Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Một vài ý kiến nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.37 KB, 32 trang )

Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, CHỮ VIẾT TẮT 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
BÁN LẺ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 6
1.1.KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BÁN LẺ

6
1.1.1.Khái niệm 6
1.1.2.Các phương thức tổ chức bán lẻ 6
1.1.3.Vai trò của bán lẻ: 7
1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

8
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của DN 8
1.2.2. Mô hình SWOT đánh giá năng lực cạnh tranh DN 8
Chương II: THỰC TRẠNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG QÚA TRÌNH HNKTQT 11
2.1. BỨC TRANH THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM

11
2.1.1. Về sức mua của thị trường 11
2.1.3. Về mạng lưới bán lẻ và các hình thức bản lẻ mới 12
2.2. LỘ TRÌNH MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ THEO CAM KẾT GIA NHẬP WTO

12
2.3. TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP ĐỐI VỚI CÁC DNBL VIỆT NAM

13
2.3.1. Tác động tích cực 13


2.3.2. Tác động tiêu cực 15
2.4. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNBL

15
2.4.1. Tổng quan hệ thống DNBL Việt Nam 15
2.4.2. Nỗ lực mở cửa thị trường 16
2.4.3. Những khó khăn, hạn chế làm giảm tính cạnh tranh của DNBL Việt Nam. 18
2.4.3.1. Những yếu tố chủ quan 18
2.4.3.2. Những yếu tố khách quan 20
2.5. MÔ HÌNH SWOT ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DNBL VIỆT NAM

21
3.1. NHỮNG XU HƯỚNG MỚI TRONG BÁN LẺ

24
3.1.1. Về thị trường 24
3.1.1.1. Sự đổ bộ dồn dập của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài 24
3.1.1.2. Phát triển các hình thức bán lẻ mới 24
3.1.2. Xu hướng vận động của DN 24
3.1.2.1. Kết hợp các kênh phân phối 24
3.1.2.2. Sự liên kết chặt chẽ của các DN 25
3.1.3. Sự thay đổi phong cách tiêu dùng 25
3.1.4. Sự can thiệp sâu hơn của nhà nước 25
3.2. CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DN

25
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 1
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
3.1.1. Chính sách thị trường 25

3.1.2. Chính sách khách hàng 26
3.1.3. Chính sách nguồn nhân lực 27
3.1.4. Chính sách mặt hàng 27
3.1.5. Các chính sách hoạt động khác 27
3.2. CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA CHÍNH PHỦ

28
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 2
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, CHỮ VIẾT TẮT
Sơ đồ 1.1. Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà SX đến người tiêu thụ cuối cùng 7
Bảng 1.1. Mô hình ma trận SWOT 10
Bảng 2.1. Tỷ lệ tổng mức bán lẻ so với tổng tiêu dùng cuối cùng (%) 11
Bảng 2.2. Tỷ trọng các loại hình bán lẻ ở Việt Nam 2009(%) 15
Bảng 2.3. Tốc độ tăng tổng MBL & DTDV tiêu dùng 9 tháng đầu 2010 theo KV 16
Chữ viết tắt Ý nghĩa
DNBL Doanh nghiệp bán lẻ
HVNCLC Hàng Việt Nam chất lượng cao
MBL Mức bán lẻ
DTDV Doanh thu dịch vụ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
CNTT Công nghệ thông tin
NHTM Ngân hàng thương mại
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 3
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với hơn 86 triệu dân (2009), mức tăng trưởng GDP cao (trung bình giai đoạn 2000
– 2009 là 7,53%), thu nhập và đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, tiêu
dùng cá nhân tăng ngay cả trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các chuyên
gia kinh tế nhận định thị trường bán lẻ Việt Nam đang phát triển nhanh nhất trong khu
vực Châu Á. Năm 2009, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá thực tế đạt hơn 1,1 triệu tỷ đồng, tăng 18,6% so với năm 2008 (không kể yếu
tố tăng giá thì là 12%). Qua 7 tháng đầu 2010, con số này ước đạt 877.500 tỷ đồng,
tăng 26,4% so với cùng kì 2009 (không kể yếu tố tăng giá thì tăng 16,3%).
Khu vực bán lẻ hiện đóng góp ≈ 14% GDP của Việt Nam (khoảng hơn 13 tỷ usd),
sử dụng hơn 5 triệu lao động (cao nhất trong các ngành dịch vụ). Theo báo cáo khảo
sát đánh giá xếp hạng toàn cầu về thị trường phân phối bán lẻ của một số tổ chức
chuyên môn quốc tế, năm 2009, Việt Nam xếp thứ 48/211 nền kinh tế về sự hấp dẫn.
Đến tháng 6/2010, sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam tiếp tục tăng thêm 2
bậc so với 2009.
Theo các cam kết trong khuôn khổ WTO, từ ngày 01/01/2009, Việt Nam phải mở
cửa hoàn toàn cho các DNBL 100% vốn nước ngoài xâm nhập vào thị trường nội địa.
Hội nhập và phát triển thị trường bán lẻ hiện đại tuy được coi là xu thế tất yếu trong
nền kinh tế thị trường, nhưng ở một góc độ khác, việc mở cửa thị trường bán lẻ cũng
sẽ tạo áp lực lớn đến các nhà sản xuất, đặc biệt là các nhà phân phối trong nước.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, ở Việt Nam, các thương hiệu lớn như Saigon-
Coopmart, VinatexMart, Nguyễn Kim…còn chưa nhiều, trong khi phong cách tiểu
thương thiếu chuyên nghiệp còn phổ biến, ứng dụng CNTT, thương mại điện tử chưa
phát triển…đã làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của các DNBL Việt Nam. Đồng
thời, họ cũng khuyến nghị rằng, nếu các DNBL trong nước không khẳng định chỗ
đứng của mình bằng chính nội lực và sự liên kết, hợp tác giữa các DN thì sẽ bị các nhà
kinh doanh bán lẻ thế giới chi phối thị trường. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh
của các DN Việt Nam nói chung, của các DN phân phối bán lẻ nói riêng là một việc
làm hết sức cần thiết. Chính vì vậy, đề tài: “Một vài ý kiến nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh của các Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
Cạnh tranh DN là đề tài rộng lớn và phức tạp. Vì thế, mặc dù em đã cố gắng nghiên
cứu và tìm hiểu, xong chắc chắn nội dung đề tài không thể tránh khỏi những sai sót,
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo để nội dung đề
tài được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 4
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
2. Mục tiêu của đề tài:
- Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động của các DNBL Việt Nam.
- Tìm ra nguyên nhân cho việc cạnh tranh kém hiệu quả và đề xuất giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các DNBL Việt Nam.
3. Nhiệm vụ của đề tài:
Để hoàn thành mục tiêu mà đề tài đề ra, em phải có nhiệm vụ:
- Giới thiệu khái quát về mặt lý luận các khái niệm bán lẻ, năng lực cạnh tranh…
- Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNBL trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế (KTQT)
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh của các DNBL của Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi không gian:
Thị trường bán lẻ Việt Nam
4.2.2. Phạm vi thời gian
Từ năm 2005, khi VN cho ra đời hai bộ luật đầu tư chung và luật DN 2005, nhưng
đặc biệt là từ khi VN chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cho đến
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích, tổng hợp, khảo sát.

6. Kết cấu của đề án:
Đề án có 2 phần là mở đầu và kết luận, 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động bán lẻ và năng lực cạnh tranh
Chương II: Thực trạng kinh doanh của các DNBL Việt Nam trong qúa trình HNKTQT
Chương III: Các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DNBL
Việt Nam trong bối cảnh HNKTQT
Ngoài ra, có danh mục bảng biểu và chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 5
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
BÁN LẺ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1. Khái quát về hoạt động bán lẻ
1.1.1. Khái niệm
Theo Nghị Định số 23/2007/NĐ - CP, Điều 3, Khoản 8 của Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, định nghĩa bán lẻ như sau:
“Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng”.
Theo tài liệu số W37 của WTO thì định nghĩa: “Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa
cho người tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình bao gồm các dịch vụ kèm theo việc bán
các hàng hóa đó” (các dịch vụ bán lẻ).
Như vậy thì định nghĩa về “bán lẻ” của Việt Nam được mở rộng hơn so với các quy
định của WTO. Vì theo WTO, dịch vụ phân phối, hoạt động “bán hàng công nghiệp /
thương mại cho các DN sử dụng các sản phẩm cuối cùng như là hóa chất, thiết bị và
nguyên vật liệu cho sản xuất” không thuộc phạm vi bán lẻ.
1.1.2. Các phương thức tổ chức bán lẻ
Có rất nhiều cách xác định khác nhau, nhưng thông thường có các cách sau đây:
(1): Chia theo số lượng dịch vụ mà nhà bán lẻ cung cấp: nhà bán lẻ cung cấp ít dịch
vụ, cung cấp dịch vụ hạn chế, cung cấp dịch vụ hoàn chỉnh.

