Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

SKKN Hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược đồ) trong phân môn địa lý 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.34 KB, 9 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM
“Hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược đồ) trong phân
môn địa lý 5”
A- ĐẶT VẤN ĐỀ:
Phân môn Địa lý có vị trí và ý nghĩa sâu sắc vì đây môn học có tác dụng
giáo dục và giáo dưỡng rất lớn. Từ những bài học Địa lý hình thành cho HS
một số biểu tượng, khái niệm, mối quan hệ địa lý đơn giản thông qua những sự
vật, hiện tượng địa lý cụ thể của đất nước ở miền núi và trung du, miền đồng
bằng và miền duyên hải và địa lý thế giới; đồng thời rèn luyện các kỹ năng địa
lý như: Kỹ năng quan sát sự vật hiện tượng địa lý, kỹ năng sử dụng bản đồ, kỹ
năng nhận xét so sánh, phân tích số liệu, phân tích các mối quan hệ địa lý đơn
giản ở Việt Nam, các châu lục và một số quốc gia trên thế giới. Qua đó, góp
phần bồi dưỡng và phát triển ở HS thái độ và thói quen: ham hiểu biết, yêu
thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước con người, tôn trọng và bảo vệ cảnh quan
thiên nhiên văn hóa, bảo vệ môi trường.
Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp
dạy học địa lý ở Tiểu học nói riêng thì: bản đồ, quả địa cầu, bảng số liệu, các
tranh ảnh về địa lý không chỉ là phương tiện để GV minh họa cho bài giảng mà
còn được sử dụng như một nguồn cung cấp kiến thức giúp HS tự tìm tòi, phát
hiện những kiến thức và hình thành kỹ năng bộ môn. Như vậy, đó là đối tượng
để HS chủ động, tự lực khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV. Trong
các phương tiện dạy học kể trên thì bản đồ (lược đồ) là phương tiện rất quan
trọng, chứa nhiều kiến thức để HS khai thác vì thế trong đa số các tiết học địa
lý không thể thiếu bản đồ (lược đồ).
Ý thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sử dụng bản đồ (lược đồ)
cho HS, trong những năm học qua, trong từng tiết dạy tôi luôn cố gắng tìm tòi,
đổi mới phương pháp gảng dạy, tìm ra con đường hợp lý nhất, dễ hiểu nhất
giúp HS có kĩ năng khai thác kiến thức bài học thông qua việc sử dụng bản đồ
(lược đồ). Qua thời gian đổi mới phương pháp dạy học, tôi đã tích lũy cho mình
một số kinh nghiệm trong việc rèn kĩ năng khai thác bản đồ (lược đồ). Sau đây
tôi xin trình bày kinh nghiệm Một số kinh nghiệm “Hướng dẫn HS khai thác


kiến thức từ bản đồ (lược đồ) trong phân môn địa lý 5”
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I- Thực trạng của việc rèn kĩ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) trong dạy –
học địa lý ở Tiểu học hiện nay:
Hình thành biểu tượng và khái niệm địa lý là một trong những mục đích
của việc dạy địa lý ở trường tiểu học và một trong những công cụ không thể
thiếu để thực hiện mục đích ấy chính là bản đồ (lược đồ). Nhưng sử dụng bản
đồ (lược đồ) như thế nào, hướng dẫn HS khai thác kiến thức thông qua bản đồ
(lược đồ) như thế nào là cả một kỹ năng, một phương pháp mà mỗi người GV
cần tự học hỏi và tích lũy để phục vụ cho công tác dạy học của mình. Trải qua
quá trình trực tiếp giảng dạy của bản thân, quá trình dự giờ thăm lớp và trao đổi
ý kiến với đồng nghiệp, bản thân tôi nhận thấy việc sử dụng bản đồ (lược đồ)
trong dạy học địa lý tại nhà trường hiện nay có những vấn đề sau:
1- Đối với GV:
* Về ưu điểm:
- Đa số GV xác định đúng vai trò của bản đồ (lược đồ) trong dạy học địa
lý.
- Đa số GV có kỹ năng sử dụng, biết xác định kiến thức trong bài mà HS
nắm qua bản đồ (lược đồ), biết soạn hệ thống câu hỏi định hướng cho quá trình
dẫn dắt HS tự khám phá kiến thức trong bản đồ (lược đồ).
- GV đã chú trọng việc trang bị một số kiến thức tối thiểu cần thiết cho
HS để biết cách làm việc với bản đồ (lược đồ) như: xác định phương hướng
trên bản đồ, nắm được kí hiệu trong bảng chú giải và có biểu tượng về những
đối tượng địa lý trên bản đồ (lược đồ), nghĩa là đọc hiểu được các kí hiệu trên
bản đồ (lược đồ).
- Chương trình môn Lịch sử và Địa lý đã dành phần mở đầu với 2 tiết
dạy HS làm quen với bản đồ. Sách giáo khoa có hệ thống kênh hình rất phong
phú, đa dạng trong đó các bản đồ (lược đồ) được sắp xếp hợp lý đan xen với
các hình ảnh khác ở mỗi bài, tạo điều kiện để GV tổ chức các hoạt động cho HS
chủ động tìm tòi phát hiện kiến thức mới.

