Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.57 KB, 13 trang )

phòng giáo dục thị xã cẩm phả
sáng kiến kinh nghiệm
tên đề tài:
S DNG CC PHNG PHP TRề CHI GY HNG TH HC TP CHO
HC SINH
ngời thực hiện: xuân thị cẩm vân
giáo viên: tiếng anh
trờng: thcs cẩm sơn
năm học: 2006 - 2007

1
A- phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
a. Cơ sở lý luận :
Để phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay là: phát triển tính năng động, sáng
tạo tích cực của học sinh, tạo cho các em khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề.
Phơng pháp dạy Tiếng Anh trong các trờng trung học cơ sở đã có rất nhiều đổi mới.
Theo chỉ đạo của viện khoa học giáo dục trong cuốn Đổi mới phơng pháp dạy học
ở trờng trung học cơ sở do PGS PTS Trần Kiều chủ biên, xuất bản năm 1997. Việc
dạy Tiếng Anh bây giờ đã tiến theo hớng tích cực hoá hoạt động của học sinh, giúp
các em lĩnh hội tri thức bằng hoạt động của chính mình và điều quan trọng nhất là
tạo cho các em phơng pháp và ý chí tự học.
Với quan điểm này, việc dạy Tiếng Anh đã chọn giao tiếp làm phơng h-
ớng chủ đạo. Các bài học trong chơng trình Tiếng Anh từ lớp 6 đến lớp 9 đều sử
dụng hành động lời nói làm đơn vị dạy học cơ bản. Trong hai năm đầu của chơng
trình THCS ( lớp 6+7) các kỹ năng nghe, nói đợc chú trọng nhiều hơn, nhằm phát
triển khẩu ngữ cho các em. Hai năm tiếp theo ( lớp 8+9) kỹ năng đọc, viết đợc cân
bằng với kỹ năng, nghe nói. Việc phát triển đồng đều cả bốn kỹ năng này là rất
quan trọng.
Đối với học sinh, Tiếng Anh là một môn học tơng đối khó. Điều đặc biệt là
lại càng khó hơn đối với học sinh cha chăm chỉ. Là ngời Việt Nam nói tiếng nớc


ngoài, các em thờng sợ khi cầm một quyển sách chỉ toàn tiếng nớc ngoài, không hề
có Tiếng Việt. Vậy làm thế nào để học sinh yêu thích môn học. Tôi nghĩ rằng điều
đầu tiên là phải gây hứng thú học tập bằng cách sử dụng các phơng pháp trò chơi
giúp học sinh Học mà chơi, chơi mà học.
b. Cơ sở thực tiễn
2
Môn Tiếng Anh là môn học về xã hội, thực tế, sinh động và cuốn hút học sinh,
giúp học sinh tìm hiểu và khám phá những tinh hoa của thế giới, nhân loại. Đặc
biệt, Tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp, là nhịp cầu tình bạn giữa Việt Nam và các n-
ớc trên thế giới. Tiếng Anh đợc coi nh là ngôn ngữ giao tiếp của thế giới và rất
nhiều quốc gia sử dụng, Tiếng Anh nh ngôn ngữ thứ hai của mình.
Đối với trờng THCS Cẩm Sơn, phần lớn các em là con em thợ mỏ, điều kiện
kinh tế gia đình các em còn nhiều khó khăn nên việc đầu t cho các em học còn
khiêm tốn. Ngoài ra, có em hoàn cảnh gia đình éo le do tệ nạn xã hội, các em phải
phụ giúp gia đình nên động cơ học tập hầu nh không có, nhiều em học còn rất
chống đối.
Đối với học sinh khối 9, nhìn chung các em ngoan ngoãn, tuy nhiên trong
giờ Tiếng Anh các em còn nhút nhát , cha mạnh dạn nói Tiếng Anh. Vì vậy xây
dựng những tiết học gây hứng thú cho các em bằng những trò chơi giữa các đôi, tổ,
nhóm là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Nó giúp các em nhớ bài lâu hơn, giúp
các em hiểu bài ngay tại lớp, ngoài ra nó còn giúp các em thêm tự tin khi tham gia
vào các hoạt động cụ thể. Từ đó có hớng bồi dỡng và rèn luyện cho học sinh ngày
càng tiến bộ, có hứng thú với môn học và có ý thức học tập bộ môn thật tốt.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Qua nghiên cứu mục tiêu, mục đích của mỗi tiết dạy, tôi thấy mình cần phải
lựa chọn, tìm tòi những kỹ thuật thích hợp nhất cho đối tợng học sinh của mình,
giúp các em từng bớc tiếp cận với phơng pháp mới nhằm phát huy tính năng động,
tích cực của các em và đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ dạy.
3. Đối tợng nghiên cứu:
Học sinh lớp 9a

