Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Hoàn thiện quản lý tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.17 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
3.2.5 Tăng cường và áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính có tính chất đòn bẩy thúc đẩy
tiêu thụ sản phẩm 50
PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới ngày nay đang phát triển mạnh mẽ cả về chiều dọc và chiều sâu,
các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Sự biến động
của thế giới là không thể lường hết được, doanh nghiệp chỉ có thể nghiên cứu
để dự báo trước một phần nào để hạn chế rủi ro. Mỗi doanh nghiệp gặp những
khó khăn khác nhau trong mỗi giai đoạn và cách tìm phương hướng giải quyết
cũng khác nhau. Lợi dụng được những thuận lợi, hạn chế rủi ro, khắc phục
được khó khăn, nắm bắt được xu hướng chung sẽ làm cho doanh nghiệp phát
triển mạnh và bền vững. Để làm được như vậy doanh nghiệp cần nghiên cứu
một cách bài bản về doanh nghiệp mình, về những yếu tố tác động đến doanh
nghiệp và nhìn nhận, đánh giá thẳng thắn để rút ra bài học. Bất kì một doanh
nghiệp nào ra đời và hoạt động thì trên từng giai đoạn phát triển luôn có
những khó khăn và thách thức cũng như quy luật cạnh tranh của thị trường
chi phối. Doanh nghiệp luôn phải nỗ lực để tồn tại và khẳng định. Không chỉ
là những chỉ tiêu về lợi nhuận, doanh thu, những con số …mà còn là vì danh
dự và uy tín, thương hiệu của công ty trên thương trường. vì vậy sản xuất mặt
hàng gì, năng lực đến đâu, các khâu tiêu thụ như thế nào để đưa sản phẩm đến
tay người tiêu dùng …là các bước của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Đây được
coi như khâu cuối trong quá trình sản xuất hàng hóa của doanh nghiêp nên bất
cứ doanh nghiệp nào cũng không thể thiếu chú trọng trong việc quản lý đối
với hoạt động này. Bởi vì trong quá trình sản xuất nếu có sai sót doanh nghiệp
có thể sửa chữa nhưng một khi đã xác định kênh phân phối, sản phẩm được
đưa đến tay người tiêu dùng thì một lỗi nhỏ cũng sẽ rất khó hay đúng hơn là
không thể thay đổi được nữa, hơn nữa, điều đó còn làm mất đi uy tín và
thương hiệu của doanh nghiệp trong con mắt của đối tác và khách hàng. Từ
thực tế trên em xin chọn đề tài “ Hoàn thiện quản lý tiêu thụ sản phẩm tại
công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh”. Công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh đã
hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần được một giai đoạn khá lâu, đã có


được một thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng khắp tuy nhiên để ngày càng lớn
mạnh và thành công thì công ty còn phải khắc phục rất nhiều khó khăn hiện
tại đặc biệt cần chú trọng hơn nữa trong công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm.
1
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những kết quả trong những năm qua
của công ty, em xin nêu ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công
tác tiêu thụ sản phẩm tại công ty cũng như một số kiến nghị đối với nhà nước,
ban lãnh đạo công ty cũng như các đơn vị liên quan tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm, tạo cho công ty phát triển trong thời
kì hội nhập và nền kinh tế còn thị trường cạnh tranh mạnh mẽ.
Chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về tiêu thụ sản phẩm và quản lý tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng và đánh gía quản lý tiêu thụ sản phẩm tại
công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh
Chương III: Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện quản lý tiêu thụ
sản phẩm tại công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh
Em xin chân thành cám ơn cô giáo hướng dẫn- PGS.TS Nguyễn Thị
Ngọc Huyền, các cô, chú, anh, chị trong công ty và các bạn đã giúp đỡ em
thực hiện chuyên đề này. Mặc dù đã cố gắng nhưng do trình độ và điều kiện
còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót trong bài làm, em mong
nhận được sự góp ý, giúp đỡ từ cô giáo hướng dẫn và các bạn.
2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ
QUẢN LÝ TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Hoạt động tiêu thụ sản phẩm:
1.1.1 Khái niệm hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động có vai trò quan trọng trong việc quyết
định sự thành bại của một doanh nghiệp, để quá trình sản xuất diễn ra một
cách liên tục thì các doanh nghiệp phải tiêu thụ được sản phẩm của mình đã

sản xuất ra. Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện mục đích của sản xuất hàng
hoá là sản phẩm sản xuất để bán và thu lợi nhuận. Khác với thời kì sơ khai
của loài người sản xuất hàng hóa theo hình thức tự cung tự cấp thì ngày nay,
với việc phát triển của khoa học kĩ thuật và tri thức của con người, hoạt động
tiêu thụ sản phẩm đưa sản phẩm đến tay những người cần nó theo cách có hệ
thống nhất là sự kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Doanh
nghiệp không còn bán những gì mình có mà là bán những gì thị trường cần.
Tiêu thụ sản phẩm còn là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã
hội, đóng vai trò quan trọng để lưu thông hàng hóa trên thị trường. Để nghiên
cứu về tiêu thụ sản phẩm và quản lý tiêu thụ sản phẩm cần xác định được khái
niệm đầy đủ và toàn diện nhất về tiêu thụ sản phẩm
Theo quan điểm của quản trị kinh doanh truyền thống tiêu thụ là hoạt
động đi sau sản xuất, chỉ được thực hiện sau khi đã sản xuất ra sản phẩm.
Theo nghĩa hẹp, quá trình tiêu thụ sản phẩm gắn liền với sự thanh toán
giữa người mua và người bán và sự chuyển quyền sở hữu hàng hoá.
Theo nghĩa rộng thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu từ việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường, xác định nhu cầu khách
hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến
bán hàng và cả những dịch vụ sau bán hàng… nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, khái niệm tiêu thụ sản phẩm theo nghĩa rộng là khái niệm đầy đủ,
đề cập đến tất cả những hoạt động cần thiết cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm
đảm bảo cho việc nghiên cứu và thực hiện tiêu thụ sản phẩm được toàn diện.
3
1.1.2 Các hình thức tiêu thụ sản phẩm
Có 2 hình thức chính để tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đó là tiêu
thụ gửi bán hay tiêu thụ trực tiếp
Tiêu thụ gửi bán là hình thức là tiêu thụ sản phẩm mà nhà sản xuất không
trực tiếp giao hàng cho người mua
Tiêu thụ trực tiếp là hình thức tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp trực
tiếp giao sản phẩm cho khách hàng