* Về hạn chế:
- Việc khai thác, sử dụng bản đồ (lược đồ) của GV trong từng tiết dạy
chưa nhiều, còn coi nhẹ việc sử dụng bản đồ (lược đồ), chưa nắm vững hoặc
chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của việc khai thác kiến thức trên bản đồ
(lược đồ) trong giảng dạy phân môn địa lý.
- Một số GV còn phô tô, vẽ lại bản đồ (lược đồ) có trong sách giáo khoa
để hướng dẫn HS quan sát trong tiết dạy.
2- Đối với HS:
*Về ưu điểm:
- Một số em bước đầu đã biết sử dụng bản đồ (lược đồ), biết khai thác
kiến thức địa lý từ bản đồ (lược đồ);
- Trên 90% HS có Sách giáo khoa Lịch sử & địa lý;
* Về hạn chế:
- Đa số HS chưa có kĩ năng khai thác kiến thức trên bản đồ (lược đồ);
II- Nguyên nhân:
Thực trạng khai thác kĩ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) nêu trên là do
những nguyên nhân sau:
* Đối với GV:
- Một số GV chưa nắm được tác dụng của hệ thống kênh hình trong sách
giáo khoa nói chung và bản đồ (lược đồ) nói riêng với nội dung mỗi bài dạy
mới chỉ xem đó là những hình minh họa cho hệ thống kênh chữ.
- Mức độ thường xuyên khai thác bản đồ (lược đồ) trong dạy học địa lý
chưa nhiều, thường hay chú trọng trong các tiết thao giảng, các tiết có người dự
giờ, điều này ảnh hưởng đến kỹ năng sử dụng.
- Một số GV kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) chưa cao nên ảnh hưởng
đến khả năng phân biệt các loại bản đồ, tỷ lệ, bảng chú giải và các đối tượng
địa lý thể hiện trên bản đồ (lược đồ) vì thế thường lúng túng khi sử dụng hoặc
khai thác chưa hết thông tin để phục vụ cho bài dạy.
- Một số GV sử dụng bản đồ chưa đúng lúc, đúng nơi. Không phải cứ
đưa bản đồ (lược đồ) cho HS quan sát là sử dụng bản đồ (lược đồ), mà quan