4
, 9a
5
, 9a
6
.
4. Kế hoạch và thời gian nghiên cứu:
Thông thờng các em thờng chỉ có hứng thú khi mới bắt đầu học vì mẫu câu và
cấu trúc đơn giản. Nhng khi học cao hơn các em lại tỏ ra chán nản, không còn say
mê với bộ môn này nữa. Do vậy kết quả không đợc cao. Ngay từ đầu năm học khi
3
đợc phân công dạy môn Tiếng Anh 9, tôi đã bắt tay ngay vào xây dựng đề tài này
để giúp các em phát triển tốt cả 4 kĩ năng.
5.Phơng pháp nghiên cứu:
Thực hành
Phân tích
Tổng hợp
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn đi đúng nhiệm vụ cơ bản của bộ môn là
giúp các em bớc đầu làm quen với ngoại ngữ, hình thành một số kĩ năng cơ bản,
qua đó các em có thể áp dụng vào giao tiếp. Trên cơ sở đó việc giảng dạy phải đảm
bảo tính cơ bản, tính hiện đại, tính thiết thực và đặc thù của bộ môn. Tính cơ bản đ -
ợc thể hiện ở hệ thống kiến thức đợc giới thiệu trong chơng trình sách giáo khoa.
Tính hiện đại là phải phù hợp với tình hình thực tế đang trong quá trình mở cửa hội
nhập với các nớc, trong việc chọn lựa và áp dụng một cách khoa học phơng pháp
dạy và học ngoại ngữ tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay. Về đặc thù của bộ môn là
giúp các em rèn luyện kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết và có thể áp dụng thành thạo
trong giao tiếp. Luôn khuyến khích các em mạnh dạn khi nói.
Muốn có kết quả cao hơn trong việc dạy và học thì việc chuẩn bị của thầy và
trò là rất cần thiết. Thầy chuẩn bị các giáo cụ trực quan nh: tranh, ảnh , biểu đồ, vật
thật. Những hình vẽ đơn giản trên bảng, giấy, bìa. Các đồ vật dùng trực quan phải

đảm bảo kích thớc để cả lớp có thể quan sát rõ, nội dung thật đơn giản, ngắn gọn,
dễ hiểu, sát với tình hình thực tế bài học của các em. Ngoài ra tôi còn chuẩn bị một
loạt các câu hỏi để vấn đáp các em trong giờ và đặt ra tình huống để các em phản xạ
nhanh, luyện tập kỹ năng.
Công việc chuẩn bị của trò là phải ôn lại những gì đã học thông qua các trò
chơi, hoặc có thể su tầm để chuẩn bị cho bài mới. Trong quá trình giảng dạy tôi cố
gắng dùng mọi phơng pháp để tạo điều kiện cho các em giao tiếp và vận dụng ngữ
liệu đã học thoả mãn các nhu cầu giao tiếp, song không có tính gò bó, bắt ép, mà
4
phải làm thế nào để các em tự giác, chủ động, tích cực. Từ đó các em coi việc học
thực sự trở lên hứng thú, nhẹ nhàng, dễ dàng.
Nghĩa là việc dạy và học phải dợc tiến hành sao cho thoả mãn đến mức tối đa
các nhu cầu và mục đích giao tiếp của các em trong và ngoài lớp. Song việc áp dụng
các phơng pháp còn phải tuỳ thuộc vào từng đối tợng học sinh, khả năng tiếp thu
của các em mà áp dụng các phơng pháp từ dễ đến khó.
B- Nội dung và kết quả nghiên cứu
1. Khảo sát tình hình học sinh:
Qua điều tra tôi đã có một số nét đặc trng về u, nhợc điểm của 3 lớp 9 mà tôi
đảm nhận.
*Ưu điểm: Hầu hết các em ở lứa tuổi cùng nhau, ngoan. Nhiều em tỏ ra có
năng khiếu về môn Anh. Lực học khá nhất là lớp 9a
6
, các em có ý thức học tập và
không khí học tập khá sôi nổi.
* Nh ợc điểm : Lực học trong lớp có sự cách biệt giữa các em học khá và học
yếu. Nhiều em thực sự trầm, vốn từ mỏng, phát âm kém nên không tự tin nói Tiếng
Anh, vì vậy giúp các em sôi nổi trong giờ Tiếng Anh là tơng đối khó.
Từ những điều tra này, tôi đã tìm ra những biện pháp thích hợp cho mỗi tiết
dạy. Có thể có những phần nâng cao chỉ áp dụng đợc ở lớp chọn, nhng mấu chốt
nhất là làm sao để giờ dạy của mình cuốn hút đợc tất cả học sinh, đặc biệt là các

