Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (649.21 KB, 35 trang )

Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, điều kiện kinh tế thị trường cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kĩ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển trí tuệ, sáng tạo và đổi
mới. Quá trình kinh tế mở đã dẫn đến những thay đổi rõ rệt trên tất cả các mặt của nước
ta. Chính từ đó, khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm giai tầng trong xã hội ở nước ta
đang có dấu hiệu ngày một rõ hơn. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm
kinh tế lớn nhất và có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất cả nước, không những thế nó
còn là một trong những thành phố có vai trò điều phối sự phát triển kinh tế, văn hóa trong
cả nước. Sự tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và sự cải thiện
quan hệ cung - cầu đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở đô thị nói
chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Thực tế, sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao
đã giúp cho cuộc sống của người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh nâng cao. Song chính
điều này lại dẫn đến sự phân hóa rõ rệt giữa người nghèo - người giàu và Thành phố Hồ
Chí Minh là nơi có sự phân hóa giàu nghèo mạnh nhất cà nước, hai bức tranh hoàn toàn
trái ngược về thu nhập và cuộc sống của con người ở nơi đây. Vì vậy em quyết định chọn
đề tài “Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp”
nhằm tìm hiểu kĩ hơn, có cái nhìn toàn diện hơn, bao quát hơn về sự phân hóa giàu nghèo
cũng như có thể đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực do vấn đề này gây
ra và rút ngăn khoảng cách giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Do giới hạn về thời
gian và điều kiện nghiên cứu đề tài khá hạn chế nên em không có nhiều thời gian đề tìm
hiểu thực tế hay trực tiếp điều tra các số liệu cụ thể, chính xác mà em chỉ dựa trên các tài
liệu, các bài báo, bài nghiên cứu… để tổng hợp số liệu, tìm hiểu và phân tích rõ hơn về
vấn đề nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy em sẽ cố gắng hoàn
thiện hơn trong quá trình học hỏi, nghiên cứu sau này để hoàn thiện đề tài này hơn.
1
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng phân hóa giàu nghèo hiện nay diễn ra như thế nào trên tất cả
các mặt ở Thành phố Hồ Chí Minh và đề ra các giải pháp nhằm rút ngắn khoảng cách


giàu nghèo trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát về vấn đề nghèo – giàu nói chung.
- Thu thập số liệu, tài liệu trên các báo cáo, niên giám thống kê, báo chí và sách có
liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Sưu tầm những hình ảnh minh họa cho bài viết.
- Căn cứ vào điều kiện về kinh tế xã hội hiện có và thực trạng sự phân hóa giàu
nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra những giải pháp và định hướng phát triển bền
vững trong tương lai.
4. Lịch sử nghiên cứu
Từ trước đến nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận rất nhiều các nghiên cứu
cũng như báo cáo về thực trạng giàu – nghèo, các giải pháp giúp người dân thoát nghèo,
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo…. Do tình hình kinh
tế - xã hội nói chung cũng như chất lượng cuộc sống của người dân nói riêng trong thời
gian gần đây có sự thay đổi mạnh mẽ nên việc nghiên cứu về tình trạng giàu – nghèo của
người dân cũng được rất nhiều các tài liệu, bài báo, các báo cáo khoa học trình bày.
Tận dụng các kết quả, kết hợp với các nghiên cứu đã có về vấn đề này, đề tài giúp
tìm hiểu rõ hơn về thực trạng, từ đó có các giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực
của thực trạng phân hóa giàu nghèo cũng như nhằm rút ngắn khoảng cách giàu – nghèo.
2
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm
Địa lý học là một môn khoa học tổng hợp vừa mang tính thực tiễn mà cũng vừa
mang tính cụ thể cao. Không chỉ vậy, khoa học địa lý còn mang tính thời đại, nó luôn luôn
biến đổi phù hợp với những khám phá của con người và những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật. Vì vậy, khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi đã vận dụng các quan điểm và các
phương pháp truyền thống của địa lý học nói chung và địa lý kinh tế - xã hội nói riêng.
5.1.1. Quan điểm hệ thống