trọng là hướng dẫn HS tìm hiểu gì và tìm hiểu như thế nào mới là quan trọng.
* Đối với HS:
- Một bộ phận không nhỏ HS chưa thiết tha, ham thích học môn địa lý,
nhiều HS coi đó là môn phụ.
- Đa số HS chưa hiểu, chưa biết đọc và khai thác kiến thức bài học thông
qua bản đồ (lược đồ).
* Đối với nhà trường:
- Bản đồ (lược đồ) nói riêng; các đồ dung phục vụ cho việc giảng dạy
phân môn lịch sử, địa lý nói chung còn thiếu. Nếu có cũng chưa đảm bảo chất
lượng về khoa học.
III- Những biện pháp hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược
đồ).
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và những nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng
bản đồ (lược đồ), việc rèn kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) trong việc dạy và
học địa lý chưa đạt hiệu quả cao. Tôi trình bày một số biện pháp mà tôi đã sử
dụng có hiệu quả trong việc hưóng dẫn HS khai thác kiến thức thông qua bản
đồ (lược đồ trong giảng dạy phân môn địa lý lớp 5) trong những năm học qua.
Khi thực hiện các bài học địa lý có liên quan đến sử dụng bản đồ (lược đồ),
mỗi người GV phải trang bị cho bản thân mình những kỹ năng sử dụng, đối với
HS mức độ yêu cầu về kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) trong học tập phải tùy
vào từng đối tượng HS trong lớp. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả khai thác
thông tin tối thiểu trong bản đồ (lược đồ), GV cần thực hiện được các biện pháp
sau:
1- Xác định nội dung kiến thức trong bài mà HS cần nắm qua bản đồ
(lược đồ).
Đây là công việc đầu tiên mang tính quyết định, nó chi phối cho các
bước tiếp theo trong việc hướng dẫn HS khai thác kiến thức qua bản đồ (lược
đồ), nếu GV không chuẩn bị tốt khâu này thì việc hướng dẫn HS sẽ không có
hiệu quả tốt.
Ví dụ: Khi dạy bài 1: Việt Nam đất nước chúng ta (SGK lịch sử &địa lý

5. tr.66), GV xác định nội dung HS cần nắm qua bản đồ (lược đồ) là: Hình
dạng, vị trí, giới hạn của nước việt Nam; một số hòn đảo, quần đảo của nước ta.
Hoặc khi dạy bài 2: Địa hình và khoáng sản (Sgk lịch sử&địa lý 5. tr.68). Nội
dung mà GV cần giúp HS nắm được qua bản đồ (lược đồ) là: Nắm được một số
đặc điểm chính của địa hình, khoáng sản nước ta; vị trí một số dãy núi, đồng
bằng lớn; kể tên và vị trí của một số loại khoáng sản trên bản đồ. Bài 3: Sông
ngòi (SGK- tr.74), những kiến thức trong bài HS cần khai thác qua lược đồ là:
Nhận biết mạng lưới sông ngòi nước ta; nêu tên một số con song ở miền
Bắc, Trung, Nam; biết vị trí của ba nhà máy thủy điện: Hòa Bình, Y-a-li, Trị
An.
2- Chọn và chuẩn bị bản đồ (lược đồ) cho phù hợp với nội dung bài dạy.
Sau khi GV đã xác định được nội dung kiến thức mà HS cần nắm trên
bản đồ (lược đồ). Tùy từng bài, từng đơn vị kiến thức cần hướng dẫn HS khai
thác trên bản đồ (lược đồ), GV nên chọn các loại bản đồ (lược đồ) phù hợp.
Nếu bản đồ (lược đồ) trong SGK đảm bảo độ lớn, độ sáng, gam màu đủ để HS
khai thác thì GV có thể sử dụng để hướng dẫn HS. Nếu bản đồ (lược đồ) trong
SGK nhỏ, không đủ độ sáng, khó quan sát thì GV nên chuẩn bị bản đồ (lược
đồ) khác ngoài SGK, trong trường hợp bài dạy trong SGK không có bản đồ
(lược đồ) hoặc GV muốn tổ chức các hoạt động quan sát trên bản đồ (lược đồ)
có kích thước lớn thì điều trước tiên là phải chọn bản đồ (lược đồ) phù hợp với
nội dung bài dạy (mượn tại thư viện trường, hoặc sưu tầm…) nhưng phải đảm
bảo độ chính xác, hạn chế hoặc không nên dung bản đồ (lược đồ) vẽ tay vì loại
bản đồ (lược đồ) này thường thiếu độ chính xác, thẩm mĩ không cao.
3- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp với việc hướng dẫn HS khai thác
kiến thức qua bản đồ (lược đồ).
Căn cứ vào nộ dung kiến thức HS cần nắm qua bản đồ (lược đồ), GV
chuẩn bị một hệ thống câu hỏi tìm hiểu thật hợp lý, giúp HS dễ hiểu, dễ khai
thác khi quan sát bản đồ (lược đồ) để trả lời. Ở khâu này, tùy từng bài, từng nội
dung kiến thức khai thác mà GV chuẩn bị hệ thống câu hỏi hướng dẫn dưới
nhiều hình thức khác nhau:

Ví dụ 1 : Khi dạy nội dung 1: Địa hình - bài 2: Địa hình và khoáng sản
(SGK lịch sử&địa lý 5. tr. 68). GV nên chuẩn bị hệ thống câu hỏi để HS thảo
luận và trả lời sau khi đã quan sát Lược đồ địa hình, như sau:
+ Em hãy chỉ vùng núi và vùng đồng bằng của nước ta?
+ So sánh diện tích của vùng đồi núi với vùng đồng bằng của nước ta?
+ Nêu tên và chỉ trên lược đồ các dãy núi ở nước ta.Trong các dãy núi
đó, những dãy núi nào có hướng tây bắc- đông nam, những dãy núi nào có hình
cánh cung?
+ Nêu tên và chỉ trên lược đồ các đồng bằng và cao nguyên ở nước ta?
+ Núi nước ta có mấy hướng chính, đó là những hướng nào?
Ví dụ 2: Khi dạy bài 4: sông ngoài nước ta (SGK-tr .74) GV chuẩn bị hệ
thống câu hỏi dẫn dắt HS làm việc với lược đồ sau khi các em đã quan sát lược
đồ như sau:
Câu 1: Đánh dấu x vào ô trống ở ý đúng.
Mạng lưới sông ngòi nước ta:
+ Thưa thớt
+ Dày đặc; phân bố tập trung ở miền Bắc và miền Nam
+ Dày đặc; phân bố rộng khắcp trên cả nước
Câu 2: Điền tên một số con sông vào bảng sau:

Miền Tên sông
Bắc
Trung
Nam
Câu 3: Nối mỗi ý ở cột A với một ý ở cột B để xác định nhà máy thủy
điện đó nằm trên sông nào?
A: Tên nhà máy thủy điện B: Tên sông
1- Hòa Bình
2- Y-a-li
3- Trị An

a- Xê xan
b- Lô
c- Đà
d- Đồng Nai.

4- Hướng dẫn HS biết đọc hiểu bản đồ (lược đồ).
Để giúp HS khai thác tốt kiến thức trên bản đồ (lược đồ), trước hết, GV phải
giúp các em biết cách đọc hiểu bản đồ (lược đồ), vì nếu HS không có hiểu biết
về bản đồ (lược đồ) các em sẽ không khai thác được kiến thức qua nó. Cụ thể:
Một bản đồ (lược đồ) bao giờ cũng bao gồm các yếu tố: Hình dạng của đối
tượng cần thể hiện (Hình dạng nước việt nam), phần chú giải, tỉ lệ của bản đồ
(lược đồ), các nét vẽ, màu sắc thể hiện sông, đường biên giới, đường quốc lộ,
đường sắt, đảo, quần đảo…, rừng, cao nguyên, kí hiệu nhà máy, các loại
khoáng sản v.v…. GV cần chỉ rõ cho HS biết ngay từ bước đầu khi khai thác
kiến thức trên bản đồ (lược đồ). Cụ thể những kiến thức mà GV cần trang bị
cho HS là:
- Xác định được phương hướng trên bản đồ: Xác định phương hướng trên
bản đồ chúng ta cần phải dựa vào các đường kinh tuyến, vĩ tuyến. Theo quy
ước thì đầu trên của kinh tuyến chỉ hướng Bắc, đầu dưới của kinh tuyến chỉ
hướng Nam, đầu bên phải của vĩ tuyến chỉ hướng Đông, đầu bên trái chỉ hướng
Tây. Đối với các bản đồ (lược đồ) không vẽ kinh tuyến vĩ tuyến, chúng ta xác
định phía trên của bản đồ (lược đồ) là hướng Bắc, phía dưới là hướng Nam, bên
phải là hướng Đông, bên trái là hướng Tây.
- Nắm được kí hiệu trong bảng chú giải và các biểu tượng về những sự vật,
đối tượng địa lý trên bản đồ (lược đồ):
Ví dụ: Các kí hiệu vê khoáng sản (Hình 2-lược đồ một số khoáng sản việt
nam – SGK. Tr. 70)
A