em học cha tốt môn Anh, để phát huy tính tích cực của các em và nhất là giúp các
em có đợc không khí hào hứng, sôi nổi để tiếp thu bài.
2. Một số giải pháp:
* Đối với giáo viên:
Giáo viên luôn nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp phù hợp với từng đối tợng
học sinh và áp dụng triệt để trong các bài học.
5
Nghiên cứu kỹ nội dung sách giáo khoa, bài dạy để hiểu đợc ý đồ của tác giả,
kiến thức trọng tâm mà học sinh cần nắm bắt và phơng pháp rèn luyện phù hợp.
Thờng xuyên trao đổi cùng đồng nghiệp để cùng tháo gỡ những vớng mắc, quá
trình giảng dạy và rút kinh nghiệm cho các giờ dạy sau.
Quan tâm giúp đỡ học sinh học ở nhà cũng nh ở trờng.
Phân loại học sinh để có phơng pháp rèn luyện cho phù hợp.
Giáo viên sử dụng những đồ dùng dạy học cần thiết có chất lợng và rèn luyện
cho mình cách sử dụng đồ dùng dạy học đạt hiệu quả.
* Đối với học sinh:
Phát huy tính tích cực, năng động, nhanh nhẹn và sáng tạo, tạo cho học sinh
niềm say mê và hứng thú học bộ môn Tiếng Anh. Lôi cuốn học sinh tham gia và
hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả.
* Học sinh khá giỏi:
Bồi dỡng các bài tập nâng cao, rèn luyện 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết một
cách nhuần nhuyễn.
Su tầm và vận dụng tốt các dạng bài tập, bài thi, các tình huống giao tiếp.
* Học sinh yếu, kém:
Kiểm tra thờng xuyên việc học trên lớp cũng nh ở nhà.
Thông báo hai chiều giữa giáo viên và phụ huynh về tình hình học tập để cùng
đôn đốc kiểm tra.
Khuyến khích, động viên và quan tâm đến hoàn cảnh và điều kiện học sinh ở
nhà để có biện pháp tích cực trong việc rèn luyện ý thức học tập và giúp các em
hiểu đợc ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn Tiếng Anh.

3. Kinh nghiệm sử dụng các phơng pháp trò chơi gây hứng thú
học tập cho học sinh:
Việc phát hiện và khắc phục các nguyên nhân dẫn đến một bộ phận học sinh
cha có hứng thú học Tiếng Anh cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể ngay từ đầu năm
6
học. Công việc này phải đợc tiến hành liên tục và thực hiện thông qua các bài cụ
thể.
Giáo viên phải có kế hoạch bồi dỡng học sinh để hình thành và phát triển hứng
thú học bộ môn.
Hớng dẫn học sinh phơng thức học tập ở nhà cũng nh ở lớp.
Ghi chép bài đầy đủ, tích cực phát biểu ý kiến, mạnh dạn hỏi thầy, hỏi bạn,
chú ý nghe cách đọc, cách phát âm của giáo viên, thực hành theo nhóm, cặp, đọc và
tra cứu từ mới chuẩn bị cho bài sau.
Học sinh đợc trang bị các kiến thức cơ bản, sẽ phát huy hết khả năng của mình
trong các tiết học, say mê tìm tòi, khám phá những điều mà các em cha hiểu và tích
cực hơn trong các hoạt động trên lớp.
*Tiến hành thực hiện:
1. Những trò chơi để kiểm tra bài cũ và tạo không khí sôi nổi ngay từ đầu tiết
học gồm: matching, hangman, bingo, shack attack, kim game, jumble words, net
words, simon say, brain storm, wordsquare, chatting, noughts and crosses,
pelmanism.
Tôi đã lựa chọn từng phơng pháp phù hợp với đối tợng học sinh và thay đổi th-
ờng xuyên các phơng pháp để tránh sự nhàm chán mà vẫn tạo cho học sinh thói
quen và kĩ năng vận dụng từng trò chơi. Tạo đợc sự hào hứng thi đua và phù hợp đối
với học sinh đại trà mà vẫn tiết kiệm dợc khoảng thời gian luyện tập đó là:
hangman, bingo, shark attack, jumble words
2.Tôi đã áp dụng phơng pháp mới vào dạy từ. Ngay từ bớc đầu, tôi đã thấy giờ
học sôi nổi hẳn lên, các em chủ động, tham gia tích cực vào giờ học. Không chỉ có
em học khá giỏi mà cả em học yếu, kém cũng đã chú ý đến. Trong mỗi bài tôi chỉ
giới thiệu tối đa là 8 từ và là những từ chủ động. Từ chủ động là những từ xuất hiện