(2): Chia theo mặt hàng mà nhà bán lẻ bán: cửa hàng chuyên doanh, cửa hành bách
hoá, siêu thị, cửa hàng tiện dụng, cửa hàng cao cấp.
(3): Chia theo giá bán của nhà bán lẻ: cửa hàng chiết khấu, cửa hàng kho, cửa hàng
bán theo catalog.
(4): Chia theo phương pháp hoạt động: Bán lẻ qua cửa hàng và không qua cửa
hàng.
(5): Theo hình thức sở hữu: Cửa hàng bán lẻ độc lập, chuỗi tập đoàn, HTX bán lẻ,
HTX tiêu thụ, các đại lí độc quyền kinh tiêu.
(6): Theo điểm quy tụ cửa hàng: Khu kinh doanh trung tâm, trung tâm mua bán địa
phương, trung tâm mua bán cận ven.
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động bán lẻ được nhiều thành phần kinh tế cùng tham
gia hoạt động, bao gồm: hệ thống các chợ có qui mô lớn hoặc nhỏ thừ thành thị đến
nông thôn, các hình thức bán lẻ đa dạng trong nhân gian, các hình thức cửa hàng, hệ
thống siêu thị của các công ty thương mại, các công ty dịch vụ công cộng (vận chuyển
hành khách, khu vui chơi – giải trí, dịch vụ khác… ), hệ thống cửa hàng ăn uống, dịch
vụ sửa chữa …
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 6
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Ngoài ra, căn cứ vào một số tính chất trong các hoạt động, nhiều loại hình tổ chức
trong xã hội đang cung cấp các dịch vụ cho các tầng lớp nhân dân cũng có các đặc
điểm của hoạt động bán lẻ (Ví dụ: bệnh viện, trường học, cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội…). Vì vậy, các tổ chức này cũng cần xem xét để vận dụng các nguyên tắc bán
hàng nhằm đạt được mục tiêu và hiệu quả phục vụ công chúng.
Sơ đồ 1.1. Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà SX đến người tiêu thụ cuối
cùng
Kênh trực tiếp :

Kênh ngắn:
Kênh trung bình:

Kênh dài:

1.1.3. Vai trò của bán lẻ:
Qua thực tế hoạt động bán lẻ ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới như:
số nơi bán lẻ hàng hoá, doanh số bán lẻ trong từng kỳ ở mỗi khu vực địa lý, số người
thực hiện công việc bán lẻ hàng hóa trên thị trường…; bán lẻ là loại hình hoạt động có
tầm quan trọng bậc nhất trong nhiều lĩnh vực bán hàng của các ngành kinh tế. Đây là
công việc liên quan trực tiếp đến nhu cầu tiêu dùng sản phẩm hữu hình và vô hình của
tất cả các tầng lớp dân cư của mỗi quốc gia. Vì vậy, bán lẻ đóng một vai trò quan
trọng:
(1): Là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, Thúc đẩy sự luân chuyển
hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng nhanh chóng.
(2): Góp phần trong việc làm tăng tổng mức doanh thu hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng
và khi phát triển mạnh có thể tạo ảnh hưởng đến các nhà sản xuất.
(3): Phục vụ rộng rãi nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong xã hội.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 7
Người sản
xuất
Người
tiêu dùng
Người sản
xuất
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người sản
xuất
Người
bán buôn

Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Người sản
xuất
Đại lí
môi
giới
Người
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
tiêu dùng
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
(4): Giải quyết việc làm cho đông đảo người lao động ở mỗi quốc gia.
(5): Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư từ
thành thị đến nông thôn.
1.2. Lý luận chung về năng lực cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của DN
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm
1990. Theo Aldington Report (1985): “DN có khả năng cạnh tranh là DN có thể sản
xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác
trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu
dài của DN và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ DN”. Định
nghĩa này cũng được nhắc lại trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương
quốc Anh” (1994).
Năm 1998, Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với DN,

năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào
đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu
quả hơn các DN khác”.
Ở Việt Nam, theo TS.Nguyễn Hữu Thắng viết trong cuốn “Năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay” do Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2009, định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản
phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất
nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững”
Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một cách
thống nhất. Bởi lẽ năng lực cạnh tranh cần phải đặt vào điều kiện, bối cảnh phát triển
của đất nước trong từng thời kỳ. Đồng thời năng lực cạnh tranh cũng cần thể hiện khả
năng đua tranh, tranh giành giữa các DN và cần được thể hiện ra bằng phương thức
cạnh tranh phù hợp.
1.2.2. Mô hình SWOT đánh giá năng lực cạnh tranh DN
Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60 - 70 tại Viện nghiên cứu Stanford với quá
trình tìm hiểu nguyên nhân thất bại trong việc lập kế hoạch của các công ty.
SWOT cho phép phân tích các yếu tố khác nhau có ảnh hưởng tương đối đến khả
năng cạnh tranh của công ty. SWOT thường kết hợp với PEST (Political, Economic,
Social, Technological analysis), mô hình phân tích thị trường và đánh giá tiềm năng
thông qua yếu tố bên ngoài trên các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội và công
nghệ.
Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra
quyết định trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào. Viết tắt của 4
chữ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats
(nguy cơ), trong đó:
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 8
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
(1) Strengths và Weaknesses là các yếu tố nội tại của công ty

(2) Opportunities và Threats là các nhân tố tác động bên ngoài
Strengths: Lợi thế của mình là gì? Công việc nào mình làm tốt nhất? Nguồn lực
nào mình cần, có thể sử dụng? Ưu thế mà người khác thấy được ở mình là gì? Phải
xem xét vấn đề từ trên phương diện bản thân và của người khác. Cần thực tế chứ
không khiêm tốn. Các ưu thế thường được hình thành khi so sánh với đối thủ cạnh
tranh. Chẳng hạn, nếu tất cả các đối thủ cạnh tranh đều cung cấp các sản phẩm chất
lượng cao thì một quy trìh sản xuất với chất lượng như vậy không phải là ưu thế mà là
điều cần thiết phải có để tồn tại trên thị trường.
Weaknesses: Có thể cải thiện điều gì? Công việc nào mình làm tồi nhất? Cần tránh
làm gì? Phải xem xét vấn đề trên cơ sở bên trong và cả bên ngoài. Người khác có thể
nhìn thấy yếu điểm mà bản thân mình không thấy. Vì sao đối thủ cạnh tranh có thể làm
tốt hơn mình? Lúc này phải nhận định một cách thực tế và đối mặt với sự thật.
Opportunities: Cơ hội tốt đang ở đâu? Xu hướng đáng quan tâm nào mình đã biết?
Cơ hội có thể xuất phát từ sự thay đổi công nghệ và thị trường dù là quốc tế hay trong
phạm vi hẹp, từ sự thay đổi trong chính sách của nhà nước có liên quan tới lĩnh vự hoạt
động cuat công ty, từ sự thay đổi khuôn mẫu xã hội, cấu trúc dân số hay cấu trúc thời
trang , từ các sự kiện diễn ra trong khu vực. Phương thức tìm kiếm hữu ích nhất là rà
soát lại các ưu thế của mình và tự đặt câu hỏi liệu các ưu thế ấy có mở ra cơ hội mới
nào không. Cũng có thể làm ngược lại, rà soát các yếu điểm của mình và tự đặt câu hỏi
liệu có cơ hội nào xuất hiện nếu loại bỏ được chúng.
Threats: Những trở ngại đang gặp phải? Các đối thủ cạnh tranh đang làm gì?
Những đòi hỏi đặc thù về công việc, về sản phẩm hay dịch vụ có thay đổi gì không?
Thay đổi công nghệ có nguy cơ gì với công ty hay không? Có vấn đề gì về nợ quá hạn
hay dòng tiền? Liệu có yếu điểm nào đang đe doạ công ty? Các phân tích này thường
giúp tìm ra những việc cần phải làm và biến yếu điểm thành triển vọng.
Các yếu tố bên trong cần phân tích có thể là:
(1) Văn hóa công ty, (2) Hình ảnh công ty, (3) Cơ cấu tổ chức, (4) Nhân lực chủ
chốt, (5) Khả năng sử dụng các nguồn lực, (6) Kinh nghiệm đã có, (7) Hiệu quả hoạt
động, (8) Năng lực hoạt động, (9) Danh tiếng thương hiệu, (10) Thị phần, (11) Nguồn
tài chính, (12) Hợp đồng chính yếu, (13) Bản quyền và bí mật thương mại.

