Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.49 KB, 10 trang )

Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
1/Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
- Đối với học sinh lớp 1 việc day cho các em viết chữ có vai trò hết sức
quan trọng. Nó cung cấp cho các em hệ thống kiến thức cơ bản chữ cái La-tinh
ghi âm tiếng việt, đồng thời giúp các em nắm được các yêu cầu kĩ thuật viết nét
chữ, chữ cái, tiếng, từ và các câu Hai nội dung đọc- viết có mối quan hệ chặt
chẽ, bổ trợ cho nhau.
Chữ viết là công cụ cho các em sử dụng suốt đời. Đọc thông, viết thạo
gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời. Như cố vấn Phạm Văn Đồng đã
nói “Nét chữ - Nết người”, nhận xét này nói lên tầm quan trọng của việc rèn
chữ viết bên cạnh việc rèn đọc cho học sinh lớp1. Dạy cho các em viết đúng,
viết cẩn thận, viết đẹp là giúp các em có được đức tính cần cù, nhân đạo, cẩn
thận và lòng tự trọng đối với bản thân cũng như đối với thầy cô giáo và bạn đọc
bài vở của mình.
2/ Thực trạng:
a) Thuận lợi
- Đa số học sinh không được học qua lớp mẫu giáo.
- Hầu hết các em không biết cầm viết.
- Đa số các em không biết được chữ cái.
b) Khó khăn
- Số em cầm viết chưa đúng :40 %
- Số em viết sai nhiều về các nét cơ bản như : nét khuyết, nét hất, nét
thắt :20 %.
- Tư thế ngồi viết số em chưa đúng:20%
- Các em chưa nắm rõ độ cao, khoảng cách giữa các con chữ theo qui
trình:20%
Môn Tiếng Việt được cải cách nhiều lần. Và sau mỗi lần cải cách như
vậy, mẫu chữ viết cho học sinh Tiểu học lại thay đổi. Đi kèm với sự thay đổi đó
là các quy trình dạy, tài liệu dạy và học thay đổi. Đó chính là điều băn khoăn


của các giáo viên tiểu học trong thời gian gần đây khi giảng dạy phân môn Tập
viết trong nhà trường. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng
chữ viết của học sinh, có những lớp học sinh viết rất xấu, mất nét, nghiêng ngả
dẫn đến thiếu ý thức học tập trong các môn học khác. Việc dạy tập viết cho học
sinh lớp 1 phải kết hợp chặt chẽ và thống nhất với dạy học âm, học vần và tập
đọc. Việc dạy học sinh lớp 1 học viết chữ được tiến hành dưới 3 hình thức chủ
yếu:
*Luyện viết chữ trong các tiết học âm.
* Luyện viết trong các tiết học vần.
* Luyện viết trong tiết tập viết chính tả.
Chữ viết là công cụ rất cần thiết trong cuộc sống hằng ngày. Đã có nhiều
hội thi: (viết chữ đẹp, văn hay chữ tốt )
Vì vậy tôi thấy rằng cần phải có những biện pháp để “Dạy tập viết cho
học sinh lớp 1” nhằm cải thiện thiện tình trạng đã nêu trên.
II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Trong mỗi giai đoạn học Tiếng Việt ở lớp 1, giáo viên cần phải có
phương pháp dạy học sinh viết cho phù hợp. Học sinh lớp 1 chỉ có thể viết
đúng, viết đẹp khi các em được đọc tốt, nói tốt và có khả năng phân biệt được
đọc phát âm đúng với đọc phát âm sai.
I/ Phương pháp trực quan:
a/ Chữ mẫu: biểu Tượng trực quan trong các giờ tập viết
Trẻ lớp 1 tiếp thu hình ảnh chữ viết qua mắt nhìn. Khi viết các em phải
tái hiện hình ảnh chữ viết đã tiếp thu được qua mắt nhìn lần đầu để ghi lại hình
ảnh chữ viết đã nhìn được trên mặt giấy.
Vì vậy nếu chữ mẫu được trình bày với kích thước quá nhỏ hoặc dưới
ánh sáng kém, thì các em rất khó nhìn dẫn đến khó tái hiện. Từ đó nếu trình bày
mẫu chữ (mẫu chữ đơn bằng bìa) trên bảng lớp, giáo viên phải phóng to, các
đường kẻ ô rõ ràng, đúng các nét để học sinh nắm được cấu tạo, kích thước của
chữ.
Nếu trong bài viết có nhiều chữ cái hoặc nhiều vần khác nhau thì cần