1.1.3 Các tiêu chí đánh giá tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.3.1 Danh mục và số lượng các loại sản phẩm
Danh mục các loại sản phẩm cho biết trong thời kì nào đó khách hàng có
nhu cầu đối với loại sản phẩm nào và doanh nghiệp đã sản xuất những cái gì.
Khối lượng các loại sản phẩm cho biết mức độ tiêu dùng của khách hàng về
một loại sản phẩm nào đó hay doanh nghiệp đã đáp ứng được bao nhiêu trong
tổng nhu cầu đó. Đây là chỉ tiêu định lượng nhằm có được đánh giá khái quát
bước đầu về tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
1.1.3.2 Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Chi phí tiêu thụ sản phẩm là các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, là chi phí bán hàng hay chi phí lưu thông hàng
hóa gồm các khoản sau
- Chi phí nhân viên bán hàng: các khoản tiền lương phải trả cho nhân
viên bán hàng, nhân viên đóng gói, bảo quản sản phẩm, hàng hóa, nhân viên
vận chuyển hàng đi tiêu thụ và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, kinh phí công đoàn
- Chi phí vật liệu bao bì phục vụ cho việc đóng gói sản phẩm, bảo quản
sản phẩm, chi phí nhiên liệu để vận chuyển sản phẩm, hàng hóa đi tiêu thụ,
chi phí phụ tùng thay thế sửa chữa TSCĐ cho bộ phận bán hàng.
- Chi phí dụng cụ, đồ dùng phục vụ cho bộ phận bán hàng như các dụng
cụ đo lường, bàn ghế, máy tính cá nhân …
- Chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho bộ phận bán hàng như: chi phí
điện, nước, điện thoại, chi phí sửa chữa TSCĐ, tiền thuê kho bãi, tiền thuê
bốc vác vận chuyển hàng hóa đi tiêu thụ, chi phí hoa hồng phải trả cho đại lý
các đơn vị nhận ủy thác xuất khẩu ….
4
- Chi phí khác bằng tiền đã chi ra để phục vụ cho hoạt động bán hàng
như: chi phí giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, chi phí chào hàng, quảng cáo, chi
phí tiếp khách cho bộ phận bán hàng, chi phí tổ chức hội nghị khách hàng, chi
phí bảo hành sản phẩm…

1.1.3.3 Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền thu được do tiêu thụ sản
phẩm, cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính và các hoạt động khác của doanh
nghiệp. Trong kinh tế học, doanh thu thường được xác định bằng giá bán
nhân với khối lượng sản phẩm tiêu thụ.
DT = ∑Qi*Pi
Trong đó: DT: Doanh thu tiêu thụ
Qi: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Pi: Giá bán đơn vị sản phẩm.
Khi tiêu thụ hàng hóa Doanh nghiệp sẽ có một khoản thu nhập bán hàng
sau khi trừ đi các khoản: giảm giá hàng bán, thuế gián thu gọi là doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu tiêu thụ của Doanh nghiệp còn được tính bao
gồm cả các khoản trợ giá, phụ giá… được hưởng theo pháp luật.
1.1.3.3 Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm
Lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm là khoản tiền mà doanh nghiệp nhận được
sau khi lấy doanh thu trừ đi chi phí. Đối với một doanh nghiệp sản xuất thì lợi
nhuận từ tiêu thụ sản phẩm là chủ yếu do vậy trong những trường hợp cụ thể
doanh nghiệp cần cố gắng giảm thiểu chi phí và thúc đẩy tăng doanh thu tiêu
thụ sản phẩm từ đó tăng lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm
1.2 Quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm quản lý tiêu thụ sản phẩm tại doanh nghiệp
Quản lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là quá trình lập kế hoạch,
xây dựng kênh phân phối, tổ chức thực thi hoạt động tiêu thụ sản phẩm qua
thị trường, lãnh đạo và kiểm tra hoạt động tiêu thụ sản phẩm bằng cách vận
dụng các quy luật như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật
cạnh tranh, quy luật cung cầu và các quy luật tâm lý…
1.2.2 Mục tiêu quản lý tiêu thụ sản phẩm
5
Mục tiêu của quản lý tiêu thụ sản phẩm là đưa ra các quyết định về tiêu
thụ sản phẩm từ đó tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu

chung của toàn doanh nghiệp.
1.2.3 Nội dung quản lý tiêu thụ sản phẩm
1.2.3.1 Nghiên cứu và dự báo
Mục tiêu của nghiên cứu và dự báo là xác định được thị trường ưu tiên
và thị trường tiềm năng. Là khâu đầu tiên trong quá trình kinh doanh nói
chung và quản lý tiêu thụ sản phẩm nói riêng, đó là việc tìm kiếm và khai thác
cơ hội kinh doanh trên thị trường. Nếu xác định thị trường quá hẹp sẽ làm cho
công ty bỏ lỡ cơ hội kinh doanh còn nếu xác định thị trường quá rộng sẽ làm
cho các nỗ lực và tiềm năng của công ty bị lãng phí làm cho sản xuất kinh
doanh kém hiệu quả. Doanh nghiệp phải cố gắng thu thập được những thông
tin về đối thủ cạnh tranh, về khách hàng và về sản phẩm của mình trên thị
trường, tiến hành phân tích và từ đó có chiến lược phù hợp. Khách hàng mang
lại doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp vì vậy doanh nghiệp phải thỏa
mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Việc thỏa mãn nhu cầu
khách hàng là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp . Do vậy doanh nghiệp
phải công việc nghiên cứu thị trường và nhu cầu khách hàng là việc đầu tiên
phải thực hiện khi đưa ra các quyết định kinh doanh.(1)Ngoài việc nghiên cứu
về thị trường đầu ra, doanh nghiệp còn phải tiến hành nghiên cứu thị trường
đầu vào của sản phẩm để hoạt động này được hoàn chỉnh tạo để hoạt động sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao
1.2.3.2 Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Lập kế hoạch nói chung là quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn
các phương thức để đạt được mục tiêu đó. Lập kế hoạch là một quá trình quan
trọng bởi vì nếu không có kế hoạch nhà quản lý có thể không biết tổ chức và
khai thác con người và các nguồn lực khác của tổ chức một cách có hiệu quả,
thậm chí không có được một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức và khai
thác. Không có kế hoạch nhà quản lý và các nhân viên của họ rất ít có cơ hội
để đạt được mục tiêu của mình, không biết làm gì, khi nào và ở đâu. Lúc đó
việc kiểm tra sẽ trở nên rất phức tạp.(2)
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm do đó cũng rất quan trọng với nhà quản