trong bài rèn luyện kĩ năng nói và viết.
Những từ này tôi đã chú trọng trong bài dạy để giúp các em không những nắm
dợc nghĩa của từ mà còn có thể sử dụng lại đợc nói và viết trong ngữ cảnh có tình
7
huống giao tiếp tơng tự. Trớc khi giới thiệu từ, tôi thờng đa ra gợi ý để các em đoán
từ, có thể bằng tiếng anh đối với các từ đơn giản hoặc cụ thể.
Ví dụ:
T: Where can I buy a lot of petrol ?
S
S
: At the gas station.
Hoặc có thể dùng tiếng việt để gợi ý cho các em đoán từ mà giải thích cho các
em bằng tiếng anh thì các em khó hiểu.
T: Các em có biết nớc ta thuộc vành đai khí hậu nào không?
S
S
: Khí hậu nhiệt đới
T: All right. tropical climate
S
S
: Repeat: tropical climate
Ta có thể cho các em đoán từ qua tranh ảnh
T: Cho các em xem bức tranh về Hà nội và hỏi What is it?
S
S
: It is Hanoi
T: What is Hanoi?
S
S
: It is the capital of Vietnam.

Một cách đoán từ nhanh nhất là dùng vật thật
T: Giơ cho các em xem một cái áo ngắn tay và hỏi: What is
this?
S
S
: It is a short-sleeved blouse.
Ngoài ra ta có thể dùng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa cho các em đoán từ
T: This exercise is difficult.
S
S
: No, it is easy.
Khi giới thiệu từ, tôi giới thiệu từng từ một, trớc hết tôi phát âm cho các em
nghe sau đó yêu cầu cả lớp nhắc lại rồi mới ghi lên bảng để các em nhận biết từ,
đồng thời cho biết thể loại của từ đó là gì, danh từ, động từ, tính từ, lấy ví dụ với từ
cần dạy ở trong bài tôi giới thiệu lần lợt và thực hiện đầy đủ các bớc đã nêu trên.
Sau khi đã giới thiệu đủ số lợng từ tôi cho cả lớp đọc lại đồng thanh.
8
Để kiểm tra việc nhớ từ của các em, tôi đã dùng thủ thuật Rub out and
remember là lần lợt xoá từ mà các em đã học, khi xoá từ nào thì cho các em nhắc
lại ngay từ đó, tiếp tục nh vậy cho đến khi số từ mới trên bảng đã đợc xoá hết, nghĩa
là trong khi đó các em phải t duy để nhớ từ mà mình vừa đã đợc học. Sau đó gọi
một số em lên bảng viết lại và yêu cầu cả lớp cùng sửa lỗi cho bạn hoặc tôi ra câu
đố. Nh vậy với khoảng thời gian từ 7 đến 10 phút, các em có thể nhớ ngay dợc lợng
từ mà tôi giới thiệu, nhng tuỳ theo từng đối tợng và ở các lớp khác nhau thì yêu cầu
này đặt ra sao cho phù hợp.
Sau khi áp dụng thủ thuật này qua nhiều bài và ở nhiều lớp khác nhau, tôi thấy
việc nắm từ của các em có kết quả hơn, không những thế mà các em yếu kém cũng
có thể nhớ đợc một số từ, các giờ học trở lên sôi nổi, các em hứng thú vào bài học.
Ngoài ra tôi còn áp dụng một số thủ thuật khác nh What and where,
Noughts and crosses, Bingo, Slap the board, Guess the picture words,