Thành phố Hồ Chí Minh là một đơn vị trực thuộc Trung ương nên sẽ chịu sự chi
phối tác động mạnh mẽ của cả nước nói chung và các vùng lân cận nói riêng. Đồng thời
Thành phố Hồ Chí Minh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chi phối sự phát triển
kinh tế - xã hội của các vùng khác cũng như của cả nước. Do đó quan điểm hệ thống giúp
chúng ta thấy được mối quan hệ qua lại lẫn nhau của bất cứ một yếu tố nào đó phụ thuộc
và tác động lẫn nhau. Đó là những mối quan hệ cần thiết không thể bỏ qua trong quá trình
tìm hiểu một vấn đề nào đó.
5.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm truyền thống của ngành địa lý học, xem các địa phương là một
thể tổng hợp địa lý. Tất cả đều phát triển theo một quy luật riêng nhất định nhưng không
tồn tại một cách độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau,
ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ lên sự phát triển của nhau.
5.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Mọi sự vật hiện tượng địa lý đều có quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Sự
hình thành và phát triển trong quá khứ có ảnh hưởng đến hiện tại và tương lai. Vì vậy,
việc sử dụng quan điểm này cho phép chúng ta có cái nhìn tổng quan về quá trình phát
triển. Từ đó, khi nhìn về thực tại chúng ta có thể đánh giá vấn đề một cách chính xác và
toàn diện hơn, đồng thời có thể dự báo tương lai một cách khoa học hơn.
3
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
Khi nghiên cứu về một đề tài thì vấn đề đó phải được đặt trong sự so sánh tương
quan trên nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi đó vấn đề mới được nhìn nhận
một cách khách quan và toàn diện nhất.
Tất cả các tài liệu thu thập được qua sách báo hoặc các phương tiện thông tin khác
cần được tổng hợp, thống kê phân loại. Để làm rõ được vấn đề mà đề tài đề cập thì cần
phải phân tích được thực trạng của sự phân hóa giàu – nghèo hiện nay diễn ra như thế nào
ở Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn cho sự phát triển lâu
dài.

5.2.2. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương pháp truyền thống, đặc trưng cho địa lí học nói chung. Các tài liệu
và số liệu thu thập được không thể hiện rõ về mặt không gian. Chính vì vậy, việc xem xét,
nghiên cứu và giải thích các vấn đề sẽ trở nên dễ dàng, trực quan hơn nếu thông qua các
bản đồ và biểu đồ.
5.2.3. Phương pháp dự báo
Dựa trên quá trình nghiên cứu trong một thời gian dài, căn cứ vào điều kiện thuận
lợi, khó khăn và thực trạng của sự phân hóa giàu - nghèo để đưa ra những định hướng để
dự báo trong tương lai.
Mỗi phương pháp nghiên cứu đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, không có
phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu, muốn làm rõ vấn đề
một cách khoa học và chính xác nhất thì cần phối kết hợp các phương pháp một cách nhịp
nhàng và nhuần nhuyễn với nhau.
4
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Một số khái niệm về “nghèo”
Nghèo là khái niệm được dùng rất lâu trên thế giới để chỉ mức sống thấp hơn của
một người, nhóm dân cư, một cộng đồng, một quốc gia so với mức sống của cộng đồng
hay quốc gia khác, không có một chuẩn mực chung về nghèo đói cho tất cả các quốc gia.
Chuẩn mực nghèo đói cũng thay đổi theo thời gian. Như vậy, các khái niệm về giàu và
nghèo chỉ là các khái niệm tương đối, biểu hiện mối tương quan về thu nhập và mức sống
giữa các tầng lớp dân cư trong từng khoảng thời gian và không gian cụ thể. Hơn thế nữa,
nghèo đói còn là sự bao hàm nhiều khía cạnh khác nhau. Các quan điểm khác nhau về
nghèo của con người được đưa ra dưới đây sẽ cho chúng ta thấy một bức tranh rộng lớn
về tình trạng thiếu thốn, trong đó bao gồm nhiều yếu tố khác nhau:
- Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức
tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau: "Nghèo là
một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con