Các yếu tố bên ngoài cần phân tích có thể là:
(1) Khách hàng, (2) Đối thủ cạnh tranh, (3) Xu hướng thị trường, (4) Nhà cung cấp,
(5) Đối tác, (6) Thay đổi xã hội, (7) Công nghệ mới, (8) Môi truờng kinh tế, (9) Môi
trường chính trị và pháp luật.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 9
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Bảng 1.1: Mô hình ma trận SWOT
Cơ hội (O) Thách thức (T)
Điểm mạnh (S)
S+O
Sử dụng điểm mạnh để
tận dụng những cơ hội
S+T
Sử dụng điểm mạnh để
hạn chế/né tránh thách
thức
Điểm yếu (W)
W+O
Khai thác cơ hội để lấp
chỗ yếu kém
Khắc phục điểm yếu để
tận dụng được cơ hội
W+T
Khắc phục điểm yếu để
giảm bớt thác thức
Với những hữu ích mà mô hình này mang lại, nó đã nhanh chóng được ứng dụng
trong thực tế trên khắp thế giới ở hầu hết các lĩnh vực (trừ các lĩnh vực thuộc độc
quyền nhà nước hoặc do đặc thù ngành nghề…). Sang chương II, thông qua phân tích
thực trạng hoạt động, chúng ta sẽ vận dụng mô hình này vào việc đánh giá và phân tích

năng lực cạnh tranh của các DNBL Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 10
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Chương II: THỰC TRẠNG KINH DOANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM
TRONG QÚA TRÌNH HNKTQT
2.1. Bức tranh thị trường bán lẻ Việt Nam
2.1.1. Về sức mua của thị trường
Theo Tổng cục Thống kê, 7 tháng đầu năm 2008, mức chi tiêu dùng hàng hoá -
dịch vụ đạt bình quân 886 nghìn đồng/người/ tháng, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm
ngoái. Tuy nhiên, vì so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 27%
nên lượng hàng hóa tiêu thụ có thể coi như không thay đổi. Song, từ tháng 8-2008, chỉ
số CPI bắt đầu chững lại và giảm liên tục cho đến các tháng cuối năm. Trong 3 tháng
đầu năm 2009 CPI tăng 14,47% so với 3 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, sức mua vẫn
còn dè dặt. Đây là điều dễ hiểu vì trên 70% dân số nước ta sống phụ thuộc vào nông
nghiệp - một nền nông nghiệp còn kém bền vững, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân
tán, chưa kể còn nhiều hộ nghèo thuộc 61 huyện nghèo nhất nước của 22 tỉnh, thậm
chí, còn chưa “tiếp cận” được với cơm nên càng không có khái niệm về sức mua hàng
hóa.
Bảng 2.1: Tỷ lệ tổng mức bán lẻ so với tổng tiêu dùng cuối cùng (%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
2.1.2. Về nhu cầu đa dạng với hàng hoá
Ngày nay, bất luận hàng hoá gì, được mua bao nhiêu, ở đâu, lúc nào, cho ai đều
vừa sẵn có, đủ dịch vụ kèm theo đáp ứng người tiêu dùng. Tuy nhiên, hầu hết các sản
phẩm của Việt Nam đều chưa có thương hiệu mạnh và chất lượng hàng chưa cao.
Người tiêu dùng vẫn còn trăn trở nhiều về hàng nội.
Nhiều nguời giàu có bắt đầu lãnh đạm với hàng nội. Họ đã chuyển sang tiêu dùng
gạo Thái, Pizza Ý, kem Mỹ, thịt bò Úc, cá hồi Bắc Âu, đùi gà Mỹ Đối với hàng dệt
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 11

Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
may, trên thị trường nội địa, loại bình dân đã bị hàng may mặc Trung Quốc lấn sân,
còn loại cao cấp thì bị hàng Thái-lan, Hàn Quốc, Xin-ga-po tranh giành. Có đơn vị
kinh doanh đã cố gắng kiên định không cho hàng ngoại tràn vào hệ thống siêu thị của
ngành mình, song sau đó doanh thu đã bị giảm sút vì người mua không hào hứng bởi
chất lượng, giá cả
Vậy hàng ngoại sẽ ngày càng hấp dẫn - đồng nghĩa với việc thị trường bán lẻ Việt
Nam phụ thuộc vào hệ thống phân phối bên ngoài. Sự phụ thuộc đó còn được “củng
cố” từ chính hàng sản xuất tại Việt Nam vẫn chủ yếu bằng nguyên phụ liệu, giống má,
thiết bị, thức ăn, phân bón, thuốc phòng, chữa bệnh… phải nhập khẩu với tỷ trọng lớn.
2.1.3. Về mạng lưới bán lẻ và các hình thức bản lẻ mới
Nước ta những năm gần đây đã văn minh, hiện đại hơn trước nhiều. Siêu thị, cửa
hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng giá rẻ, cửa hàng nhượng quyền, cửa
hàng tự chọn, cửa hàng phức hợp, trung tâm mua sắm… sánh vai về tiêu chuẩn với các
nước mọc lên khắp nơi. Đến nay, Vịệt Nam có khoảng 400 siêu thị, 60 trung tâm
thương mại và gần 2.000 cửa hàng tiện ích. Dự kiến, năm 2010, số siêu thị và trung
tâm thương mại sẽ tăng lần lượt là 62,5% và 150% (Nguồn: Bộ Công thương).
Mạng lưới bán lẻ Việt Nam từng được cung ứng bằng hệ thống phân phối bài bản,
khép kín. Sản phẩm từ nhà máy, đồng ruộng, đến nhập khẩu…đều được giao cho mậu
dịch quốc doanh cung cấp tới tỉnh, huyện và về tận thôn, bản với trợ thủ là các hợp tác
xã mua bán. Song khi chuyển sang thời kỳ kinh tế thị trường, chuyển đổi cơ chế, hệ
thống trên bị sa sút, nhiều vị trí đã được chuyển nhượng cho các hội, sở, các ngành,
ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính - viễn thông, dịch vụ du lịch, hoặc cho thuê, đưa vào
liên doanh Trước thực trạng đó, đã ra đời các dạng thức phân phối mới như sau:
- Dạng chính quy của các “đại gia” gồm một số là “hậu duệ” của mậu dịch quốc
doanh chuyển sang cơ chế mới. Dạng thức này có cơ sở vật chất khá tốt, có thương
hiệu, song chỉ đếm trên đầu ngón tay, chứ không bao quát được toàn bộ thị trường bán
lẻ bao la trên toàn quốc.
- Dạng tự biên tự diễn của các xí nghiệp sản xuất, mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm

hoặc đặt đại lý bán hàng. Nhà nhập khẩu cũng sử dụng mẫu hình này cho đầu ra hàng
của mình, vì họ không phải đầu tư nhiều mà vẫn có lợi nhuận tốt do bớt được phí trung
gian, mua “tận gốc”, bán “tận ngọn”, lại trực diện với khách hàng, nắm bắt nhanh nhu
cầu để cải tiến sản xuất hoặc lập đơn hàng nhập khẩu mới.
- Cơ động, đông đảo nhất là dạng “du kích” phục vụ cho mạng lưới bán lẻ cận kề
với hàng chục triệu người bình dân. Từ sáng tinh mơ, từ chợ đầu mối, lò mổ, công
xưởng, miệt vườn… lũ lượt các phương tiện dân dã vun vút lao về các điểm để bỏ mối
tận hang cùng ngõ hẻm, bươn chải mưu sinh.
2.2. Lộ trình mở cửa thị trường bán lẻ theo cam kết gia nhập WTO
Về hình thức đầu tư: ngay khi Việt Nam gia nhập DN hoạt động theo hình thức
liên doanh, trong đó nhà đầu tư chiếm không quá 49% vốn điều lệ; từ 01/01/2008
không hạn chế tỷ lệ góp vốn của nhà ĐTNN (nhưng phải lập công ty dưới hình thức
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 12
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
góp vốn liên doanh); từ 01/01/2009 được thành lập DN theo hình thức tổ chức kinh tế
100% vốn của nhà ĐTNN.
Về lập cơ sở bán lẻ: theo quy định tại Phụ lục số 01 Quyết định số 10/2007/QĐ-
BTM: "Quyền phân phố của nhà ĐTNN gắn với quyền được lập cơ sở bán lẻ thứ
nhất". Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là khi nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp
phép thực hiện quyền phân phối sẽ đương nhiên được mở cơ sở bán lẻ ở bất cứ đâu
trên địa bàn địa phương.
Khi lập cơ sở bán lẻ thứ hai được xem xét dựa trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế -
ENT (số lượng các cơ sở bán lẻ cùng mô hình hoạt động, cùng chủng loại mặt hàng
trong phạm vi địa phương; sự ổn định của thị trường địa phương; mật độ dân cư trên
địa bàn dự kiến đặt cơ sở bán lẻ; sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh,
thành phố).
Về hàng hóa: danh mục hàng hóa loại trừ vĩnh viễn đó là những mặt hàng mà nhà
ĐTNN sẽ không bao giờ được quyền tham gia phân phối trên lãnh thổ Việt Nam như:
lúa, gạo, đường, thuốc lá và xì gà, dầu thô và dầu qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ,

sách - báo - tạp chí, kim loại quý và đá quý, vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu
(băng, đĩa ).
Danh mục hàng hóa loại trừ có thời hạn (nhà ĐTNN được quyền phân phối theo lộ
trình mà Việt Nam đã cam kết như: từ 01/01/2009 máy kéo - phương tiện cơ giới - ô tô
con và xe máy; từ 01/01/2010 rượu, xi măng và clinke, phân bón, sắt thép, giấy, lốp xe
(trừ lốp máy bay), thiết bị nghe nhìn).
2.3. Tác động của hội nhập đối với các DNBL Việt Nam
Hội nhập và mở cửa thị trường là một xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay.
Mở cửa thị trường sẽ có những tác động tích cực và tác động tiêu cực đến hoạt động
thương mại. Mức độ tác động phụ thuộc vào mức độ mở cửa thị trường. Theo nguyên
tắc hoạt động của WTO thì Việt Nam phải cam kết mở cửa 100% cho cả 4 phân ngành
của dịch vụ phân phối trong đó có lĩnh vực bán lẻ, tuy nhiên cũng giống như các nước
đang và kém phát triển khác, Việt Nam có mức độ mở cửa thị trường thấp hơn và tốc
độ chậm hơn so với các nước phát triển.
2.3.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ thống bán lẻ
Việt nam.
Khi các DN nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt nam, các DN chỉ được
phép mở một điểm bán lẻ, còn từ điểm thứ 2 sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu
cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các DN có xu hướng đầu tư các siêu thị lớn, đáp ứng cho
nhu cầu mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng. Đây là các siêu thị có quy mô
lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong
cung cấp dịch vụ bán lẻ, phong cách phục vụ mới lạ, tạo nên sự văn minh hiện đại, đáp
ứng nhu cầu đa dạng phong phú và ngày càng cao của người tiêu dùng.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 13
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Thứ hai, học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.
Các siêu thị bán buôn, bán lẻ của các DN nước ngoài ở Việt nam như Metro, Big C,
Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các công nghệ quản lý và kinh doanh hiện

đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và cung cấp nguồn hàng, chương trình quảng cáo
khuyến mại, hệ thống logicstics, quản trị nhân sự, kỹ thuật bán hàng…đây là các vấn
đề có tính then chốt trong hoạt động của siêu thị mà các DN Việt nam còn nhiều hạn
chế.
Thứ ba, tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các DNBL Việt nam.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong dịch vụ bán lẻ nói riêng để phát
triển phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng. Các siêu thị nước ngoài
với các ưu điểm có tính nổi trội là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các siêu thị, các
chuỗi cửa hàng tiện ích của các DN Việt nam. Để tồn tại, các DN buộc phải tự hoàn
thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh, đây là động lực để các DN phát triển.
Thứ tư, làm đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Các DNBL nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu
cầu bậc cao của thị trường. Các DN Việt nam chủ yếu cung cấp các hình thức bán lẻ
truyền thống, các chuỗi cửa hàng tiện ích, các siêu thị có chất lượng dịch vụ bậc trung.
Sự có mặt của các DNBL nước ngoài đã làm đa dạng hoá, tạo nên một chuỗi các sản
phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị trường bán lẻ của Việt nam.
Thứ năm, tăng cơ hội hợp tác kinh doanh.
Chỉ tính riêng phương thức 3, để tiếp cận thị trường bán lẻ Việt nam, DN nước
ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, có thể góp
vốn liên doanh với các DN Việt nam, có thể mua cổ phần của các DNBL Việt nam,
đồng thời các DN nước ngoài còn có nhu cầu thuê mặt bằng, nhu cầu về dịch vụ
nghiên cứu thị trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ….đây là cơ hội để các DN
Việt nam hợp tác kinh doanh với các DN nước ngoài.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ.
Mở cửa thị trường phân phối sẽ tạo nên một sự cạnh tranh rất gay gắt, các DN
trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình. Một trong các giải pháp tạo nên khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng cao chất
lượng giảm giá thành dịch vụ, làm chất lượng dịch vụ khách hàng thường xuyên được
cải thiện, giá hàng hóa có tính cạnh tranh.
Thứ bảy, góp phần xuất khẩu hàng hóa cho Việt nam.

Các DN nước ngoài thường có hệ thống bán buôn, bán lẻ toàn cầu, một số hàng hóa
Việt nam được xuất khẩu để cung cấp cho hệ thống ở nước ngoài. Ở Việt Nam, Metro
đã tham gia xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam cho hệ thống Metro toàn cầu, các
DN khác hoạt động xuất khẩu cũng còn hạn chế.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 14
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
2.3.2. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với các DN bản lẻ trong nước
Mở cửa hoàn toàn thị trường, áp lực cạnh tranh lên các DN trong nước sẽ ngày
càng tăng cao, yêu cầu các DN phải thường xuyên đổi mới, tự hoàn thiện để phát triển
trong môi trường có tính cạnh tranh quốc tế, những DN không đủ khả năng cạnh tranh
sẽ bị loại ra khỏi hệ thống hoặc chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác phù hợp
hơn.
Thứ hai, các DNBL trong nước bị mất dần thị phần.
Khi mở cửa thị trường, các DNBL nước ngoài thường chọn các phân khúc thị
trường hấp dẫn để chiếm lĩnh, thường là các phân khúc thị trường mà các DN Việt
Nam chưa có lợi thế. Sự xuất hiện của các DN nước ngoài làm cho thị trường của các
DN Việt nam bị thu hẹp, gây khó khăn cho sự phát triển của các DNBL trong nước.
Thứ ba, có một sự chuyển dịch nguồn nhân lực chất lượng cao từ các DNBL trong
nước sang các DNBL nước ngoài.
Các DN nước ngoài thường có các điều kiện làm việc tốt và trả mức lương hấp dẫn
hơn. Khi các DN nước ngoài tham gia vào hệ thống bán lẻ trong nước sẽ cần nguồn
nhân lực trong nước, theo kinh nghiệm của Trung quốc sẽ có một số cán bộ quản lý,
bán hàng, phục vụ có chất lượng cao được chuyển dịch từ các DN trong nước, đặc biệt
là các DN Nhà nước sang các DN nước ngoài. Qua khảo sát tại Coop. Mart, Maximark
nhiều cán bộ quản lý và nhân viên bán hàng đã sang làm việc tại các siêu thị nước
ngoài. Sự chuyển dịch nguồn nhân lực, nhất là các nhà quản lý cấp cao có chất lượng
sẽ gây khó khăn cho các DN trong nước.
2.4. Thực trạng hoạt động của các DNBL

