cả, quy cách…
của hàng hoá nhập khẩu. Trong kinh doanh buôn bán quốc tế, các bên tham
gia giao dịch thường có phong tục tập quán, ngôn ngữ, tài chính tiền tệ…khác
nhau. Dẫn đến quyền lợi của các bên không thống nhất , trái ngược nhau, để
giải quyết những bất đồng này các bên tham gia đàm phán phảI trao đổi
thống nhất các quan điểm chung với nhau để có thể đi đến một hợp đồng
ngoại thương.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những doanh
nghiệp, tổ chức quốc tịch khác nhau trong đó một bên là bên bán (xuất khẩu)
có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua (nhập khẩu) một khối
lợng hàng hoá nhất định, bên nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền và nhận hàng.
b/ Những điều khoản cơ bản của một hợp đồng ngoại thương.
Nội dung của một bản hợp đồng theo nguyên tắc tự do ký kết của hai bên
quyết định sao cho phù hợp với quyền lợi của cả hai bên và đúng pháp luật.
Nhưng việc ký kết hợp đồng kinh tế ngoại thương thường gặp khó khăn do
các chủ thể hợp đồng thường không có sự tương đồng về văn hoá, ngôn ngữ,

phong tục tập quán, Vì vậy, để tránh tranh chấp có thể xảy ra thì nội dung
hợp đồng xuất nhập khẩu cần phải có một số điều căn bản sau:
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng:
+ Điều khoản tên hàng
+ Điều khoản chất lượng
+ Điều khoản số lượng:
+ Điều khoản trọng lượng của hàng hoá
- Điều khoản về giá cả hàng hoá
+ Đồng tiền tính giá
+ Mức giá
+ Phương pháp quy định giá: Tuỳ theo thoả thuận trong hợp đồng.
- Điều khoản giao hàng.
Nội dung cơ bản là xác định thời hạn, thời điểm, phương thức và việc
thông báo giao hàng.
+ Trong hợp đồng cần ghi rõ thời hạn giao hàng:
+ Điểm giao hàng
+ Phơng thức giao hàng
+ Thông báo giao hàng
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Điều khoản về thanh toán trả tiền.
+ Đồng tiền thanh toán
+ Thời hạn thanh toán
+ Phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức trả tiền nhưng trong
thanh toán quốc tế chủ yếu dùng hai phương thức sau:
* Phương thức nhờ thu
* Phương thức tín dụng chứng từ
c/ Phương thức ký hợp đồng.
* Có nhiều cách ký kết hợp đồng đó là:

- Hai bên ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản).
- Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đồng ý với các điều
khoản của một chủ chào hàng tự do. Nếu người mua viết đúng thủ tục cần
thiết và gửi đúng trong thời hạn quy định cho người bán.
- Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua.
Trong trường hợp này hợp đồng thể hiện bằng hai văn bản: đơn đặt hàng của
người mua và văn bản xác nhận của người bán.
- Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được thoả thuận giữa các bên (nêu rõ
các thoả thuận đã thoả thuận).
1.2.4. Thực hiện hợp đồng .
Sau khi hợp đồng được ký kết tức là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên
được xác lập, các bên cần phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Bên nhập khẩu
cần phải xắp xếp các việc phải làm và ghi thành biểu bảng theo dõi tiến độ
thực hiện hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng rất phức tạp đòi hỏi các
bên tham gia phải tuân thủ luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo
quyền lợi của quốc gia và uy tín của doanh nghiệp.
Trình tự các bước thực hiện hợp đồng gồm có:
+ Xin giấy phép nhập khẩu.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
16
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Mở thư tín dụng L/C (Nếu thanh toán bằng L/C ).
+ Thuê tàu.
+ Mua bảo hiểm.
+ Làm thủ tục hải quan.
+ Nhận hàng, kiểm tra hàng hoá.
+ Thanh toán.
+ Giải quyết tranh chấp nếu có.
a/ Xin giấy phép nhập khẩu:
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng của Nhà nước nhằm

quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu. Sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh
nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu để được thực hiện hợp đồng đó. Giấy
phép này do Bộ Thơng mại cấp. Để được cấp giấy phép doanh nghiệp xuất
nhập khẩu phải có điều kiện:
- Hoạt động theo đúng ngành nghề mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh
- Thực hiện đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của luật
pháp hiện hành.
- Doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu tính bằng đồng Việt Nam
tương đương với 200.000 USD tới thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập
khẩu.
- Doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu phải có
nghĩa vụ nộp lệ phí và sử dụng lệ phí do Bộ Tài chính và Bộ Thơng mại quy
định.
- Hiện nay chính phủ có quyết định, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu phải làm bộ hố sơ bao gồm những văn bản sau:
+ Đơn xin nhập khẩu.
+ Phiếu hạn nghạch.
+ Bản sao của hợp đồng được ký.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
17
Chuyên đề tốt nghiệp
b/ Mở thư tín dụng L/C.
Nếu hợp đồng quy định phải thanh toán bằng phương thức thư tín dụng
chứng từ thì bên mua phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo của bên bán.
Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời hạn giao hàng. Để cho chặt chẽ,
hợp đồng thường quy định cụ thể ngày giao hàng và ngày mở L/C. Nếu hợp
đồng quy định không cụ thể thường thời gian này là khoảng 15 - 20 ngày tr-
ước khi đến thời hạn giao hàng. Cơ sở để mở L/C là các điều khoản trong hợp
đồng. Đơn vị hợp đồng dựa vào cơ sở đó làm đơn xin mở L/C theo mẫu của
ngân hàng.

c/ Thuê tàu chở hàng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng việc ai thuê tàu, thuê tàu theo hình
thức nào dựa vào ba căn cứ: điều khoản hợp đồng, đặc điểm hàng hoá, điều
kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải
thuê tàu chở hàng, còn nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên nhập
khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về người bán.
Tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn
phương thức thuê tàu phù hợp: tàu chuyến, tàu chợ hay tàu bao. Nếu nhập
khẩu thường xuyên với khối lợng lớn thì nên thuê bao, nhập khẩu không th-
ường xuyên nhưng khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến,còn nếu nhập khẩu
với khối lượng nhỏ thì thuê tàu chợ.
d/ Mua bảo hiểm hàng hoá.
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, mát mát. Để hạn
chế mọi tổn thất có thể xảy ra thì bảo hiểm hàng hoá đường biển ra đời là loại
bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp
đồng bảo hiểm bao, hợp đồng bảo hiểm chuyến. Đối với bảo hiểm bao, doanh
nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu năm. Mỗi khi giao hàng xuống để vận chuyển
chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo một văn bản gọi là: “Giấy
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
18
Chuyên đề tốt nghiệp
báo bắt đầu vận chuyển”. Đối với bảo hiểm chuyến, doanh nghiệp gửi đến
công ty bảo hiểm một băn bản gọi là: “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở
giấy yêu cầu này doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp
đồng bảo hiểm với nhau.
Bên cạnh hình thức bảo hiểm, doanh nghiệp cần lựa chọn điều kiện bảo
hiểm: Có ba loại điều kiện
+ Điều kiện A bảo hiểm mọi rủi ro có thể xảy ra, với phí xuất 0,5%.
+ Điều kiện B bảo hiểm tổn thất, phí xuất 0,34% - 0,36%.
+ Điều kiện C bảo hiểm miễn tổn thất riêng, phi xuất 0,25% -0,28%.

e/ Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá đi qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm các thủ
tục của hải quan. Thủ tục hải quan gồm 3 bước sau:
+ Khai báo hải quan: Doanh nghiệp phải khai báo chi tiết về hàng hoá
xuất nhập khẩu lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ
khai phải đi kèm cùng một số chứng từ khác: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn,
phiếu đóng gói, bản kê khai chi tiết, vận đơn,
+ Xuất trình hàng hoá: Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy
cần thiết, hàng hoá nhập khẩu phải được xắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc
kiểm tra. Chủ hàng chịu chi phí nhân công về việc mở và đóng các kiện hàng.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan: Sau khi kiểm tra các giấy tờ
liên quan và hàng hoá, hải quan ra quyết định: Cho hàng được phép qua biên
giới (thông quan) hoặc cho hàng qua với một số điều kiện kèm theo hoặc
hàng không được nhận, Chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định
của hải quan.
f/ Nhận hàng, kiểm tra hàng:
Để nhận được hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về doanh nghiệp nhập
khẩu phải làm các công việc sau:
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Ký kết hợp đồng với cơ quan vận tải về việc giao hàng.
- Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu
từng tháng, từng quý, từng năm, cơ cấu hàng hoá, lịch tàu, vận chuyển, giao
nhận.
- Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng như vận đơn, lệnh
giao hàng, nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải.
- Theo dõi việc giao nhận và giải quyết trong phạm vi của mình những
vấn đề xảy ra trong việc giao nhận.
- Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc

xếp, bảo quản, vận chuyển hàng hoá nhập khẩu.
- Thông báo cho doanh nghiệp đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá.
- Chuyển hàng hoá về kho hàng của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp
cho các đơn vị đặt hàng.
- Kiểm tra hàng hoá: Hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được
kiểm tra chặt chẽ , trách các sai sót. Mỗi cơ quan chứ năng tiến hành kiểm tra
đúng quyền hạn của mình. Nếu phát hiện ra các dấu hiệu không bình thường
thì mời bên giám định đến lập biên bản. Cơ quan giao thông kiểm tra niêm
phong, kẹp chì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị nhập
khẩu có tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng
hoá và lập thư dự kháng nếu thấy nghi ngờ hoặc hàng hoá bị tổn thất, thiếu
hụt hoặc không đúng hợp đồng.
g/ Thanh toán.
Thanh toán là khâu quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế. Vì
đặc điểm buôn bán với nước ngoài phức tạp nên thanh toán trong thương mại
quốc tế phải thật thận trọng tránh xảy ra tổn thất. Có nhiều phương thức thanh
toán : phương thức nhờ thu, Thư tín dụng (L/C), chuyển tiền, Thực hiện
theo phương thức như thế nào phải quy định cụ thể trong hợp đồng. Doanh
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
20
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp phải tiến hành thanh toán theo đúng điều kiện quy định trong hợp
đồng đã ký kết.
h/ Giải quyết tranh chấp:
Trong thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện
hàng nhập khẩu bị mất mát, thiếu hụt, hư hỏng,… thì lập hồ sơ khiếu nại. Đối
tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận chuyển, tuỳ theo tính chất của
thiệt hại. Bên nhập khẩu chỉ viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại
trong các điều khoản quy định. Đơn khiếu nại phải có bằng chứng về sự tổn
thất gồm: biên bản giám định, vận đơn đường biển, hoá đơn, đơn bảo hiểm

(nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm),
Dựa vào nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có
các cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn kiện
gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế để giải quyết.
1.2.5. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu.
Sau khi nhập hàng về nước, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng
hoặc tổ chức bán hàng trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần
tiến hành tiêu thụ hàng hoá sao cho hiệu quả và đem lại lợi nhuận cao nhất
cho doanh nghiệp. Đây là khâu cuối cùng nhưng nó có vai trò hết sức quan
trọng trong kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp nhập khẩu. Vì vậy
doanh nghiệp cần phải:
- Nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường trong nước và tâm lý khách hàng
trong việc mua hàng hoá nhất là đối với hàng hóa mà doanh nghiệp kinh
doanh.
- Xác đinh các kênh phân phối hàng hoá và các hình thức bán hàng phù
hợp đạt hiệu quả cao.
- Tiến hành quảng cáo hàng hoá và xúc tiến hoạt động bán hàng.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
21
Chuyên đề tốt nghiệp
- Xác định mức giá cụ thể dựa trên cơ sở cung cầu thị trường trong nước
và chi phí của doanh nghiệp bỏ ra.
- Tổ chức, đào tạo nhân sự của doanh nghiệp về nghiệp vụ bán hàng cụ
thể tại các cửa hàng.
- Chấp hành những quy định của phấp luật nhà nước ban hành.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu trang thiết bị công nghệ thông tin là
liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực trong thương mại quốc tế. Do
đó, những thay đổi trong cơ chế, chính sách, pháp luật của các quốc gia có
liên quan và luật pháp quốc tế, đều tác động mạnh tới hoạt động xuất nhập

khẩu hàng hoá của DHA. Vì vậy để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của
công ty diễn ra một cách thuận lợi thì các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu
các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh.
1.3.1. Nhân tố về chính sách, luật pháp trong nước và quốc tế.
Trong kinh doanh quốc tế ,các hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt
động đa dạng và phức tạp, nó phải chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật khác
nhau: luật quốc tế, luật nước nhập khẩu, luật nước xuất khẩu, luật của nước
thứ ba,…. Hệ thống luật pháp này tạo hành lang bảo vệ quyền lợi của các bên
khi tham gia vào thương mại quốc tế. Và để hoạt động một cách có hiệu quả,
đương nhiên các doanh nghiệp nhập khẩu cần nắm vững được hệ thống luật
pháp, phong tục tập quán trong nước cũng như quốc tế và cả luật pháp của
nước có liên quan.
1.3.2. Sự thay đổi của thị trường trong nước và nước ngoài.
Chúng ta biết rằng cung cầu là yếu tố quan trọng bậc nhất đối với các
nhà kinh doanh. Sự thay đổi cung - cầu trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới
khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Việc làm của các doanh nghiệp là
xác định được lượng cung và cầu hiện tại, đồng thời cần phải dự báo được
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
22
Chuyên đề tốt nghiệp
những xu hướng thay đổi của nó trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Với các
doanh nghiệp nhập khẩu, việc làm này không chỉ dừng lại ở thị trường nội địa
mà phải trên các thị trường khác và cả thị trường quốc tế. Đặc biệt với các
doanh nghiệp vừa nhập khẩu thành phẩm vừa nhập khẩu bán thành phẩm và
nguyên liệu như Công ty XNK và kỹ thuật bao bì thì hoạt động của họ còn
phải chịu chi phối của nền sản xuất và từng thời kỳ phát triển của đất nước.
1. 3.3 Chính sách quản lý vĩ mô và quan hệ kinh tế quốc tế của Nhà
nước.
Ngoài hệ thống luật pháp, tuỳ từng thời kỳ phát triển của đất nước mà
chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô quản lí hoạt động nhập khẩu. Các