Word squares và nhiều trò chơi khác nữa. Các thủ thuật này đều gây đợc hứng
thú cho các em, giờ học không căng thẳng, nó tạo đợc không khí môi trờng cho các
em học.
Để kiểm tra mức độ tiếp thu của các em tôi đã đặt câu hỏi, dùng hình thức điền
khuyết, bổ sung trong câu nói:
T: It is the result of an abrupt shift in the underwater movement of the
Earth. We call it a
S
S
: We call it a tidal wave.
Or
T: A person who comes from other planet is an
S
S
: An alien.
Vì cách kiểm tra này các em có thể lần lợt nhắc lại các từ mà mình vừa đợc
học.
3.Sau khi áp dụng phơng pháp mới vào dạy từ vựng có kết quả, tôi áp dụng
những trò chơi vào giới thiệu bài mới và luyện tập khắc sâu kiến thức của bài gồm:
9
presentation dialogue, picture story, wordcues, matching, T/F prediction,
comprehention questions, ordering statements, answers given, open prediction,
picturedrill, substitution, repeatation drill, listen and draw, ordering pictures, T/F
statements
Ví dụ nh khi tôi dạy mẫu câu ớc, tôi đa ra một câu thực tế Nam doesnt
have a computer. Vậy Nam sẽ ớc gì? Học sinh sẽ nói đợc Nam ớc có máy vi tính.
Tôi sẽ đa ra câu Nam wishes he had a computer. Từ đó cùng học sinh đa ra mẫu
câu. Nh vậy khi luyện tập tôi chỉ cần đa ra các câu thực tế để học sinh chuyển sang
câu ớc.
Theo phơng pháp mới dạy ngữ pháp là rèn luyện mẫu câu, thể hiện một chủ

điểm ngữ pháp nào đó. Việc rèn luyện này đợc thực hiện theo nguyên tắc thực hành
có ý thức, phải theo trình tự nghe - nói - đọc - viết. Nghĩa là trong khi rèn luyện, các
em không đợc mở sách vì mục đích bài tập và thực hành thói quen và giúp các em
thực hành một cách trôi chảy, chính xác theo những câu nói có kiểm soát.
Để cho việc rèn luyện đợc dễ dàng, ta phải chuẩn bị trớc cho các em bằng cách
thông báo ý nghĩa và nội dung giao tiếp của câu nói. Các từ mới cần đợc dạy trớc
ngữ pháp và cách phát âm qua một số cấu trúc cũ, để khi đa ra câu mới làm giảm tối
thiểu mức độ khó của việc rèn luyện. Việc làm này nhằm thể hiện nguyên tắc thực
hành có ý thức và dạy từ trong câu theo nh quy định.
Nhịp điệu rèn luyện mẫu câu cần đợc liên tục và sinh động. Nếu không bài
luyện tập sẽ trở lên buồn tẻ, gây không khí uể oải cho các em.
Trong lúc điều động lớp, ta phải ở vị trí bao quát lớp, hớng đợc sự chú ý của
các em. Việc thực hiện nên tiến hành đều cho các em, không nên chỉ chú ý vào em
học khá mà ta phải đa ra các câu thật đơn giản, dễ hơn để các em học yếu hơn có
thể làm đợc. Để tạo đợc môi trờng ngoại ngữ trong giờ học, tôi đã dùng ngoại ngữ
để chỉ đạo việc thực hành, ta có thể dùng các câu nói đơn giản thông dụng để giúp
giao tiếp nh Read after me, please!, Look at the board! Open your books!
Close your books!, Repeat, please! và body language. Chỉ bằng các câu nói đơn
10
giản này thôi nhng nó sẽ khuyến khích các em thực hành nói bằng Tiếng Anh trong
giờ học.
Song việc dùng ngoại ngữ trong quá trình dạy học sao cho cân bằng, phù hợp
với từng đối tợng, tránh lạm dụng quá nhiều, thầy nói mà học sinh không hiểu. Cụ
thể khi dạy thời hiện tại hoàn thành với trạng từ already, yet , tôi cho các em xây
dựng hội thoại:
A: Have you seen Giac Lam pagoda yet?
B: Yes, I have already seen it.
A: Have you eaten Vietnamese food yet?
B: No, I havent.
Từ việc xây dựng hội thoại, các em sẽ nắm đợc cách dùng của trạng từ