lý và mỗi doanh nghiệp nhằm xác định mục tiêu của doanh nghiệp đối với
6
hoạt động tiêu thụ sản phẩm và các phương thúc để thực hiện tốt mục tiêu về
tiêu thụ sản phẩm đã được đề ra. Cụ thể lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là quá
trình mà doanh nghiệp xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh số tiêu
thụ sản phẩm, qui cách, mẫu mã và chủng loại sản phẩm từ đó thực hiện tổ
chức sản xuất và phân phối cho phù hợp. Lập kế hoạch giúp doanh nghiệp
thích ứng với những biến động diễn ra trong môi trường của mỗi tổ chức,
trong đó có cả những yếu tố bên trong và bên ngoài tổ chức hay thích ứng với
những yếu tố không chắc chắn bằng việc xác định các phương án hành động.
Chủ yếu của việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là xây dựng các chính sách
về giá và về sản phẩm.
a)Chính sách về giá:
Giá là chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có được sản phẩm hoặc dịch
vụ của nhà cung cấp, là một công cụ để bù đắp chi phí sản xuất nhằm đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Việc quy định mức giá bán cho
một sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gọi là chính sách giá.
Việc định giá sản phẩm là một quyết định quan trọng của doanh nghiệp vì giá
cả sản phẩm là một trong những công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp cạnh tranh
trên thị trường. Việc định giá của doanh nghiệp nhằm các mục tiêu như:
+ Định giá nhằm đảm bảo doanh thu định trước của doanh nghiệp.
+ Định giá nhằm mục tiêu doanh số bán hàng.
+ Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh.
+ Định giá nhằm đảm bảo tối đa hóa lợi nhuận.
Xác định giá cả cho sản phẩm hoàn chỉnh là một quá trình gồm 6 bước:
Bước 1: Doanh nghiệp xác định mục tiêu chiến lược hay mục tiêu
marketing của mình là đảm bảo sống sót, tối đa hóa lợi nhuận trước mắt, dành
vị trí dẫn đầu về thị phần hay chất lượng sản phẩm
Bước 2: Doanh nghiệp thể hiện cho mình đồ thị đường cầu thể hiện số
lượng hàng hóa chắc chắn sẽ bán được trên thị trường trong một khoảng thời

gian cụ thể theo các mức giá khác nhau.
Bước 3: Doanh nghiệp tính tổng chi phí của mình thay đổi như thế nào
khi mức sản xuất khác nhau.
7
Bước 4: Nghiên cứu mức giá của đối thủ cạnh tranh để làm căn cứ để xác
định giá cả hàng hóa cho hàng hóa của mình
Bước 5: Doanh nghiệp lựa chọn cho mình một trong những phương pháp
hình thành giá sau chi phí bình quân cộng lãi, phân tích điều kiện hoàn vốn và
đảm bảo lợi nhuận mục tiêu. Xác định giá dựa trên giá trị cảm nhận của hàng
hóa, dựa trên cơ sở giá hiện hành.
Bước 6: Doanh nghiệp quyết định giá cuối cùng cho hàng hóa dựa trên
sự chấp nhận về mặt tâm lý đối với sản phẩm đó và xem xét xem chính sách
giá đó có đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp và những nhà phân phối và
khách hàng có thể chấp nhận mức giá đó hay không.
b)Chính sách sản phẩm
Để có được chiến lược sản phẩm đúng đắn bên cạnh việc tìm hiểu các
nhu cầu về thị trường và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp thì doanh
nghiệp thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các chính sách sản phẩm. Chính
sách sản phẩm hợp lý thì mới nâng cao được hiệu quả kinh doanh, hạn chế rủi
ro tốt nhất. Chính sách sản phẩm là nền móng cho quá trình phát triển kinh
doanh bởi vì nếu chính sách sản phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc
chắn thì những hoạt động trên có thể bị thất bại.
Muốn có chính sách sản phẩm đúng đắn thì doanh nghiệp phải nghiên
cứu chu kỳ sống của sản phẩm hạn chế rủi ro trong kinh doanh và có chính
sách phù hợp cho sản phẩm trên mỗi thị trường. Chu kì sống thông thường
của sản phẩm trên thị trường có bốn giai đoạn: Thâm nhập, tăng trưởng, chín
muồi và suy thoái.
Nếu doanh nghiệp chỉ có một loại sản phẩm thì chu kì sống của sản phẩm
kết thúc thì chu kì sống của doanh nghiệp kết thúc vì vậy ngay ở giai đoạn
hưng thịnh phải có sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến, đa dạng hóa sản phẩm để

thay thế. Ngoài ra chu kì sống của bất kỳ sản phẩm nào cũng gắn với một thị
trường nhất định. Việc nghiên cứu chu kì sống của sản phẩm giúp doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiếp thị một cách có hiệu quả nhằm kéo dài
chu kỳ sống của sản phẩm, tăng lợi nhuận mà nó đem lại cho doanh nghiệp.
1.2.3.3 Xây dựng các kênh phân phối
Kênh phân phối là một tập hợp các mối quan hệ giữa các tổ chức và cá
8
nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau tham gia vào quá trình đưa hàng hóa từ
người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng(3). Kênh phân phối là con
đường mà qua đó sản phẩm hàng hóa được lưu thông từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng, nhờ đó mà khắc phục được những khoảng cách dài về thời
gian và địa điểm đảm bảo cho việc đến với người tiêu dùng với mức giá họ có
thể mua, đúng chủng loại họ cần và đúng thời gian, địa điểm mà họ yêu cầu.
Kênh phân phối đã trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng trong dài hạn
khi nó trở thành một phần tài sản của công ty. Nó giúp giảm bớt những khó
khăn khi đưa sản phẩm vào thị trường nâng cao uy tín và vị thế của Doanh
nghiệp và góp phần nâng cao giá trị của doanh nghiệp. Kênh phân phối tăng
cường khả năng liên kết và sự hợp tác giữa các lĩnh vực sản xuất, phân phối
tiêu thụ trong một mục đích chung, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho
người tiêu dùng cuối cùng đồng thời cũng tạo ra sự thỏa mãn những mục tiêu
riêng của mỗi bên.
Các kênh phân phối sản phẩm
Tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn kênh phân
phối thích hợp cho mình. Doanh nghiệp cần xác định sản phẩm và đặc tính
sản phẩm của đơn vị mình, xác định thị trường cần phân phối, đặc điểm thị
trường của đối thủ cạnh tranh.
- Kênh phân phối trực tiếp: Đây là loại kênh phân phối mà qua đó người
sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng không thông qua bất kỳ một
trung gian nào. Khi sử dụng loại kênh này lợi nhuận của doanh nghiệp không
Nơi