- Sắt - Than - Thiếc - Đồng - A-

pa-tit
- Dầu mỏ - Khí tự nhiên - Vàng.
- Đọc bản đồ (lược đồ) phải hiểu tỷ lệ của bản đồ (lược đồ không có tỷ
lệ), kí hiệu trên bản đồ (lược đồ).
+ Để đọc một bản đồ trước hết cần xem tỷ lệ, yếu tố này cho ta biết khu
vực được thể hiện trên bản đồ nhỏ hơn kích thước thực của nó bao nhiêu lần, tỷ
lệ phần lớn được biểu diễn dưới dạng tỷ số.
Ví dụ: Tỷ lệ bản đồ Địa lý tự nhiên Việt Nam là: 1: 9 000 000, nghĩa là
1cm trên bản đồ ứng với 90 km trên thực tế.
5- Hướng dẫn HS trình bày các thông tin trong bản đồ
Khi trình bày các thông tin địa lý trên bản đồ (lược đồ) cần chú ý một số
điểm như sau:
+ Chỉ một khu vực thì phải khoanh kín theo ranh giới của khu vực đó.
+ Chỉ một địa điểm (thành phố) phải chỉ vào kí hiệu chứ không chỉ vào
chữ ghi bên cạnh.
+ Chỉ một dòng sông phải bắt đầu từ đầu nguồn xuống đến cửa sông.
+ Chỉ hướng gió thì chỉ theo hướng mũi tên.
6- Hướng dẫn HS quan sát đối tượng trên bản đồ (lược đồ), nhận xét và
nêu những đặc điểm đơn giản.
Đây là một trong những thao tác rất quan trọng trong việc hướng dẫn HS
rèn kĩ năng khai thác kiến thức trong bản đồ (lược đồ), ở nội dung này, GV
không chỉ yêu cầu HS quan sát đối tượng mà yêu cầu các em qua việc quan sát
biết nêu ra những nhận xét về đặc điểm của đối tượng, từ đó giúp các em từng
bước biết sâu chuỗi những đặc điểm riêng rẽ rút ra kết luận chung về một vấn
đề, một hiện tượng địa lý. Ví dụ, khi dạy mục 1. Ngành trồng trọt – bài 10:
nông nghiệp (SGK lịch sử & địa lý 5) -tr.87. GV nêu câu hỏi cho HS:
Em hãy quan sát hình 1(lược đồ nông nghiệp Việt Nam), cho biết lúa
gạo, cây công nghiệp lâu năm (chè, cà phê, cao su…) được trồng chủ yếu ở
vùng núi và cao nguyên hay đồng bằng? vì sao em biết điều đó?
Sau khi quan sát HS sẽ dựa vào các kí hiệu trên lược đồ nông nghiệp