chính sách mà các chính phủ thường đưa ra và tác động trực tiếp tới hoạt
động nhập khẩu là việc dựng nên các hàng rào nhằm bảo hộ nền sản xuất còn
yếu sức cạnh tranh trong nước. Các công cụ mà thường sử dụng là công cụ
thuế quan và công cụ phi thuế quan (hạn nghạch, giấy phép nhập khẩu, biện
pháp quản lí ngoại tệ và các tiêu chuẩn địa phương).
a/ Chính sách tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới hoạt động nhập khẩu vì nó là cơ sở
để so sánh giá cả của hàng hoá trong nước với thế giới, đồng thời phục vụ cho
sự vận động của tiền tệ và hàng hoá giữa các quốc gia, các doanh nghiệp nhập
khẩu theo dõi và căn cứ vào tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ để
đẩy mạnh hay hạn chế hoạt động của mình. Khi đồng nội tệ bị mất giá thì
hoạt động nhập khẩu là không có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả
nhiều tiền hơn cho một đơn vị hàng hoá và ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá
thì hoạt động nhập khẩu là có lợi và so với trước doanh nghiệp phải trả ít tiền
hơn cho một đơn vị hàng hoá. Sự điều tiết tỷ giá của Nhà nước: cố định, thả
nổi, hay thả nổi có quản lý vì thế có tác động rất mạnh tới hoạt động của
doanh nghiệp.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
23
Chuyên đề tốt nghiệp
b/ Quan hệ kinh tế quốc tế.
Các quan hệ này có tác động tương hỗ tới hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thấy
thuận lợi hơn trong suốt quá trình giao dịch nếu đối tác là một nước láng
giềng, trong cùng một khu vực hay cùng một khối. Họ cũng cảm thấy dễ chịu
hơn khi các chính phủ dành cho nhau quy chế đặc biệt (quy chế tối huệ quốc,
cho hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan, ) và đến lượt nó, nhập khẩu lại củng
cố mối quan hệ ấy giữa các quốc gia.
1.3.4 Các nhân tố khác.
a/ Cơ sở hạ tầng.

Hoạt động nhập khẩu diễn ra có thuận lợi hay không phụ thuộc nhiều vào
điều kiện cơ sở hạ tầng của một quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm có: Hệ
thống giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc và hệ
thống tài chính ngân hàng. Một nước có cơ sở hạ tầng phát triển là cơ sở để
phát triển các hoạt động nhập khẩu bởi cùng với sự phát triển của cơ sở hạ
tầng là việc giảm thiểu các chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động
kinh doanh của mình.
b/ Hoạt động xuất khẩu của quốc gia.
Tuy là một mặt đối lập, song xuất khẩu lại có tác động to lớn và trực tiếp
tới hoạt động nhập khẩu. Đó là cỗ máy chính tạo nguồn ngoại tệ an toàn phục
vụ cho hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguồn
nguyên liệu nhằm nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên thiên nhiên khai thác
của nội địa phục vụ cho các đơn vị sản xuất thì điều này càng có ý nghĩa hơn.
Xuất khẩu được đồng nghĩa với việc thị trường được mở rộng, tiêu thụ được
nhiều hơn nên sản xuất phát triển và lại càng nhiều nguyên liệu hơn. Thực tế
phát triển kinh tế của nhiều nước như: Nhật Bản, Singapore, đã chứng minh
rằng nhập khẩu chỉ phát triển khi xuất khẩu phát triển và ngược lại.
SV: Phạm Thị Bích Ngà Lớp: 10CKN
24

×