phải có đủ mẫu cho học sinh quan sát để nhận xét sự giống và khác nhau đó.
Ví dụ: Bài 3: ô - ơ; n – m.
Sách Tập viết 1.
Từ chữ mẫu rời của từng cặp ô - ơ; n – m, học sinh nêu được kích thước,
hình dáng của chúng, nhận xét sự giống nhau và khác nhau giữ từng cặp.
Kích thước: ô - ơ cao 4 li, rộng 1/3 ô.
m – n cao 4 li, m rộng 1 ô
n rộng 2/3 ô
Hình dáng: ô - ơ đều gồm một nét cong tròn.
ô có thêm 1 dấu mũ gồm 2 nét chéo phải chéo trái hợp lại.
ơ gồm 1 nét cong tròn thêm 1 nét móc nhỏ trên đầu.
n gồm 2 nét là nét móc xuôi và nét móc 2 đầu.
m gồm 2 nét móc xuôi, 1 nét móc 2 đầu.
Cấu tạo của các cặp chữ trên tương đối giống nhau dẫn đến cách viết
cũng tương tự. Giáo viên có thể cho học sinh nhận xét cả cách viết.
Ví dụ: Muốn viết ô - ơ ta phải viết 1 nét cong tròn, đặt bút ở góc phải
khung hình, dưới dòng kẻ 4, sau đó viết thêm một dấu phụ.
Muốn viết m – n ta đặt bút ở dưới dòng kẻ 3, viết nét móc xuôi sau đó
viết nét móc 2 đầu (chữ n) hoặc viết tiếp nét móc xuôi nữa rồi viết móc 2 đầu
(chữ m).
b- Chữ mẫu do giáo viên viết trên bảng lớp:
Trong giờ dạy, chữ mẫu của giáo viên là trực quan sống cho học sinh
nhìn thấy sự liên kết giữa các con chữ, thứ tự đưa nét, cách điều tiết cứng mềm
của từng con chữ. Vừa viết vừa giảng giải, chữ mẫu trên bảng của cô giáo phải
vừa đẹp vừa mềm mại, nhịp nhàng với lời nói, đồng thời tư thế đứng của cô
giáo cũng phải hợp lý để học sinh theo dõi được trả quy trình viết.
Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp giáo viên phải cô đọng, chọn lọc
những con chữ, nét nối tiêu biểu để hướng dẫn tỷ mỷ, chính xác cho học sinh,
không nên tham lam viết và hướng dẫn nhiều gây rối mắt.
c- Chữ mẫu trong vở mẫu của giáo viên:

Đối với học sinh lớp 1, chữ mẫu phải được cụ thể hóa nhất là đối với học
sinh lớp Một. Khi học sinh được quan sát bài mẫu của cô giáo, các em lập tức
nảy sinh ý định bắt chước, muốn mình viết đẹp được như cô giáo. Mặt khác,
chữ viết trong vở mẫu của giáo viên là sự tổng hợp của nội dung bài học, nó
gần với bài viết của các em, giúp các em dễ dàng cá thể hóa từng dòng, từng
chữ của bài học.
Ngoài chữ mẫu của cô giáo, giáo viên có thể sử dụng những bài viết đẹp
của những học sinh khá, giỏi để làm mẫu cho các em, giúp các em mở mang
kiến thức ngoài bài học trên lớp của cô. Đó chính là “Học thầy không tày học
bạn”.
d- Chữ mẫu trong vở mẫu là chuẩn mực chưa đủ, chữ mẫu của cô giáo
mọi nơi, mọi lúc khi chấm chữa, khi viết bảng cả những môn học khác, những
lời dặn dò đối với học sinh cũng phải là mẫu mực.
Tại sao như vậy ?
Vì trẻ lớp 1luôn coi thầy cô giáo như một tấm gương sáng, soi vào đó ta
thấy tâm hồn của trẻ thơ ngây và trong trẻo vô cùng. Nếu thầy cô giáo ẩu, viết
cẩu thả khi phê vở cho trẻ, chính là đã vô tình làm mờ đi cái gương trong sáng
ấy, đã biến mình thành một ví dụ xấu cho trẻ bắt trước. Không ít học sinh khi
viết vở Tập viết, Chính tả rất cẩn thận nhưng viết bài ở những môn học khác thì
rất ẩu.
Lý do rất đơn giản, vì các cháu thấy cô giáo chỉ quan tâm đến chữ viết
trong 2 quyển vở ấy.
Muốn trò viết đẹp thì thầy phải luôn luôn viết đẹp, đó là kim chỉ nam của
thầy cô giáo trong nhà trường.
2/ Phương pháp phân tích - đàm thoại gợi mở:
Chữ viết là một chuỗi hoạt động cơ bắp nhằm liên kết các nét chữ lại với
nhau (thành một chữ cái hay một chữ) theo trình tự thời gian.
Để chữ viết đẹp, không bị vụn, gẫy và rời, trong quá trình dạy viết giáo
viên cần phân tích cấu tạo chữ để hướng dẫn cách uốn nét, lia bút.
Ví dụ:

- Chữ n gồm 1 nét móc xuôi kết hợp với 1 nét móc 2 đầu.
- Chữ u: nét hất kết hợp với nét móc ngược kết hợp tiếp với nét móc
ngược thứ hai.
- Chữ mẹ: chữ m nối liền với chữ e và thêm dấu thanh nặng ở dưới chữ e
Muốn phân tích được cấu tạo chữ và cách viết, giáo viên phải sử dụng
phương pháp đàm thoại gợi mở. Phương pháp này thường được sử dụng ở phần
đầu tiết học, sau khi đưa chữ mẫu phóng to trên bìa dán. Giáo viên sử dụng hệ
thống câu hỏi dẫn dắt để học sinh phân tích được hình dáng, kích thước, cấu tạo
và cách viết của chữ.
Ví dụ: Bài 9: y – tr – vở tập viết lớp 1.
Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi như sau:
- Chữ y nằm trong khung hình gì ?
- Cao mấy ô ? Rộng mấy ô ?
- Chữ y gồm mấy nét ? Là những nét nào ?
- Điểm đặt bút của chữ y giống điểm đặt bút của chữ nào mình đã học ?
- Chữ tr gồm mấy con chữ ghép lại ?
- Chiều cao, độ rộng của chữ là mấy ô ?
- Nét nối giữa t và r là bao nhiêu ?
Đối với những chữ khó, giáo viên có thể phô tô mẫu cho học sinh thảo
luận nhóm, sau đó lên chỉ trên hình để phân tích. Thảo luận nhóm có cái hay là
học sinh được đóng góp xây dựng ý kiến cho nhau nên dễ dàng tìm ra tri thức
mới. Song trước khi thảo luận nhóm, giáo viên phải ra câu hỏi định hướng cho
học sinh.
3/ Phương pháp giảng giải:
Phương pháp này được sử dụng khi hướng dẫn kỹ thuật viết cho học
sinh. Muốn hướng dẫn kỹ thuật viết đúng, người giáo viên phải nắm vững và sử
dụng chính xác thuật ngữ khi dạy tập viết.
Một số thuật ngữ khi dạy môn Tập viết:
a-Đường kẻ và dòng kẻ:
Các chữ cái ghi âm Tập viết đều nằm trong các ô vuông. Các ô vuông