sản
xuất
Nơi
tiêu
dùng
Người
Bán lẻ
Người
Bán
buôn
Người
Bán lẻ
Người
Bán lẻ
Người
Bán
buôn
Trung
gian
9
bị chia sẻ cho các trung gian khác, mặt khác doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc
trực tiếp với khách hàng do vậy có thể nắm bắt chính xác nhu cầu của người
tiêu dùng cũng như sự thay đổi nhu cầu. Tuy nhiên loại kênh này chỉ thích
hợp với những đoạn thị trường nhỏ khách hàng tập trung về mặt địa lý. Còn
khi thị trường của doanh nghiệp trải dài trên một địa bàn rộng lớn thì việc sử
dụng loại kênh này gặp nhiều khó khăn do công ty phải duy trì một lượng lớn
nhân viên bán hàng
- Kênh phân phối gián tiếp: Đây là loại kênh mà giữa người sản xuất và
người tiêu dùng xuất hiện nhiều trung gian khác nhau làm nhiệm vụ đưa hàng
hoá từ người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Trong loại kênh này hàng hoá

của doanh nghiệp có thể được tiêu thụ với tốc độ nhanh hơn, khối lượng lớn
hơn, và sản phẩm được tiêu thụ trên một địa bàn rộng lớn hơn. Sử dụng loại
kênh này có thể làm giảm một phần lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia
sẻ với các trung gian khác. Đối với các trung gian doanh nghiệp có thể gặp
khó khăn trong việc kiểm soát hành vi của họ trong việc tiêu thụ sản phẩm do
họ là những tổ chức độc lập với doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp
có thể bị ảnh hưởng nếu giữa người tiêu dùng và các trung gian hoặc giữa
trung gian và người sản xuất xảy ra trục trặc. Khi sử dụng các trung gian
trong kênh phân phối, doanh nghiệp có thể giảm mức độ mạo hiểm khi
thâm nhập một thị trường mới do các trung gian là những người am hiểu về
khu vực thị trường mà họ phụ trách và họ đã xây dựng được một mạng lưới
phân phối.
Trong kênh gián tiếp người ta có thể chia ra làm các loại kênh có mức độ
dài ngắn khác nhau dựa vào số lượng các trung gian có trong kênh:
+ Kênh một cấp: Đây là loại kênh ngắn nhất trong các kênh gián tiếp.
Kênh này chỉ xuất hiện một loại trung gian trong quá trình phân phối sản
Người sản xuất Người tiêu dùng
Người sản xuất Các trung gian Người tiêu dùng
10
phẩm, đó có thể là người bán lẻ trong kênh tiêu dùng các nhân, có thể là
người phân phối công nghiệp hoặc đại lý trong kênh tiêu dùng công nghiệp.
+Kênh hai cấp: Trong kênh có thêm người bán buôn đối với kênh tiêu
dùng cá nhân, và có cả đại lý và người phân phối công nghiệp trong kênh tiêu
dùng công nghiệp. Đối với hàng hoá tiêu dùng cá nhân, kênh này thường
được dùng đối với những hàng hoá có giá trị đơn vị thấp và thường được mua
thường xuyên.
+Kênh ba cấp: Loại kênh này thường được sử dụng đối với những hàng
hoá và dịch vụ tiêu dùng cá nhân. Kênh này xuất hiện thêm người đại lý bên
cạnh người bán buôn và bán lẻ, kênh này được sử dụng khi có nhiều người
sản xuất nhỏ và nhiều người bán lẻ nhỏ, một đại lý được sử dụng để giúp phối

hợp cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn.
-Kênh hỗn hợp: Thực chất đây là kênh được tạo nên khi doanh nghiệp sử
dụng nhiều loại kênh cùng một lúc để phân phối một hoặc nhiều sản phẩm
trên một khu vực thị trường hoặc nhiều khu vực thị trường khác nhau.
1.2.3.4 Tổ chức hoạt động xúc tiến bán hàng
Xúc tiến bán hàng là tập hợp các biện pháp có thể làm khách hàng mua
ngay, mua nhiều hơn, tăng lượng bán ngay lập tức nhờ tạo ra được những lợi
ích vật chất hay tinh thần bổ sung cho người mua.(444 quản trị marketing).
Xúc tiến bán hàng là một trong bốn nhóm công cụ chủ yếu của
marketing- mix mà doanh nghiệp sư dụng để tác động vào thị trường nhằm
đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Bản chất của hoạt động xúc tiến là
tuyên truyền thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp tới khách hàng để
thuyết phục họ mua sản phẩm. Nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng sản
phẩm đưa ra thị trường trở nên phong phú, đa dạng và có tính cạnh tranh
cao.Việc tiêu thụ được sản phẩm đến mức nào ngoài sự phụ thuộc đối với
chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp cần phải đưa thương hiệu của mình đến
người tiêu dùng làm cho mọi người tin tưởng và dần cảm thấy quen thuộc.
Doanh nghiệp Nhà phân phối
trung gian
Người tiêu dùng
11
Mục tiêu của xúc tiến bán hàng khác nhau đối với các đối tượng khác nhau
như người tiêu dùng, nhân viên bán hàng hay các trung gian thương mại. Một
số dạng xúc tiến chủ yếu được các công ty sử dụng là
- Quảng cáo: Nhằm cung cấp thông tin về sản phẩm và doanh nghiệp
thông qua các phương tiện truyền thông gián tiếp như in ấn và phương tiện
truyền tin điện tử. Bao gồm những hình thức thể hiện một cách gián tiếp và
đề cao những ý tưởng, hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của chủ
thể quảng cáo và chủ thể phải thanh toán các chi phí
- Xúc tiến bán: Là những biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để