already, yet trong thời hiện tại hoàn thành. Sau đó tôi cho các em làm bài tập thay
thế để luyện mẫu câu. Muốn thay thế phần nào tôi gạch chân phần đó để các em
nắm đợc phần cần thay thế. Cho tiến hành thay lần lợt. Cứ tiếp tục nh vậy tôi cho
các em luyện các câu còn lại.
4. Để kiểm tra việc nắm ngữ liệu mới và sử dụng mẫu câu hay củng cố nội
dung bài học, tôi đã sử dụng một số trò chơi nh: discussion, write it up, find
someone who, lucky numbers, lucky stars, mapped dialogue, noughts and crosses,
tranformation, writing, chain game, role play, survey, question and answer,
guessing games, exhibition.
Ví dụ: Tôi đã sử dụng Noughts and crosses vào củng cố bài dạy thời hiện tại
hoàn thành.
T: Các em hãy tìm 9 động từ mà các em đã học, yêu cầu mỗi em tìm một động
từ và ghi lên bảng.
write see drive
take clean visit
buy go leave

11
Sau khi các em đã tìm đủ số lợng, tôi phổ biến thể lệ trò chơi là các em phải
đặt câu ở thì hiện tại hoàn thành với trạng từ already hoặc yet và chia lớp
thành 2 đội, nếu đội nào đặt đợc 3 câu đúng theo hàng ngang, dọc, chéo là đội đó
thắng. Một đội sẽ đợc kí hiệu bằng ( 0) và đội kia đợc kí hiệu bằng (X).
Nh vậy các em phải thi với nhau để dành phần thắng. Sau khi áp dụng vào dạy
ở các lớp, tôi thấy các em rất hào hứng, tham gia nhiệt tình vào giờ học, đồng thời
nó khuyến khích các em học yếu cũng tham gia. Ngoài ra tôi cũng dùng một số thủ
thuật khác để kiểm tra và có thể cho một số bài tập nâng cao cho các em luyện tập
thông qua các trò chơi, từng nhóm, từng đội.
Ví dụ nh dạng bài sửa lại lỗi sai:
I have already meet Nga.
Have you saw this movie yet?

They has not finished their work yet.
Với bài này các em học trung bình và yếu cũng có thể làm đợc. Để dành cho
các em học khá hơn, tôi đa ra bài tập cao hơn là dùng từ gợi ý để viết thành câu
hoàn chỉnh qua các trò chơi tiếp sức, đội nào mà xong trớc thời gian quy định và có
nhiều câu đúng nhất đội đó sẽ chiến thắng.
Ví dụ:
The students/ already leave/ classroom.
You/ do/ your homework/ yet?
Nam / not have / breakfast / yet.
Hoặc có thể cho các em làm bài tập sắp xếp lại trật tự từ trong câu để trở thành
câu đúng và có nghĩa.
Ví dụ:
Already / visited / we / Halong Bay / have.
You / have / yet / HCM city / been to ?
Với các thủ thuật đã áp dụng và phối kết hợp với phơng pháp thì tôi thấy hiệu
quả dạy và học có kết quả cao hơn trớc và đặc biệt là giờ học rất sôi nổi. Học sinh
12
khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém. Điều này khuyến khích học sinh chủ động và
tích cực học tập.
C- Kết quả thực hiện
Tuy đề tài này đợc áp dụng cha dài nhng tôi đã thu đợc những kết quả rõ rệt.
Điều đáng nói là những trò chơi đã đem lại cho các em những giờ học bổ ích và lý
thú. Các em thực sự học tập trong không khí hào hứng, sôi nổi và các em có cơ hội
để phát huy tính tích cực của mình. Các em thực sự làm việc dới sự hớng dẫn của
tôi chứ không tiếp thu một cách thụ động, máy móc nh trớc đây và kết quả học tập
của các em cũng chuyển biến rõ rệt. Tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên. Đặc biệt trong
năm học qua đã có 2 em học sinh đạt giải học sinh giỏi tỉnh. Tuy rằng phải đầu t
không ít thời gian, trí tuệ nhng học sinh của tôi đã yêu thích môn học, giờ học
Tiếng Anh. Qua đó tôi thấy đợc việc đa các trò chơi vào giờ học, giúp học sinh
học mà chơi, chơi mà học đã đem lại hiệu quả cho học sinh.



13

×