2.4.1. Tổng quan hệ thống DNBL Việt Nam
Theo thống kê của Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, cả nước hiện có hơn 8.300
chợ các loại, gần 400 siêu thị, trung tâm thương mại (năm 1995 chỉ có 10 siêu thị, 2
trung tâm thương mại) và ngành bán lẻ Việt Nam đang cơ cấu lại, có sự chuyển biến
sâu sắc, phát triển nhiều loại hình với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: Tư
nhân, Nhà nước, HTX, DN vốn đầu tư nước ngoài… đẩy tổng mức bán lẻ và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng trong nước tăng ngày càng cao.
Bảng 2.2. Tỷ trọng các loại hình bán lẻ ở Việt Nam 2009(%)
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 15
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Nguồn: Tổng cục thống kê
2.4.2. Nỗ lực mở cửa thị trường
Năm 2009, Việt Nam cam kết mở cửa 100% cho các tập đoàn bán lẻ nước ngoài,
nhận biết được điều này, hệ thống phân phối trong nước đã có sự chuẩn bị cho quá
trình mở cửa và được phát triển mạnh mẽ.
Thứ nhất, các DN bắt tay hợp tác với nhau
Giữa năm 2007 bốn đại gia bán lẻ trong nước gồm Tổng công ty Thương mại Hà
Nội( Hapro), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra), Liên hiệp hợp tác xã Thương
mại Sài Gòn (Saigon Coop), Tập đoàn Phú Thái đã liên kết thành lập Công ty cổ phần
Đầu tư và Phát triển Hệ thống phân phối Việt Nam (VDA). Cũng trong năm này thì
Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) đã chính thức ra mắt với gần 100 thành viên
có mục tiêu tập trung xây dựng một hệ thống dữ liệu tham khảo phục vụ DN; xây dựng
hệ thống liên kết giữa các nhà sản xuất và bán lẻ tầm cỡ trên thị trường Việt Nam; xây
dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực; tham gia xúc tiến thương mại, phát triển
quan hệ quốc tế
Trong danh sách xếp hạng 500 nhà bán lẻ hàng đầu Châu Á - Thái Bình Dương
năm 2010 do Tạp chí bán lẻ Châu Á (Retail Asia) công bố thì Việt Nam có 5 DN nội
địa được vinh dự xếp hạng là hệ thống siêu thị Co.opMart của Saigon Co.op, Công ty
Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ), trung

tâm điện máy Nguyễn Kim, Mobile World, chuỗi G7 Mart.
Thứ hai, sự phân tầng tương đối hợp lí các loại hình bán lẻ ở các khu vực địa lý
Ở khu vực nông thôn, nơi tập trung gần 70% dân số của Việt Nam, các DN có quy
mô vốn vừa và nhỏ hoạt động có thể nói là khá hiệu quả. Nắm bắt được tâm lí người
tiêu dùng thu nhập thấp và tằn tiện, các cửa hàng tạp hoá, các siêu thị cỡ nhỏ được
triển khai và thu hút được số lượng lớn khách hàng.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 16
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Tại các thành phố lớn, phương thức bán lẻ hiện đại đang thay thế dần phương thức
truyền thống với các “đại gia” như Hapro, Hatra… Trước đây, phương thức bán lẻ hiện
đại rất ít, chỉ đạt khoảng 3% (năm 2001) thì nay đã lên tới 18 – 20% (năm 2009). Phân
tích của Công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen chỉ ra rằng, đến năm 2010, phương
thức này sẽ chiếm lĩnh 24% trong thị trường phân phối.
Bảng 2.3.Tốc độ tăng tổng MBL&DTDV tiêu dùng 9 tháng đầu 2010 theo khu vực(%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thứ ba, mở rộng quy mô hoạt động; nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ
Trước tình hình nhiều hãng phân phối lớn nước ngoài đã quyết định khai thác và
phát triển “mặt trận” tại Việt Nam ( như Lotte Mart của Hàn Quốc, Wal-mart của Mỹ,
…) đã tác động thúc đẩy một số doanh nhân trong nước vươn lên, chủ động tạo ra mặt
hàng mới, chất lượng cao, đổi mới phương thức phục vụ, giữ vững thị phần. Chẳng
hạn, Công ty Cà phê Trung Nguyên đã mở gần 100 cửa hàng G7 Mart thành chuỗi các
cửa hàng trong hệ thống phân phối của mình. Tập đoàn Phú Thái – Hà Nội tập hợp
được 6 thành viên, với 13 trung tâm phân phối và 8 trung tâm kho vận và đang phân
phối 3.000 sản phẩm trên phạm vi cả nước. Công ty Sữa Việt Nam (VINAMILK) mở
2.000 đại lý tiêu thụ trong cả nước, doanh thu bán lẻ tăng từ 15% đến 30%, với 200
mặt hàng từ sữa và còn vươn ra xuất khẩu. Nhờ sự phát triển này, người tiêu dùng Việt
Nam có nhiều cơ hội lựa chọn, nâng cao trình độ tiêu dùng để tiếp cận với mặt bằng
tiêu dùng của khu vực và quốc tế.
Thứ tư, các DN Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng

những tiến bộ của khoa học công nghệ vào khai thác thị trường bán lẻ, tăng cường tiếp
cận với khách hàng, nhất là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Khối NHTM Việt Nam không thể ngồi yên hưởng lợi thế sân nhà như trước kia,
nhiều ngân hàng xác định phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược phát triển của mình; bắt đầu từ sự nắm bắt các cơ hội có được từ
các thị trường mới, từ việc áp dụng công nghệ và sử dụng hệ thống tạo ra nhiều sản
phẩm dịch vụ mới, phương thức phân phối hiệu quả, tăng cường mối quan hệ giữa
khách hàng với ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng sau giai đoạn đầu triển khai các dịch
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 17
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
vụ ngân hàng điện tử với các dịch vụ phi tài chính cơ bản như truy vấn số dư tài khoản,
sao kê tài khoản, thông báo biến động số dư đều mở rộng sang các dịch vụ về tài chính
như chuyển khoản, chuyển đổi tài khoản (từ tài khoản thanh toán sang tài khoản tiết
kiệm)…Ngân hàng TMCP Bảo Việt (BaoVietBank) cho biết, đơn vị này đang triển
khai giai đoạn 2 dịch vụ SMS Banking và Internet Banking với các tính năng tài chính
bên cạnh các tính năng truy vấn thông thường. Sau một thời gian triển khai dịch vụ
chuyển khoản qua tin nhắn tại 8 chi nhánh, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
(VietinBank) cũng đã chính thức triển khai dịch vụ này trên quy mô toàn quốc…
Ngoài những nỗ lực để hội nhập với nền kinh tế thế giới xuất phát từ phía DN, cần
kể đến vai trò “bà đỡ” của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi trong việc hỗ trợ tạo ra
môi trường thuận lợi, định hướng, cung cấp thông tin và có thể trong một chừng mực
nào đó có chính sách hỗ trợ, ưu đãi.
Chính phủ cũng đã minh bạch hoá, cụ thể hoá bằng chính sách nhằm động viên, hỗ
trợ, định hướng cũng như bảo hộ luật pháp cho các thành phần trong và ngoài nước
tham gia lĩnh vực phân phối. Tháng 2/2007, Bộ Thương mại cũ, nay là Bộ Công
Thương đã đệ trình và được Thủ tướng phê duyệt Đề án phát triển thương mại trong
nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị
định 23 hướng dẫn Luật Thương mại quy định chi tiết về hoạt động thương mại cho
các DN có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực mua bán và các lĩnh vực

liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Bộ Thương mại cũ cũng đã có thông tư
hướng dẫn chi tiết nghị định trên và quyết định công bố lộ trình mở cửa thị trường
2.4.3. Những khó khăn, hạn chế làm giảm tính cạnh tranh của DNBL Việt Nam
Trước mắt các DN phân phối bán lẻ Việt Nam chưa gặp khó khăn về việc phải
cạnh tranh trực tiếp với các tập đoàn phân phối nước ngoài. Điều mà các DN sẽ phải
chuẩn bị ứng phó đó chính là những nguyên nhân xuất phát nội tại từ DN và yếu tố
khách quan của thị trường.
2.4.3.1. Những yếu tố chủ quan
Thứ nhất, các DNBL Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa
Xét về tổng thể thì 97% các DN Việt Nam có quy mô nhỏ (số liệu đến cuối năm
2008). Hơn nữa, có quá nhiều DN cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng
một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các DN giảm sút.
Thứ hai, tiềm lực về tài chính hạn chế (đặc biệt là các DN tư nhân)
Thiếu vốn đầu tư ban đầu, vốn lưu động, vốn nâng cấp cơ sở hạ tầng và đào tạo
nhân viên, dẫn đến tình trạng các DN không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có
chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh
doanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo khảo sát của bộ thương mại, các
ngân hàng trên địa bàn TPHCM, chỉ có 32% số NHTM có mức độ ứng dụng công
nghệ đạt trên 70%, còn 12% số NHTM ứng dụng công nghệ từ 30% - 50%, 8% số
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 18
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
NHTM có mức độ ứng dụng công nghệ dưới 30% trong những nguyên nhân được đề
cập đến thì nguyên nhân chính của các bất cập trên là thiếu vốn đầu tư.
Thứ ba, phần lớn hoạt động thương mại của VN diễn ra thông qua các loại hình
thương mại truyền thống.
Ở nước ta hiện nay, đại bộ phận hàng hoá đang được phân phối đến người tiêu
dùng qua kênh này. Theo thống kê, các hình thức phân phối hiện đại như siêu thị,
trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích thực hiện theo hình thức tư phục vụ… của DN
Việt Nam tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng,

Cần Thơ, Biên Hòa… với quy mô lớn, mặt bằng kinh doanh trên 10 ngàn m2 chỉ
chiếm từ 5 - 8% doanh thu bán lẻ của địa phương ấy, còn lại là của các cơ sở bán hàng
nhỏ lẻ. Hệ quả là văn minh thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng hàng
hóa đang là những vấn đề lớn đặt ra cho quản lý nhà nước.
Thứ tư, nguồn cung cấp hàng hoá hạn chế, đặc biệt là nguồn hàng nhập khẩu so
với các DN nước ngoài.
Việt Nam hiện có khoảng 400 siêu thị, và phần lớn hàng hoá (trung bình ≈ 92%) là
hàng của Việt Nam. Tuy nhiên, với phân khúc khách hàng có thu nhập cao và rất cao
thì họ thường quan tâm tới hàng ngoại nghiều hơn là hàng nội. Họ yêu cầu phải là gạo
Thái, Pizza Ý, kem Mỹ, thịt bò Úc, cá hồi Bắc Âu…Nhưng những nguồn cung cấp các
mặt hàng đó không phải lúc nào cũng sẵn có và dễ nhập như Big C hay Metro. Đặc
biệt vào những dịp lễ tết thì việc thiếu hụt hàng hoá, nhất là các thực phẩm tươi thì
càng trầm trọng. Cầu tăng mà nguồn cung lại có hạn, buộc các DN hoặc phải tăng giá
hoặc phải tìm các nguồn cung cấp khác, gây khó khăn rất lớn cho hoạt động kinh
doanh.
Thứ năm, chưa đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, chiến
lược marketing tổng thể, đa dạng sản phẩm và xây dựng thương hiệu.
Ngoài vấn đề về thiều vốn để đầu tư, thì nhận thức về tầm quan trọng của kênh
phân phối, xây dựng thương hiệu của nhiều DN còn hạn chế. Ngoài 5 DN lớn đã kể
đến ở trên, có sự quan tâm ứng dụng CNTT, cũng chỉ đạt tới 70%, còn hầu hết các DN
nhỏ lẻ khác, con số này trung bình chưa đến 40%. Việc tạo lập thương hiệu sản phẩm
và DN còn bị xem nhẹ, chưa thực sự coi thương hiệu là tài sản của DN. Số lượng DN
xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng còn ít, dẫn đến vấn đề chất lượng sản
phẩm cung cấp không đảm bảo an toàn, gây phản cảm đối với khách hàng và giảm uy
tín của DN.
Thứ sáu, văn hóa DN, văn minh thương mại, hệ thống dịch vụ của các DN Việt
Nam còn thiếu và yếu.
Năm 2009, năm chứng kiến mức lạm phát kỉ lục lên tới 2 con số, và vấn đề mà
người tiêu dùng cũng như các DNBL phải đối mặt là việc gía cả leo thang. Những
nhân viên tuyến đầu thường phải đối mặt với sự khó chịu của khách hàng, nhưng nhiều

nhân viên có lẽ không hiểu được sự phức tạp của giá cả leo thang, đặc biệt là các nhân
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 19
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
viên thu ngân. Gây hậu quả là khi khách hàng phẫn nộ về việc phải trả nhiều tiền hơn
cho các sản phẩm mà họ mua, các nhân viên này đã cáu gắt với khách hàng, làm cho
cả đôi bên cùng cảm thấy rất bức xúc. Bởi vậy, việc giáo dục nhân viên của các DNBL
là điều trở nên vô cùng cần thiết.
Thứ bảy, khả năng liên doanh liên kết giữa các DN chưa chặt chẽ, điều đó phần nào
làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng DN.
Đó là liên kết dọc giữa nhà sản xuất - nhà bán buôn - nhà bán lẻ; liên kết ngang
giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn, nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân
phối với các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng…Thực tế đã chứng minh, việc hợp tác
tốt với các đối tác như Hapro, Nguyễn Kim, và cả Vinatex Mart đã có những sự phát
triển vượt bậc về chất và nhanh chóng tạo thế trên thị trường. Tuy nhiên, điều đó chỉ
đúng đối với một số DN lớn và có kinh nghiệm lâu năm trên thị trường. Còn hầu hết
các DN vừa và nhỏ còn lại đều đã có liên kết nhưng không phải DN nào cũng có tư
tưởng làm tốt mà chủ yếu mới ở dạng hình thức và luôn thủ thế với nhau. Điều này còn
được thể hiện ở quan hệ giữa DN sản xuất và DNBL. Có vô số câu chuyện để cho thấy
cả hai bên vẫn chưa thực lòng với nhau và sẵn sàng hành hạ, bội ước khi có điều kiện.
Tại DNBL thì nhân viên sẵn sàng tiêu cực, bắt bí các nhà sản xuất khi đưa hàng vào
siêu thị. Còn nhà sản xuất cho các mặt hàng thì sẵn sàng phá hợp đồng khi thị trường
có biến động.
Thứ tám, môi trường kinh doanh của DN còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa thực
sự chú trọng việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh, hạn chế khả năng cạnh tranh bằng giá
(giá thành các sản phẩm trong nước cao hơn các sản phẩm nhập khẩu từ 20% - 40%).
Ngoài những hạn chế thuộc nội bộ DN kể trên, các DNBL Việt Nam hiện nay còn
phải đối mặt với các khó khăn từ bên ngoài như môi trường luật pháp, giá thuê các
dịch vụ tài chính, thậm chí là cả mặt bằng kinh doanh.
2.4.3.2. Những yếu tố khách quan