khuyến khích việc mua sản phẩm hoặc dịch vụ
- Tuyên truyền: Là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu cầu
về hàng hóa, dịch vụ hay tăng uy tín của một đơn vị kinh doanh bằng cách
đưa ra những tin tức có ý nghĩa thương mại trên các ấn phẩm, các phương tiện
thông tin đại chúng một cách thuận lợi và miễn phí.
- Bán hàng cá nhân: là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hóa và dịch vụ
của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hay nhiều khách hàng tiềm
năng nhằm mục đích bán hàng.
Doanh nghiệp sẽ căn cứ để lựa chọn phương tiện truyền thông thích hợp
và đạt hiệu quả bằng việc phân tích đặc tính của đối tượng nhận tin như trình
độ nhận thức, mức sống, sức mua…ngoài ra doanh nghiệp còn phải xem xét
đến chi phí kinh doanh cho hoạt động này sau khi xác định mục tiêu của
phương tiện truyền thông mà doanh nghiệp cần sử dụng.
Để hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hóa được tốt doanh nghiệp cần chú
ý đến một số yếu tố sau khi thực hiện hoạt động bán hàng
Về người bán hàng: đó là người trực tiếp tiếp xúc, giao thiệp với khách
hàng. Họ có vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm do vậy cần để lại
ấn tượng tốt và có khả năng lôi kéo khách hàng. Vì vậy họ cần có khả năng
nghiệp vụ cao, khéo léo, nhạy bén và có khả năng nắm bắt tâm lý khách hàng.
Hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng: Bán hàng theo hình thức này tạo
cơ hội cho doanh nghiệp bán được một khối lượng sản phẩm lớn và là cơ sở
tạo nên mối quan hệ kinh doanh lâu dài giữa doanh nghiệp và khách hàng. Do
vậy, trong quá trình ký kết hợp đồng, những người đảm trách công việc này
12
của doanh nghiệp phải nhanh nhẹn, linh hoạt, nắm bắt được một số nghệ thuật
khi thương lượng và phải tạo được không khí thoái mái, thiện cảm và tạo
được sự tin cậy đối với khách hàng từ đó có thể nắm bắt nhu cầu trong tương
lai của khách hàng.
Tổ chức mạng lưới phân phối: Là quá trình tổ chức kênh phân phối sản
phẩm. doanh nghiệp cần lựa chọn được hình thức kênh hợp lí, thông tin

nhanh, và có thể kiểm soát được.
Tổ chức các dịch vụ trước và sau khi bán hàng: Các dịch vụ trước bán
hàng gồm có việc cung cấp thông tin, giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, tham
gia hội chợ triển lãm, đóng gói sẵn theo yêu cầu của khách hàng
Các dịch vụ trong bán hàng là các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng và
doanh nghiệp bao gồm việc giới thiệu hàng hóa, hướng dẫn lựa chọn hàng
hóa, kí kết hợp đồng thanh toán, bốc xếp hàng, chuyên chở hàng hóa đến nơi
yêu cầu
Dịch vụ sau bán hàng: là các hoạt động bao gồm việc lắp đặt, sửa chữa,
thu mua hàng cũ, thay thế, bảo dưỡng …làm tốt công tác này là nâng cao uy
tín và sự tin tưởng của khách hàng đối với sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp
Tổ chức các điều kiện đảm bảo phương tiện thanh toán. Trường hợp
nhiều doanh nghiệp cùng bán một loại sản phẩm hay dịch vụ thì việc đảm bảo
thanh toán nhanh gọn thuận tiện cũg là một trong những yếu tố cạnh tranh và
nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp.Nhưng phương thức thanh toán
cũng cần đảm bảo một số điều kiện nhất định như việc xem xét khả năng
thanh toán của khách hàng đến đâu, trình độ phát triển kinh doanh tiền tệ
cũng như trình độ phát triển dịch vụ thành toán của ngân hàng đặc biệt nếu đó
là thanh toán quốc tế cần thông qua ngân hàng thì doanh nghiệp cần xem xét
kỹ lưỡng tránh yếu tố rủi ro…ngoài ra, còn cần xem xét đến yếu tố thói quen
của khách hàng trong việc lựa chọn, sử dụng phương thức thanh toán. Ngân
hàng được doanh nghiệp lựa chọn cần phải được xem xét về nhiêu yếu tố
nhằm đảm bảo phương thức thanh toán cũng như hoạt động tiêu thụ sản phẩm
có hiệu quả.
13
1.2.3.5 Phân tích và đánh giá kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Phân tích và đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
gồm có: Phân tích và đánh giá quy trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
và phân tích đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm.

Phân tích và đánh giá quy trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp theo
một số tiêu thức sau: Toàn bộ quá trình thực hiện hoạt động tiêu thụ sản phẩm
thực tế của doanh nghiệp có được thực hiện một cách tuần tự theo kế hoạch
đã vạch ra, mức độ và sự tuân thủ từng bước, quyết định có thay đổi hay bổ
sung quy trình đó hay không.
1.2.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp
1.2.4.1 Các nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô:
a. Các nhân tố về kinh tế: Các nhân tố về kinh tế có vai trò rất quan
trọng, có tác độngt rực tiếp đến việc hình thành và hoàn thiện môi trường kinh
doanh, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp gồm
có:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định làm
cho nhu cầu của người dân về sản phẩm, dịch vụ tăng, từ đó tác động đến sản
lượng của các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế. Doanh nghiệp sản xuất
nhiều hơn, cần thiết đáp ứng chất lượng tốt hơn và khả hoạt động tiêu thụ sản
phẩm sẽ đạt được kết quả tốt.
Tỷ giá hối đoái: Đây là nhân tố trực tiếp tác động nhanh chóng và
manhhj mẽ đối với từng quốc gia và từng doanh nghiệp nhất là trong điều
kiện kinh tế mở cửa và hội nhập như hiện nay. Tỷ giá đồng nội tệ so với đồng
ngoại tệ sẽ góp phần thay đổi chiến lược và thực tế tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp ra nước ngoài và còn ảnh hưởng đến việc nhập khẩu của doanh
nghiệp nếu doanh nghiệp phải nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc thiết bị
từ nước ngoài
Lãi suất cho vay của ngân hàng: Hiện nay lãi suất tiết kiệm và lãi suất
cho vay của các ngân hàng thương mại đã được Nhà nước khống chế tuy
nhiên vẫn ở mức cao. Điều đó tạo ra khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh bởi vì để hoạt động sản xuất kinh doanh có
14
hiệu quả và đảm bảo quay vòng vốn thì không một doanh nghiệp nào không