này do các đường kẻ và dòng kẻ cắt nhau tạo thành. Nhữ cái có độ cao 1 dòng
được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới.
Ví dụ: ← dòng kẻ ngang trên
← dòng kẻ ngang dưới
Các chữ cái có độ cao 2 dòng được xác định bằng đường kẻ ngang trên,
dưới và giữa.
Ví dụ: ← dòng kẻ ngang trên
← dòng kẻ ngang dưới
Các dòng kẻ chia các ô vuông lớn thành các ô vuông nhỏ gọi là dòng kẻ
ngang (dòng ly) hoặc dòng kẻ dọc.
Ví dụ: các dòng kẻ ly
← dòng kẻ dọc
Cách xác định tọa độ của điểm đặt bút và dừng bút phải dựa trên khung
chữ làm chuẩn.
b- Điểm đặt bút:
Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái hay một chữ, điểm
đặt bút có thể đặt trên đường kẻ ngang.
c- Điểm dừng bút:
Là vị trí kết thúc của nét chữ. Điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt
bút (chữ O), nhưng đa số kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Do vậy
người giáo viên chỉ dừng một chút để chỉ khái niệm này.
d-Khái niệm lia bút:
Để đảm bảo tốc độ viết trong quá trình viết, nối các nét hay chữ cái với
nhau, người ta sử dụng kỹ thuật lia bút. Tức là nét bút thể hiện liên tục nhưng
bút hoặc phấn không chạm vào giấy hoặc bảng theo đường cong ngắn nhất.
Thao tác đưa bút trên không ấy gọi là lia bút.
e- Khái niệm rê bút:
Là trường hợp viết đi lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết,
thông thường là từ điểm kết thúc của nét trước tới điểm đặt bút của nét sau.
g- Hệ thống nét: Gồm hai loại: nét thẳng – nét cong.

Thẳng đứng  Thẳng xiên phải \
Thẳng ngang  Thẳng xiên trái /
Cong kín O Cong hở phải C Cong hở trái
(cong trái) (cong phải)
Theo lưng chữ
Các loại nét phối hợp:
1- Nét móc xuôi: , nét móc ngược:
2- Nét móc 2 đầu:
3- Nét thắt đầu: , nét thắt giữa:
4- Nét khuyết trên: , nét khuyết dưới:
Sử dụng phương pháp giảng giải để hướng dẫn viết một số dạng bài
trong chương trình tập viết Lớp 1.
* Hướng dẫn kỹ thuật viết:
Muốn dạy cho học sinh viết đúng các hình chữ cái, vẫn thông thường,
giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được cấu tạo, quy trình viết bao gồm:
. Điểm bắt đầu và kết thúc của chữ.
. Điểm tiếp xúc với nét của khung chữ.
. Kỹ thuật viết như thế nào cho mau bằng cách rê bút, lia bút, chuyển
dịch đầu bút để có thể viết liền mạch, đồng thời kinh nghiệm viết như thế nào
cho đẹp.
* Hướng dẫn viết chữ cái:
a)Tập viết chữ
Cấu tạo: gồm 2 nét: cong trái và móc ngược.
Kích thước: cao 1 ô, rộng 1 ô vuông.
Thứ tự viết: điểm đặt bút để viết nét cong trái (1) điểm tiếp xúc với
khung chữ (2, 3, 4), điểm kết thúc nét (5) điểm đặt bút để viết nét móc ngược
(6), điểm tiếp xúc với khung (7), điểm kết thúc nét (8).
Cách viết: Thực hiện xong nét “C” của chữ phải rê nhẹ bút đến điểm (6)
đặt bút của nét “l” tạo hình hoàn chỉnh của chữ.
b) Tập viết chữ n:

Cấu tạo: Gồm 2 nét (móc xuôi) và (móc hai đầu).
Thứ tự viết: Điểm đặt bút để viết nét móc (1), điểm tiếp xúc với khung
(2), điểm kết thúc của nét móc (3), điểm đặt bút để viết nét móc 2 đầu (4), điểm
tiếp xúc với khung (5, 6), điểm tiếp xúc của nét (7).
Cách viết: Từ (1) nối qua (2) và kết thúc ở (3) rê bút tới (4) qua (5, 6),
kết thúc ở (7) hoàn chỉnh chữ.
c) Tập viết vần an:
Cấu tạo: Chữ a và chữ n.
Thứ tự viết: Điểm đặt bút (1) để viết nét cong của chữ a, điểm (2) kết
thúc nét cong của chữ a. Điểm kết thúc của nét móc (chữ a) cũng là điểm đặt
bút viết nét móc của chữ n. Điểm (3) kết thúc của chữ n.
Cách viết: Viết chữ a rồi viết luôn chữ n, không nhấn bút.
Kỹ thuật viết: Khi viết đến điểm (2) không nhấc bút lên mà nhẹ nhàng
viết hướng bút về bên phải viết chữ n đến (3) là hòan chỉnh vần an.
d) Tập viết từ bàn gỗ:
Cấu tạo: Gồm tiếng bàn và tiếng gỗ.
Thứ tự viết: Điểm đặt bút (1) để
viết chữ b, viết xong chữ b thì viết luôn chữ a, nối a → n kết thúc ở
(5). Cách ra 1 con chữ O viết g bắt đấu từ điểm (1) sau đó viết tiếp O kết thúc ở
(3), cuối cùng viết dấu ˆ và ˜ .
Kỹ thuật viết: Khi viết đến điểm (2) thì lia bút nối b – a, nối a – n liền
mạch, đưa nhẹ. Viết xong tiếng “bàn” thì viết tiếng “gỗ” lia bút từ g – o rồi lia
lên viết mũ ô và dấu thanh ngã.
4/ Phương pháp luyện tập:
Dân gian ta có câu: “Văn ôn võ luyện” và “Trăm hay không bằng tay
quen” quả đúng không sai. Đối với môn Tập viết thì càng đúng như vậy.
Đối với trẻ lớp 1 tay còn mềm, yếu, cầm bút các em vẫn sợ rơi, chóng
mỏi mệt thì quá trình rèn chữ của giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại, tăng dần yêu
cầu, không đòi hỏi quá khó với các em.
Có thể luyện tập bằng nhiều phương tiện.

a-Luyện bảng con:
Với trẻ em lớp 1, viết phần mềm hơn viết chì, bảng con lại có thể xóa,
lau, sửa nét dễ dàng. Khi học sinh luyện viết bảng con giáo viên có thể cầm tay
từng em khi học những bài đầu, sau đó mới thả dần dần cho các em tự viết.
Sang học kỳ II, khi viết đã cứng tay học sinh còn có thể sử dụng bảng và bút dạ
(bảng phoóc) cho hợp vệ sinh. Giáo viên cần hướng dẫn cả việc lau bảng cho
các em. Trong một tiết tập viết có thể luyện bảng con 2 lần.
b-Luyện viết trên bảng lớp:
hường thì học sinh được viết trên bảng lớp vào phần kiểm tra bài cũ. Học
sinh viết bảng lớp khó hơn trong bảng con nên người giáo viên có thể giúp các
em bằng cách kẻ dòng ly hoặc ô trên bảng lớp để học sinh dễ viết.
c-Luyện viết trong vở tập viết:
Muốn học sinh viết đẹp giáo viên phải làm tốt khâu chuẩn bị bút và vở
cho học sinh.
Nếu học sinh viết bút chì thì giáo viên phải kiểm tra đầu nhọn và gọt bút
cho đồng đều. Nếu học sinh viết bút mực thì cô giáo phải kiểm tra mực và lau
sạch bút cho các em, trong vở phải có giấy kê tay hoặc giấy thấm.
Trước khi viết vở học sinh phải được quan sát vở mẫu của cô giáo.
*Trong tất cả các quá trình luyện viết, người giáo viên phải luôn chú ý
nhắc nhở học sinh.
+ Tư thế ngồi học
+ Tay cầm bút
+ Quan sát trực tiếp, nhắc nhở và sửa sai cho từng em, nếu nhiều em sai
thì phải sửa chung cho cả lớp để học sinh rút kinh nghiệm kịp thời.
+ Viết mẫu vào vở rèn chữ cho học sinh kém viết thêm.
+ Luôn động viên, khuyến khích những em viết đẹp.
+ Khuyến khích học sinh hăng hái phát biểu, nhận xét bài của bạn để tìm
ra cái sai để sửa cho bạn.
+ Khi học sinh viết ở bảng con hay ở vở cũng phải tuân theo hiệu lệnh
của giáo viên cho nhịp nhàng, cẩn thận.