Thứ nhất, môi trường chính sách cho hoạt động bán lẻ còn chưa đồng bộ, lỏng lẻo.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, Chính phủ đã sửa đổi và
ban hành mới nhiều chính sách cũng như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để
điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có quy định thống
nhất về dịch vụ phân phối, chưa làm rõ các khái niệm bán buôn, bán lẻ, tiêu chi kiểm
tra nhu cầu kinh tế (ENT). Đồng thời, các văn bản hiện hành cũng thể hiện nhiều bất
cập, nhất là trong việc quản lý hàng hàng hoá hạn chế kinh doanh và kinh doanh có
điều kiện.
Thêm vào đó, trong khâu quản lý nhà nước, Việt Nam còn hạn chế về việc lập quy
hoạch, ở cả Trung ương và địa phương. Rất nhiều nước trên thế giới đã có luật quy
định cụ thể về vấn đề này, nhưng hiện nay, ở các tỉnh thành phố mới chỉ xây dựng quy
hoạch ngắn hạn và được ban hành dưới dạng đề án chứ không có văn bản quy định
chung để phân cấp và định hướng quy hoạch.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 20
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Thứ hai, thuế suất thuế thu nhập DN của Việt Nam còn khá cao so với tương quan
thuế TNDN của nhiều nước trên thế giới.
Nếu xét trên bình diện quốc tế, chính sách thuế thu nhập DN chưa tạo được bước
đột phá về năng lực cạnh tranh cho DN, bởi lẽ so với thuế bình quân của các nước là
27%, các nước đang phát triển là 29%, mức thuế suất của VN ở mức trung bình, tuy
nhiên vẫn cao hơn so với các nước trong khu vực là 20% của HQ, 19% của Singapore
và bằng mức 25% của TQ, trong khi năng lực cạnh tranh của các DN nước này đều
cao hơn các DN Việt Nam.
Thứ ba, giá thuê mặt bằng bán lẻ quá cao
Kết quả khảo sát của công ty CB Richard Ellis Việt Nam (CBRE) về thị trường bất
động sản bán lẻ cho thấy, hiện nay thị trường mặt bằng bán lẻ của TP.HCM có khoảng
493.000m² cho tất cả các loại hình. Giá thuê trong quý 1/2010 có chiều hướng tăng
nhẹ. Trong đó, giá thuê cao nhất đạt mốc 220 USD/m2/tháng cho ki-ốt trong Diamond
Plaza (quận 1). Dự báo, cả năm 2010, diện tích mặt bằng bán lẻ sẽ có thêm 127.700m2

sàn mới. Việc giá thuê quá cao này đã đẩy DN đẩy chi phí tài chính của DN tăng cao,
nhiều DNBL vừa mới thành lập đầu năm 2009, đến giữa năm 2010 đã tuyên bố phá
sản vì không đủ vốn để kinh doanh.
Thứ tư, tâm lý sính ngoại của người Việt có thu nhập cao
Thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng
(tăng 17 lần kể từ năm 1993 đến năm 2009), tầng lớp trung lưu với thu nhập
250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên
500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị, thì tâm lý thích dùng đồ
ngoại của Việt Nam cũng vì đó mà tăng theo. Theo khảo sát của Big C, có khoảng
28% lượt khách hàng đến khu vực “hàng ngoại” của trung tâm này năm 2007, đến năm
2009, con số này là 34% (số liệu do ông Nguyễn Thái Dũng – phó tổng giám đốc tập
đoàn BigC cung cấp). Người tiêu dùng luôn có tâm lý các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài như Big C thì hàng hoá hầu hết phải là hàng nhập ngoại. Tuy nhiên, trên thực tế
thì tới 95% hàng hoá của Big C là hàng nội.
2.5. Mô hình SWOT đánh giá năng lực cạnh tranh của các DNBL Việt Nam
Dựa vào thực trạng hoạt động đã được phân tích ở trên, chúng ta có thể khái quát
lại và đưa ra mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của các DNBL Việt Nam như sau:
- Đối tượng và chủ đề đánh giá: Năng lực cạnh tranh DNBL Việt Nam
- Mô hình SWOT:
(1) Strengths (Điểm mạnh):
+ Hiện tại chiếm đa số thị phần trên thị trường với các DN lớn như Saigon-Coopmart,
VinatexMart, Nguyễn Kim… Xu hướng liên kết nội tại DN và giữa các DN với nhau
đang ngày càng phổ biến thông qua các tổ chức như Hiệp hội bán lẻ Việt Nam (AVR),
thành lập Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Hệ thống phân phối Việt Nam( VDA)

Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 21
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
+ Với mạng lưới các điểm bán lẻ khá dày đặc, phân bố khắp nơi đang trở thành một lợi
thế cho doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam. Hơn ai hết, các doanh nghiệp và hộ

kinh doanh Việt Nam gắn bó về văn hóa, hiểu biết về tập quán, nhu cầu, sở thích và
thói quen của người tiêu dùng Việt Nam.
+ Các sản phẩm và dịch vụ kèm theo được cung cấp ngày càng nhanh chóng và thuận
tiện, cải tiến theo chiều hướng chất lượng ngày càng tốt hơn và phù hợp với nhu cầu
cũng như túi tiền của người tiêu dùng.
+ Các DN Việt Nam với quy mô vốn nhỏ có khả năng thâm nhập thị trường ngách cao,
nhất là thị trường ở khu vực nông thôn, nơi tập trung ≈ 70% dân số Việt Nam (theo số
liệu điều tra về dân số và nhà ở tháng 4/2009).
+ Các nhà bán lẻ Việt Nam cũng rất cởi mở, sẵn sàng học tập cũng như liên kết với các
nhà bán lẻ của nước ngoài.
(2) Weaknesses (Điểm yếu):
+ Nguồn tài chính ít: Không đủ để đầu tư vào hệ thống logistic (hậu cần) gây ra sự
thiếu hụt hàng hoá vào những dịp mua sắm như lễ tết – một vấn đề đau đầu của các
DNBL Việt Nam.
+ Tính không chuyên nghiệp: Các chuyên viên mua hàng tỏ ra không nhạy bén trong
việc điều đình với nhà cung cấp trên tất cả mọi phương diện từ giá cả, số lượng, thời
gian giao nhận hàng, các chương trình tiếp thị, khuyến mãi, quy cách bao bì, đóng
gói ; các trang thiết bị, kênh phân phối còn đơn giản…tỏ ra kém cạnh tranh so với các
DN nước ngoài như METRO cash & carry, Big C…
+ Liên kết giữa các DN và các hệ thống phân phối của DN đã được hình thành nhưng
vẫn còn lỏng lẻo, không mang tính toàn diện.
(3) Opportunities (Cơ hội):
+ Thị trường bán lẻ Việt Nam rất hấp dẫn do dân số đông, quá trình đô thị hoá gia
tăng, mức thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện. Năm 1993, theo điều tra
của WB, thu nhập bình quân/ người/ tháng của Việt nam là 170 usd, đến năm 2009,
con số này đã là 1035 usd, tăng ≈ 7 lần. Tốc độ đô thị hoá ở Việt Nam thì tăng >2,5
lần kể từ năm 1990 (17-18%) đến 2010 (52%).
+ Kênh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện ích)
hiện mới chiếm khoảng 20% trong hệ thống phân phối. Tỷ trọng này khá thấp nếu so
với các nước trong khu vực như: Philippines hiện nay là 33%, Thái Lan 34%, Trung

Quốc 51%, Malaysia 60% và Singapore đã chiếm tới 90%. Các loại hình bán lẻ đa
dạng và hiện đại đã dần xuất hiện và phát triển ở Việt Nam, tuy nhiên một số loại hình
còn ở mức độ sơ khai.
+ Mặc dù đã mở cửa thị trường bán lẻ theo các cam kết gia nhập WTO nhưng hiện
nay, các DN nước ngoài vẫn chưa đầu tư ồ ạt vào Việt Nam, mới chỉ ở giai đoạn thăm
dò, bởi vậy các DN trong nước vẫn còn cơ hội giữ được thị phần bằng các biện pháp
khác nhau.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 22
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
(4) Threats (Thách thức):
+ Mở cửa thị trường hoàn toàn, điều này có nghĩa, các đại gia bán lẻ nước ngoài có
quyền không khác gì so với bất kì một DNBL Việt Nam nào khác. Nhìn vào mô hình
kinh doanh của các DNBL nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam trong lĩnh vực hàng tiêu
dùng nói chung như Big C, Parkson, Pico… có thừa kinh nghiệm và tiềm lực tài chính,
rõ ràng, các DNBL Việt Nam đang đứng trước một thách thức rất lớn về cách thức tiếp
cận và lôi kéo khách hàng, lợi thế về sự quen thuộc cũng không hẳn là một lợi thế lâu
dài.
+ Các tập đoàn nước ngoài đang dần chiếm tỷ trọng khá ấn tượng trong phân phối bán
lẻ hiện đại tại các thành phố lớn (55%), đẩy DN phân phối Việt Nam về vùng nông
thôn.
+ Các văn bản về dịch vụ phân phối còn chồng chéo và thiếu minh bạch cũng là thách
thưc rất lớn khiến cho các DN nhiều trường hợp lúng túng khi mở rộng hệ thống bán
lẻ.
4 chiến lược cơ bản để dựa vào đó phân tích năng lực cạnh tranh:
(1) SO (Strengths - Opportunities): các chiến lược dựa trên ưu thế của DNBL để
tận dụng các cơ hội thị trường.
(2) WO (Weaks - Opportunities): các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua các
yếu điểm của DN để tận dụng cơ hội thị trường.
(3) ST (Strengths - Threats): các chiến lược dựa trên ưu thế của của DN để tránh