phải vay vốn từ ngân hàng. Lãi suất cao làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn mạnh.
Lạm phát: Lạm phát cao sẽ khiến các doanh nghiệp giảm đầu tư vào sản
xuất kinh doanh đặc biệt là đầu tư tài sản xuất mở rộng và đầu tư đổi mới
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp vì trong tình hình đó các doanh nghiệp
sợ không đảm bảo về mặt hiện vật các tài sản, không có khả năng thu hồi vốn
sản xuất và rủi ro kinh doanh là rất lớn.
Các chính sách kinh tế của nhà nước: Các chính sách phát triển kinh tế
của Nhà nước có tác dụng hỗ trợ hoặc làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có chính sách là cơ hội cho doanh nghiệp
này nhưng lại làm mất cơ hội của doanh nghiệp khác.
b. Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một quốc gia có thể chế chính trị, hệ thống pháp luật chặt chẽ, rõ ràng,
mở rộng và ổn định là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi và bình đẳng để các doanh
nghiệp tham gia cạnh trạnh lành mạnh, đạt hiệu quả cao cho daonh nghiệp và
xã hội. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp
c. Các nhân tố về khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ có tác động to lớn đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo
nên sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hay khả năng tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ hiện
đại áp dụng trong sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm, góp phần làm tăng
chất lượng hàng hóa và dịch vụ, tiết kiệm được chi phí sản xuất dẫn tới có thể
hạ giá thành sản phẩm.
d. Các yếu tố về văn hóa- xã hội
Phong tục tập quán, thị hiếu, lối sống, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng
tôn giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của
doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau có nền văn hóa- xã hội khác nhau
do vậy khả năng tiêu thụ hàng hóa cũng khác nhau, đòi hỏi doanh nghiệp phải
nghiên cứu rõ những yếu tố này để có chiến lược sản phẩm phù hợp.

15
e. Các yếu tố tự nhiên
Các yếu tố tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý có thể tạo ra
thuận lợi hay khó khăn trong việc phát triển các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện khuếch trương
sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, giảm thiểu các chi phí phục vụ bán
hàng, giới thiệu sản phẩm. Tài nguyên thiên nhiên phong phú là điều kiện
thuận lợi tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động trong cung ứng nguyên vật
liệu đầu vào cho hoạt đông sản xuất kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị
trường.
1.2.4.2 Các nhóm nhân tố thuộc môi trường vi mô
a. Khách hàng
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết
định đến sự thất bại hay thành công của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo
nên thị trường và quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường. Những biến
động đối với khách hàng sẽ taopj ra những biến động đối với bản thân doanh
nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm.
b. Các đối thủ cạnh tranh
Số lượng các doanh nghiệp trong ngàng và các đối thủ cạnh tranh có tác
động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp
có quy mô lớn thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao hơn các đối
thủ khác trong ngành. Càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh thì cơ hội đến với
từng doanh nghiệp càng nhỏ, thị trường phân chia nhỏ hơn, khắt khe hơn dẫn
đến lợi nhuận của từng doanh nghiệp cũng nhỏ đi. Vì vậy nghiên cứu đối thủ
cạnh tranh thực sự cần thiết để giữ vững và phát triển thị trường của mỗi
doanh nghiệp.
c. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào của doanh nghiệp
Giá cả và chất lượng của nguyên vật liệu đầu vào ảnh hưởng trực tiếp
đến số lượng, chất lượng và giá thành sản phẩm được taọ ra. Nếu chi phí
nguyên vật liệu đầu vào tăng hay giảm thì nó sẽ được biểu hiện rõ rệt lên sản

phẩm. Doanh nghiệp cần xem xét giá cả nguyên vật liệu kỹ lưỡng trước khi
quyết định mua và phải lựa chọn được nguồn cung cấp nguyên vật liệu đảm
bảo và đầy đủ, duy trì mối quan hệ tốt với nhà cung cấp nhưng cũng không
16
quên tìm hiểu những nhà cung cấp nguyên vật liệu khác có thể đáp ứng được
trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh.
1.2.4.3 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Những nhân tố về bản thân doanh nghiệp ảnh hưởng đến tình hình tiêu
thụ sản phẩm bao gồm: tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất về mặt số lượng
và chất lượng sản phẩm, tình hình dự trữ, công tác tiếp cận thị trường, xác
định giá bán hợp lý, uy tín của doanh nghiệp
a. Gía bán sản phẩm
Việc tiêu thụ sản phẩm chịu tác động rất lớn của yếu tố giá thành. Theo
cơ chế thị trường hiện nay giá cả được hình thành trên thị trường theo sự thỏa
thuận giữa người mua và người bán. Do đó doanh nghiệp có thể sử dụng giá
cả như một công cụ sắc bén để đây mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh
nghiệp đưa ra mức giá được đông đảo khách hàng chấp nhận doanh nghiệp sẽ
dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Ngược lại nếu định giá quá cao, không
được sự ủng hộ của khách hàng thì doanh nghiệp không thể tiêu thụ được sản
phẩm của mình. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp có chiến lược cụ thể, phương
thức quản lý tốt và làm giá cả thấp hơn dù chỉ một chút thì đó cũng là một lợi
thế lớn của doanh nghiệp.
b. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là công cụ mạnh mà doanh nghiệp sử dụng để cạnh
tranh với những đối tác khác và tạo uy tín của mình trên thị trường. Việc đảm
bảo chất lượng lâu dài từ đầu đến cuối có ý nghĩa to lớn trong việc tạo lòng
tin nơi khách hàngvà tăng cường uy tín của doanh nghiệp trên thị trường từ đó
tạo đà cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi.
c. Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp
Công tác tổ chức bán hàng gồm nhiều mặt đó là hình thức bán hàng, tổ