+ Ngoài luyện viết ở bảng, ở vở Tập viết giáo viên cần nhắc nhở các em
viết đẹp ở tất cả các môn khác nữa (ví dụ: Toán, Tự nhiên xã hội, Sức khỏe,
…)
III: KẾT QUẢ, PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
I.KẾT QUẢ
Qua hai năm dạy lớp 1 gần đây, tôi đã ứng dụng kinh nghiệm này và thấy
chất lượng chữ viết của học sinh có tiến bộ rõ rệt.
Thống kê chữ viết của HS năm học 2008-2009.
TSHS Chữ viết Đầu năm Giữa kỳ I Học kỳ I Giữa kỳ II Cuối năm
34/16
Viết đúng
mẫu
8=23.5 % 11=32.4% 13=38.2% 17=50% 23=67.7%
Viết gần
đúng mẫu
10=29.4% 12=35.3% 15=44.1% 12=35.3% 7=20.6%
Viết sai về độ
cao, thiếu nét
14=41.1% 11=32.3% 6=17.6% 5=14.7% 4=12.7%
Thống kê chữ viết của HS năm học 2009-2010.
TSHS Chữ viết Đầu năm Giữa kỳ I Học kỳ I Giữa kỳ II Cuối năm
35/18
Viết đúng
mẫu
7=20% 10=28.6% 14=40% 19=54.3% 24=68.6%
Viết gần
đúng mẫu
9=25.7% 12=24.3% 13=37.1% 10=28.6% 8=22.8%
Viết sai về độ
cao, thiếu nét

19=54.3% 13=37.1% 8=22.8% 6=11.1% 3=8.6%
Sau một thời gian áp dụng các phương pháp nêu trên tôi nhận thấy rất rõ:
Không chỉ với môn Tập viết, chữ viết học sinh được cải thiện mà trong
các môn khác như: Toán (viết lời giải), Tập đọc (làm bài tập điền từ …), Chính
tả, các em đều tiến bộ rõ rệt.Tập thể lớp luôn đạt là lớp “Vở sạch - Chữ đẹp”
của nhà trường. Trong Hội thi “ Viết chữ đẹp” cấp trường, năm học 2009-2010
lớp có 10 em tham gia thi, cả 10 em đều được đạt giải trong cuộc thi.
II. PHẠM VI ỨNG DỤNG:
Với kinh nghiệm này, đã được vận dụng vào giảng dạy trong trường Tiểu
học 3 thị trấn Năm Căn và phổ biến là khối lớp 1. Hơn nữa đã có nhiều đồng
nghiệp trong tröôøng áp dụng kinh nghiệm này vào thực tế trong giảng dạy và
đạt kết quả cao.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trải qua quá trình áp dụng vào giảng dạy ,bản thân tôi vừa dạy vừa rút
kinh nghiệm, bản thân và đơn vị chúng tôi đặc biệt là khối 1 đã đạt được kết
quả khả quan như trên.
-Giáo viên phải có tâm huyết với nghề.
- Chữ mẫu giáo viên phải đúng, đẹp, rõ ràng.
- Thường xuyên gần gũi, kiểm tra để phân loại đối tượng học sinh kịp thời điều
chỉnh phương pháp cho phù hợp.
Trên đây là một vài suy nghĩ của cá nhân tôi về phương pháp rèn luyện
chữ viết cho học sinh lớp 1. Bản thân tôi sẽ rút kinh nghiệm và phấn đấu nhiều
hơn nữa trong phong trào “Rèn chữ giữ vở” cho học sinh. Tôi sẽ tận tâm chăm
sóc, quan tâm đến từng em để sửa chữa và nhắc nhở các em viết ngày càng đẹp
hơn. Mong được sự đóng góp của quí thầy cô cho bản kinh nghiệm này thêm
hoàn thiện hơn.
Năm Căn, ngày 10 tháng 10 năm 2010
Người viết






Nguyễn Thị Huyền

×