Việt Nam để trả lời và giải thích. Điều này đã giúp cho HS không chỉ nắm được
sự phân bố cây trồng của nước ta mà còn biết vì sao mỗi vùng miền lại có các
loại cây trồng khác nhau.
7- Hướng dẫn HS tìm hiểu mối quan hệ giữa các yếu tố địa lý ngay trong
bản đồ.
- Đọc bản đồ không phải chỉ là đọc từng kí hiệu riêng rẽ của bản đồ như:
đây là núi gì, sông nào, …mà cần hướng dẫn tìm hiểu được mối quan hệ giữa
các yếu tố và các thành phần như địa hình và khí hậu; Địa hình, khí hậu, sông
ngòi; thiên nhiên với hoạt động của con người … trên cơ sở đó giúp HS biết kết
hợp kiến thức bản đồ và kiến thức địa lý để so sánh và phân tích.
Ví dụ 1: Đọc một con sông ở bản đồ các con sông chính Việt Nam (SGK
Lịch sử-Địa lý 5- tr. 74) chúng ta thấy được mối quan hệ giữa hướng chảy, đặc
điểm của sông…nói cách khác là phải biết dựa vào địa hình để giải thích
hướng chảy, độ dốc…của sông.
C- KẾT LUẬN:
I. Kết quả thực hiện những biện pháp hình thành nề nếp học tập cho HS:
Từ việc thực hiện các biện pháp nêu trên, trong những năm học qua, chất
lượng phân môn địa lý của những lớp tôi đảm nhiệm giảng dạy đều đạt và vượt
chỉ tiêu đề ra. HS không chỉ nắm vững kĩ năng khai thác kiến thức trên bản đồ
(lược đồ) mà còn có kĩ năng khai thác kiến thức ở biểu đồ, bảng số liệu v.v
trong phân môn địa lý, các em yêu thích học môn địa lý.
Chất lượng phân môn địa lý trong những năm học qua cụ thể là:
Năm học Số HS
Xếp loại chất lượng môn
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2007-2008 30 10 33.33 16 53.33 4 13.33
2008-2009 31 12 38.70 17 54.83 2 6.45
2009-2010 33 14 42.42 17 51.51 2 6.06
Cuối HKI

2010-2011
24
II- Bài học kinh nghiệm:
Với hệ thống bản đồ (lược đồ) phong phú - yêu cầu kiến thức kỹ năng đối
với HS Tiểu học và thực trạng việc sử dụng bản đồ (lược đồ) trong dạy học địa
lý ở lớp 5 nói riêng và cả cấp học nói chung, bản thân tôi rút ra một số kinh
nghiệm sau:
1- Người GV phải xác định đúng vai trò của kỹ năng sử dụng bản đồ (lược
đồ) đối phân môn Địa lý. Là người lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy
học đặc biệt là các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ
động của HS, chúng ta cần biết và nắm vững yêu cầu chuẩn kiến thức kỹ năng
sau mỗi bài – mỗi giai đoạn học HS phải đạt được, coi đây là mục tiêu để
hướng tới.
2- Mỗi người GV cần tự rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) của
chính bản thân mình.
3- Cần quan tâm rèn luyện cho HS những kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ),
đó là:
+ Kỹ năng: Đọc tên bản đồ, phương hướng, tỷ lệ và kí hiệu của bản đồ.
+Trình tự các bước sử dụng bản đồ: Nắm được mục đích làm việc với bản
đồ (lược đồ); Xem chú giải để có biểu tượng địa lý cần tìm trên bản đồ (lược
đồ); Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên bản đồ, nêu nhận xét và nêu đặc điểm
đơn giản của đối tượng; Xác lập mối liên hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố và
các thành phần như địa hình và khí hậu, sông ngòi, thiên nhiên và hoạt động
sản xuất của con người … trên cơ sở HS biết kết hợp những kiến thức bản đồ
và kiến thức địa lý để so sánh và phân tích.
4- Trong quá trình chuẩn bị bài dạy môn Địa lý, GV phải nghiên cứu và nắm
vững các thông tin có trong bản đồ (lược đồ) mà bài dạy yêu cầu để lựa chọn
các phương pháp dạy học phù hợp đồng thời chủ động tổ chức các phương
pháp đó trong tiết dạy. Một bài soạn chu đáo là một trong những điều kiện cho
một tiết dạy tốt.