chức thanh toán, dịch vụ kèm theo sau bán hàng. Để mở rộng và chiếm lĩnh
thị trường các doanh nghiệp còn tổ chức mạng lưới các đại lý phân phối sản
phẩm. Các dịch vụ sau khi bán thúc đây tiêu thụ sản phẩm vì nó tạo được
quan hệ bền chặt giữa doanh nghiệp và khách hàng, tạo được sự tin cây, tín
nhiệm của khách hàng từ đó thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và có được những
khách hàng truyền thống lâu năm.
17
d. Quảng cáo và giới thiệu sản phẩm
Doanh nghiệp có thể quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau từ đó
tạo được sự quen thuộc cho khách hàng về sản phẩm và khả năng được khách
hàng lựa chọn sẽ cao hơn. Cung cấp cho khách hàng những thông tin về sản
phẩm mới sẽ giúp cho khách hàng có thể có sự lựa chọn và đúng đắn về việc
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mà không tốn qua nhiều thời gian. Đối
với một thị trường mới hay sản phẩm mới thì quảng cáo thích hợp là công
việc cần thiết thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài các yếu tố trên thì còn rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như: Mục tiêu và chiến lược phát
triển của doanh nghiệp trong từng thời kì, nguồn nhân lực và vật lực của
doanh nghiệp sẽ đóng góp to lớn để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh
doanh và tạo ra những sản phẩm trên thị trường, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp.
18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TIÊU THỤ SẢN
PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN NHỰA, BAO BÌ VINH
2.1 Giới thiệu về công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần Nhựa, bao bì
Vinh
Công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh được thành lập tháng 03/1996 với
tên gọi ban đầu là nhà máy Nhựa, bao bì trực thuộc công ty hợp tác kinh tế
quân khu IV. Tháng 12/2002 nhà máy cổ phần hóa và từ 1/2003 hoạt động

theo loại hình công ty cổ phần.
Tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần Nhựa- bao bì Vinh
Tên giao dịch quốc tế: Vinh plastic & bags joint stock company
Tên viết tắt: VBC.
Địa chỉ: Số 18 Đường Phong Định Cảng Khối 8 - Phường Bến Thủy –
TP. Vinh - Nghệ An.
Điện thoại giao dịch: 038.3855524 - Fax: 038.3856007
Email: -
Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh: Số 2703000092 do Sở Kế hoạch
đầu tư tỉnh Nghệ An cấp lần đầu ngày 03/10/2003, đăng ký thay đổi lần 1
ngày 11/10/2006, sửa đổi lần 2 ngày 14/04/2008
Tài khoản: Số 0101000000596 tại Ngân hàng Ngoại Thương Vinh
Mã số thuế : 2900531222
Chủ tịch Hội đồng quản trị: Ông Phan Trí Nghĩa
Giám đốc Công ty : Ông Nguyễn xuân Hải
Vốn điều lệ thời điểm 31/12/2010 29.999.890.000
Ngành nghề sản xuất kinh doanh: Sản xuất và cung ứng bao bì xi măng,
bao bì nông sản và các sản phẩm băng nhựa.
19
2.1.2 Chiến lược phát triển của công ty
a. Chiến lược về sản phẩm:
Công ty cổ phần Nhựa, bao bì Vinh là doanh nghiệp chuyên sản xuất bao
bì các loại, phấn đấu trở thành đơn vị mạnh về lĩnh vực sản xuất, cung cấp vỏ
bao cho ngành xi măng, nông sản, phân bón và ngành nghề khác trên phạm vi
toàn quốc.
b. Chiến lược về tài chính:
- Duy trì cơ cấu tài chính lành mạnh và phù hợp để giảm rủi ro tài chính
cho công ty cũng như đảm bảo đủ nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh.
- Tuỳ thuộc vào tình hình tài chính của công ty và phân tích tình hình thị

trường để tiếp cận và tìm cách huy động vốn vay từ ngân hàng thương mại ,
phát hành tăng vốn và tham gia thị trường chứng khoán.
- Công tác kế toán đảm bảo kịp thời, đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo tiến độ thu
hồi công nợ tốt. Trích nộp ngân sách và thanh toán cổ tức đúng đủ và kịp thời.
c. Chiến lược về nhân lực:
- Kiện toàn bộ máy quản lý tinh gọn , hiệu quả.
- Tăng cường đào tạo tại chổ nguồn nhân lực.
- Thu hút thêm nhân lực có năng lực từ bên ngoài vào vào làm việc tại vị
trí chủ chốt.
- Có chính sách động viên khuyến khích lực lượng lao động có năng lực,
tâm huyết với công ty.
20
2.1.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cổ phần Nhựa, bao bì
Vinh

Bộ máy quản lý của công ty hoạt động theo chế độ một thủ trưởng,
quyền quyết định cao nhất thuộc về giám đốc, mỗi cấp dưới chỉ nhận lệnh từ
một cấp trên trực tiếp, các phòng chức năng chỉ làm công tác tham mưu cho
các lãnh đạo trực tiếp. Các phó giám đốc, quản đốc sử dụng quyền mà giám
đốc giao cho để thống nhất quản lý mọi hoạt động trong lĩnh vực công việc
được phân công hoặc đơn vị mình phụ trách.
a. Hội đồng quản trị:
Có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề về mục đích,
quyền lợi của công ty. Có nhiệm vụ quyết định chiến lược phát triển, phương
án đầu tư, bổ nhiệm, bãi nhiệm các chức danh giám đốc và các cán bộ quản lý
quan trọng khác
Hội đồng quản trị Ban kiểm soát
Ban giám đốc
Phòng KH- KT Phòng thị
trường

Phòng tài
chính- kế toán
Phòng quản trị
hành chính
PX kéo sợi PX dệt PX tạo hình PX hoàn
thiện
21
b. Ban giám đốc:
Là những người điều hành, chỉ đạo mọi hoạt động của công ty dưới sự
chỉ đạo giám sát của hội đồng quản trị bao gồm:
Giám đốc và hai phó giám đốc, trong đó giám đốc là người điều hành
cao nhất của công ty, chịu trách nhiệm trước nhà nước, cán bộ công nhân viên
về kết quả hoạt động của công ty.
Phó giám đốc phụ trách sản xuất kinh doanh có nhiệm vụ hỗ trợ giúp cho
giám đốc và chỉ đạo trực tiếp các bộ phận được phân công, ủy quyền.
Phó giám đốc tổ chức là người điều hành cán bộ , luân chuyển và sắp xếp
công việc, quản lý nhân viên, tuyển dụng cán bộ.
c. Phòng thị trường:
Phòng thị trường là cơ quan tham mưu, giúp việc cho hội đồng quản trị,
giám đốc về công tác thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng chiến lược thị
trường, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch thị trường dài hạn,
ngắn hạn và đột xuất, khai thác tìm kiếm, mở rộng thị trường, mở rộng công
tác dịch vụ sau bán hàng, mối quan hệ khách hàng. Tổng hợp, phân tích đánh
giá kết quả công tác và tình hình thị trường hàng tháng, quỹ, năm liên quan
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Quản lý, chỉ đạo và điều hành
công tác vận tải, thuê xe vận tải, giao hàng, đảm bảo an toàn cho người, tài
sản và phương tiện tham gia giao thông. Điều hành công tác bốc xếp hàng hóa
phương tiện vận tải đi tiêu thụ.
d. Phòng kế hoạch- kỹ thuật:
Có chức năng nhiệm vụ trong các lĩnh vực: tính gía thành kế hoạch, soạn