các nguy cơ của thị trường.
(4) WT (Weaks - Threats): các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua hoặc hạn chế
tối đa các yếu điểm của DN để tránh các nguy cơ của thị trường.
Trên đây là những phân tích về tình hình hoạt động kinh doanh của các DNBL Việt
Nam. Có những cơ hội đang mở ra, những nỗ lực để biến các cơ hội trở thành lợi
nhuận, nhưng cũng có những khó khăn xuất phát từ cả hai phía DN và phía Chính phủ
làm giảm khả năng cạnh tranh của các DN nội địa. Trước tình hình các tập đoàn bán lẻ
nước ngoài chưa đổ bộ vào Việt Nam, mới đang ở giai đoạn thăm dò, việc tìm ra các
giải pháp để các DNBL Việt Nam có thể giữ được thị phần và cạnh tranh được với các
tập đoàn nước ngoài là một vấn đề rất mà cả DN lẫn Chính Phủ cần phải xem xét và
phối hợp một cách đông bộ và nhuần nhuyễn.
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 23
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DNBL VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HNKTQT
3.1. Những xu hướng mới trong bán lẻ
Để có được hướng đi hiệu quả trong việc phát triển hoạt động kinh doanh bán lẻ,
trước hết, cần phải nắm rõ những xu thế vận động mới. Mặc dù có rất nhiều kịch bản
đã được vạch ra thể hiện vai trò quan trọng của các DN, của Chính phủ và cả người
tiêu dùng trong việc thúc đẩy thị trường hoạt động hiệu quả, từ đó đưa ra được các giải
pháp thích hợp nhằm nâng cao năng lực của các DNBL Việt Nam trong quá trình cạnh
tranh. Ở đây chỉ xin để cập tới một số xu hướng vận động cơ bản sau:
3.1.1. Về thị trường
3.1.1.1. Sự đổ bộ dồn dập của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài
Đây là xu thế mà ai cũng có thể nhận ra khi thời gian càng dời ra xa mốc 1/1/2009,
theo kinh nghiệm của nước láng giềng Trung Quốc, sau ba năm đủ để có thể thăm dò
được sự màu mỡ của thị trường bán lẻ Việt Nam, thì miếng bánh “bán lẻ” sẽ bị chia
nhỏ cho các tập đoàn nước ngoài.

3.1.1.2. Phát triển các hình thức bán lẻ mới
Có thể nói “chợ Internet” đang từng bước cạnh tranh với các hình thức buôn bán
truyền thống. Internet đã làm một cuộc cách mạng trong ngành buôn bán, tạo nên một
không gian ảo để các nhà sản xuất và người tiêu dùng trao đổi với nhau, giúp các
doanh nghiệp giảm bớt chi phí về nhân viên, hành chính, mặt bằng chi nhánh, giải
quyết vấn đề hàng tồn kho
Bên cạnh các kênh bán hàng qua Internet, truyền hình, e-mail, tiềm năng chưa được
khai phá của chiếc điện thoại di động là rất lớn. Internet, truyền hình có lợi thế riêng
nhưng không thể mang theo bên mình mọi lúc như một chiếc điện thoại di động.
Trong vòng hai năm, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có thị
trường điện thoại di động phát triển nhanh nhất trên thế giới. Điều này đang và sẽ mở
ra những cơ hội mới cho ngành bán lẻ của Việt Nam trong tương lai.
3.1.2. Xu hướng vận động của DN
3.1.2.1. Kết hợp các kênh phân phối
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thế giới, xu hướng tương lai của thị
trường bán lẻ Việt Nam là sự kết hợp giữa chợ truyền thống và trung tâm thương mại
(TTTM). Và, theo đà tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam và thị trường bán lẻ, cùng
với sự phát triển về đô thị và khu dân cư thì các TTTM, siêu thị và đại siêu thị sẽ dần
trở nên là một phần của nhu cầu tiêu dùng trong cuộc sống của người Việt Nam.
Mô hình khu bán lẻ với một phần là chợ truyền thống, một phần là TTTM hiện đại
sẽ trở thành xu hướng vận động chung của thị trường bán lẻ trong thời gian tới. Bởi
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 24
Đề tài: “Một vài kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập KTQT
điều này vừa không làm mất những khách hàng quen thuộc của chợ truyền thống; đồng
thời thu hút thêm lượng khách trẻ, thu nhập cao thích thú với mô thức bán lẻ hiện đại.
Ngoài ra, với mô hình này, khách hàng của chợ truyền thống cũng có thể đến khu
TTTM mua sắm, đóng vai trò khách hàng lớn của khu bán lẻ hiện đại; khách hàng của
TTTM cũng có thể đến chợ truyền thống mua sắm, thu hút nhiều khách hàng có thu
nhập cao cho chợ truyền thống.

3.1.2.2. Sự liên kết chặt chẽ của các DN
Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, đặc biệt với ngành bán lẻ khi đang ráo riết
chuẩn bị đón các đại gia bán lẻ nước ngoài, thì việc các DN liên kết lại, tạo ra lợi thế
cạnh tranh của cả một ngành là điều hết sức cần thiết.
3.1.3. Sự thay đổi phong cách tiêu dùng
Thay đổi cách thức mua sắm của người tiêu dùng
Thói quen và cách thức mua sắm của người tiêu dùng tại Việt Nam đang thay đổi
một cách nhanh chóng. Ngày càng có nhiều người chuyển từ kênh mua sắm truyền
thống sang các kênh mua sắm hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện lợi
Mua bán trực tuyến đang trở thành thói quen của nhiều người tiêu dùng trên thế
giới. Việc bán hàng qua điện thoại di động và trên mạng xã hội là một bước tiến.
Bên cạnh đó, thiên tai dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến thị trường bán lẻ, do vậy sản
phẩm hàng hóa, bao bì xanh, sạch, thân thiện với môi trường là xu hướng của người
tiêu dùng hiện nay và trong tương lai.
3.1.4. Sự can thiệp sâu hơn của nhà nước
Sau khủng hoảng, lĩnh vực bán lẻ sẽ không trở lại bình thường mà có những chuẩn
mực mới, kịch bản mới. Do những lợi thế rõ ràng của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài,
sự yếu kém của hệ thống bán lẻ nội địa, Nhà nước sẽ can thiệp sâu hơn, ngân hàng sẽ
cẩn trọng hơn trong việc cho vay…Bởi vậy các DN cần phải bám sát các chương trình,
định hướng phát triển của Chính phủ và có kế hoạch kinh doanh hợp lí.
Trên đây là các nhận định về các xu thế vận động của bán lẻ, dựa vào đó, chúng ta
có thể đưa ra các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBL Việt Nam
như sau:
3.2. Các giải pháp từ phía DN
3.1.1. Chính sách thị trường
Thứ nhất, quan tâm hơn nữa tới thị trường nông thôn
Ở Việt Nam, khu vực nông thôn chiếm tới 70% dân số, đây thực sự là một thị
trường đầy tiềm năng cho các DN. Tuy nhiên, thị trường này chưa được các DNBL
Việt Nam khai thác triệt để. Như đã phân tích ở chương II, thị trường nông thôn đầy
tiềm năng này cũng sẽ không mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các DNBL nếu họ chỉ

dừng lại ở chuyện mang hàng đi bán mà là sự quan tâm, chăm sóc khách hàng bằng
nhiều cách khác nhau, đặc biệt là chính sách giá hấp dẫn do phần lớn người tiêu dùng
Đào Thị Thuần – KTQT 49A – Khoa thương mại và kinh tế quốc tế Page 25

×