5- Để HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược đồ) đạt yêu cầu đề ra GV cần
soạn hệ thống câu hỏi dựa trên bản đồ (lược đồ) và trình độ HS, các câu hỏi
nên thể hiện dưới nhiều hình thức: tự luận, test (câu đúng sai, câu nhiều lựa
chọn, câu điền…) đó là điều kiện để dẫn dắt HS tự khám phá kiến thức. Chất
lượng hệ thống câu hỏi có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của hoạt động
học với bản đồ (lược đồ) của HS.
6- Trong một bản đồ (lược đồ) có chứa đựng rất nhiều thông tin, tuy nhiên
GV chủ động hướng dẫn HS khai thác các thông tin có liên quan đến bài học
nếu không sẽ sa vào tình trạng tìm hiểu kiến thức không trọng tâm.
7- Sử dụng các phương pháp, hình thức, biện pháp dạy học Địa lí linh hoạt.
Đặc biệt cần kết hợp phương pháp dạy học đồng loạt (cả lớp), phương pháp dạy
học theo nhóm (nhóm cùng một đối tượng, nhóm có nhiều đối tượng ) với
phương pháp dạy học theo hướng cá thể hóa (cá nhân), tránh tình trạng chỉ chú
ý gọi những em biết sử dụng bản đồ (lược đồ) nêu ý kiến khai thác từ bản đồ
(lược đồ) mà không quan tâm đến các đối tượng chưa biết trong lớp.
8- Kiên trì rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ (lược đồ) cho HS, hơn nữa đặt
ra yêu cầu có kỹ năng sử dụng tốt bản đồ một cách nóng vội là không phù hợp
mà phải rèn luyện cho HS nhiều lần không chỉ trong học Địa lý mà còn trong
học Lịch sử và các môn học khác. Bên cạnh việc rèn cho HS kỹ năng sử dụng
bản đồ (lược đồ) để tìm thông tin, GV còn phải rèn luyện cho HS kỹ năng trình
bày thông tin – phản hồi thông tin đó của các đối tượng HS trong lớp.
9- Lựa chọn và sử dụng bản đồ (lược đồ) phù hợp với bài dạy, trong trường
hợp không có bản đồ (lược đồ) in sẵn, to, rõ thìkhông nên phô tô hoặc vẽ lại
hình trong Sách giáo khoa để dạy. vì như thế sẽ thiếu độ chính xác, thiếu tính
mĩ thuật và có thể gây phản cảm trước HS.
10- Sử dụng kết hợp linh hoạt các loại phương tiện dạy học như: bản đồ,
lược đồ, quả địa cầu, bảng số liệu, tranh ảnh trong dạy Địa lý. Từng bước tiếp
cận và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc trình chiếu các bản đồ (lược
đồ) hình ảnh trong tiết học nhằm gây hứng thú cho HS trong học Địa lí.
III- Phổ biến ứng dụng:

Những biện pháp hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược đồ) mà
tôi nêu trên không chỉ được kiểm nghiệm qua thực tế dạy học trên lớp của tôi,
mà đã được phổ biến trong tổ chuyên môn khối 5 và các khối lớp khác tham
khảo, ứng dụng trong quá trình giáo dục cho HS.
Qua thời gian thực hiện, các bạn đồng nghiệp giảng dạy ở khối 5 đánh giá
cao sáng kiến của tôi và hiện nay kinh nghiệm này đã được phổ biến thực hiện
rộng rãi trong toàn trường.
Kinh nghiệm “Hướng dẫn HS khai thác kiến thức từ bản đồ (lược đồ) trong
phân môn địa lý 5” đã góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy – học trong
nhà trường, góp một phần không nhỏ trong việc thực hiện phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện, HS tích cực” của đơn vị. Tuy nhiên kinh nghiệm
trên của tôi không tránh khỏi những hạn chế. Tôi rất mong sự góp ý nhiệt tâm
của các cấp lãnh đạo và của các bạn đồng nghiệp, để sáng kiến được áp dụng
ngày càng hiệu quả hơn.

Năm căn, ngày 15 tháng 10 năm
2010
Người viết sáng kiến kinh
nghiệm




Tống Thị Giang

×