thảo hợp đồng mua bán, chào bán giá, đảm bảo nguyên vật liệu, quản lý vật
tư, hàng hóa, là trung tâm điều hành và phối hợp giữa các phòng ban phân
xưởng thực hiện kế hoạch SXKD. Lập kế hoạch mua bán phụ tùng , vật tư
thay thế bổ sung cải tạo, xây dựng chiến lược duy trì hệ số đảm bảo công suất
khai thác của máy móc thiết bị.
e. Phòng tài chính – kế toán
Chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về toàn bộ hoạt động tài chính và
công tác thống kê của công ty. Quản lý tài sản, vật tư, hàng hóa, thành phẩm,
bán thành phẩm, các loại tiền, thu hồi và thanh toán công nợ, đảm chi tiêu
22
đúng kế hoạch, đúng chế độ của nhà nước và đúng quy định của công ty
f. Phòng quản trị - hành chính
Có chức năng, nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực tổ chức cán
bộ, đào tạo lao động, tiền lương, chế độ chính sách, quản lý hành chính, pháp
chế trong công ty. Xây dựng và thực hiện các phương án bảo vụ, an ninh
chính trị, kinh tế, giải quyết những vấn đề liên quan đến việc thi hành luật .
Thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Ngoài ra còn có
nhiệm vụ xây dựng kế hoạch quỹ tiền lương thu nhập trong toàn công ty.
g. Các phân xưởng và tổ sản xuất:
Các phân xưởng hoạt động theo nguyên tắc dây chuyền, sản phẩm của
phân xưởng này là nguên vật liệu, bán thành phẩm của phân xưởng kia do vậy
đòi hỏi công việc sản xuất phải có sự phối hợp một cách nhịp nhàng và ăn
khớp nhau. Các phân xưởng, tổ sản xuất thực hiện các nhiệm vụ sản xuất , các
chỉ tiêu kinh tế do Giám đốc giao cho
2.1.4 Các đặc điểm về kinh doanh, kinh tế, kỹ thuật
a. Đặc điểm kinh doanh của công ty
- Loại hình doanh nghiệp: Hình thức cổ phần hóa: Bán một phần vốn nhà
nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
- Chức năng, nhiệm vụ của Công ty:
Ngành nghề kinh doanh của công ty là Sản xuất, mua bán bao bì xi

măng, bao bì PP, PE và các sản phẩm bằng nhựa; In bao bì;
Mua bán vật tư, nguyên vật liệu, thiết bị sản xuất bao bì các loại (hạt
nhựa, giấy Kraft, máy móc sản xuất bao bì…)
Kinh doanh vận tải hàng hóa đường bộ
Kinh doanh nhà ở
b. Đặc điểm sản xuất: Quy trình sản xuất kinh doanh cuả công ty bao
gồm bốn công đoạn sau:
Phân xưởng I- PX kéo sợi: có nhiệm vụ chính là đưa hạt nhựa thành sợi
nhựa.
Phân xưởng II- PX dệt: Dệt nhựa thành các manh nhựa
23
Phân xưởng III- PX tạo hình: Sản xuất 3 loại sản phẩm như sau
Bao nhựa: Cắt ( thủ công, máy) các mảnh nhựa thành các bao có kích cỡ
khác nhau
Bao xi măng: Sử dụng thêm cuộn giấy cotton để ghép thành giấy 2 lớp,
sau đó chuyển đến máy tự động ép thêm một lớp giấy cotton nữa thành giấy 3
lớp. Cắt thành vỏ bao
Bao nhựa trong ( Dùng để lót các bao nhựa chống ẩm)
Phân xưởng IV – PX hoàn thiện: May và đóng dấu bao
c. Đặc điểm trang thiết bị:
Máy móc thiết bị của công ty rất hiện đại, công suất 80.000.000 sản
phẩm/ năm với 3 dây chuyền sản xuất: 1 dây chuyền thiết bị của Đài Loan
đưa vào hoạt động từ năm 1997, 1 dây chuyền thiết bị của Cộng hoà Liên
bang Đức và Đài Loan đưa vào hoạt động từ năm 2005 và 1 dây chuyền thiết
bị của Ấn Độ, Đài Loan đưa vào hoạt động năm 2008-2009. Hiện nay với 3
dây chuyền đủ điều kiện cung cấp ổn định sản phẩm bao bì cho khách hàng
bình quân 6.500.000 đến 7.000.000 sản phẩm/ tháng.
Thiết bị sản xuất sợi: Gồm 4 máy kéo sợi của các nước Đức, Ấn Độ và
Đài Loan với tổng công suất 900-1.200 kg/giờ.
Thiết bị dệt manh: Gồm 60 máy dệt của các nước Đức, Đài Loan, Ấn Độ

với tổng công suất 8.000- 10.000 mét/giờ.
Thiết bị tráng màng: Gồm 4 máy tráng màng KP và PP của Đài Loan với
tổng công suất 12.000- 14.000 mét/giờ.
Thiết bị in và tạo ống bao: Gồm 3 máy in vỏ bao xi măng của Đài Loan
với tổng công suất 500-600 bao/phút và 3 máy in bao PP khác.
Thiết bị may: Gồm 6 dây chuyền may tự động của Nhật Bản và 5 máy
khâu bán tự động thiết bị của các nước Nhật Bản, Đài Loan. Có công suất
10.000-15.000 bao/giờ.
Về tiến độ cung cấp: Với 3 dây chuyền công nghệ hiện tại đang hoạt
động ổn định, riêng sản phẩm bao bì xi măng tiến độ sản xuất và cung cấp đạt
bình quân 7.000.000 bao/tháng ( 240.000 bao/ngày).
d. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm
24

×