người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh
tế xã hội phong tục tập quán của địa phương”.
- Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith cũng quan niệm: "Con người bị coi là nghèo khổ
khi mà thu nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới
mức thu nhập cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi
như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mực".
- Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đã định
nghĩa về nghèo: "Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đôla mỗi
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần thiết để tồn
tại".
5
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
- Còn nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình "Xoá đói
giảm nghèo ở Việt Nam - 1995" đã đưa ra định nghĩa: "Nghèo là tình trạng thiếu khả năng
trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế".
- Đối với Việt Nam, trong một báo cáo của Action Aid Vietnam – Một thoáng về
cái nghèo ở Việt Nam – Heather Grady đã đưa ra một quan điểm đối với người nghèo của
Việt Nam là những người không có khả năng tiếp cận hoặc kiểm soát các nguồn lực kinh
tế, xã hội và chính trị và do đó, họ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
con người một cách có phẩm giá.
Mặc dù trong nhiều năm qua, các nhà khoa học kinh tế và xã hội đã có nhiều nỗ
lực trong việc đưa ra một định nghĩa chính xác về sự nghèo đói, song, do tính tương đối
về mặt không gian và thời gian cũng như tính nhiều mặt của vấn đề nghèo đói mà những
định nghĩa về nó, nhìn chung cũng chỉ dừng lại ở mức tương đối.
Tóm lại, nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có các điều kiện vật chất và
tinh thần để duy trì cuộc sống gia đình họ ở dưới mức sống tối thiểu trong điều kiện
chung của cộng đồng. Mức sống tối thiểu ở đây được hiểu là các điều kiện ăn, ở, mặc và
các nhu cầu khác như văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ đạt mức duy trì cuộc
sống rất bình thường. Mức sống tối thiểu của mỗi nước sẽ khác nhau tùy thuộc vào khí
hậu, những đặc điểm tự nhiên và một phần lớn là tùy thuộc vào mức độ văn minh đã đạt

được của từng thời đại và của mỗi nước. Về cơ bản, người nghèo là người phải sống dưới
mức được định nghĩa như là chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một khoảng
thời gian và không gian xác định. Cốt lõi của khái niệm này là thiếu mức độ tối thiểu về
nhân lực và vật lực để có thể đạt được một mức sống hợp lí. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
nghèo là một khái niệm động hơn là tĩnh. Những người nghèo không phải là một tầng lớp
xã hội tĩnh hay không có sự dịch chuyển. Trên thực tế, sau một thời gian, nhiều cá nhân
hoặc nhiều gia đình đã vượt lên trên ngưỡng nghèo đói, trong khi một số khác lại bị trượt
xuống dưới của sự nghèo đói. Do đó các ước tính về nghèo đói luôn có tính nhạy cảm
cao.
6
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
1.2 Khái niệm về “giàu”
Giàu là sự sở hữu các vật chất, tài sản có giá trị. Khái niệm về giàu thường phổ biến
trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là trong kinh tế học phát triển. Tuy vậy khái niệm về
giàu thường phụ thuộc vào văn phạm, vì định nghĩa về giàu không có sự thống nhất trên
thế giới. Nhìn chung, các nhà kinh tế học định nghĩa giàu là "bất cứ thứ gì có giá trị", rất
nhiều cá nhân và văn phạm khác nhau có các định nghĩa khác nhau về giàu.
1.3 Khái niệm "phân hoá giàu nghèo"
Trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kém phát triển sang nền kinh tế thị
trường, xu hướng biến động của cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay ngày càng trở nên rõ
nét. Từ thực trạng đó, đã có một số luận điểm có quan hệ đến quan niệm sự phân hoá giàu
nghèo.
+ Phân hóa giàu nghèo gắn liền với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động.
+ Phân hóa giàu nghèo là sự phân cực về kinh tế.
+ Phân hóa giàu nghèo là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế và đến lượt mình sự phân hoá đó lại trở thành nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
+ Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội
thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế khác biệt nhau. Phân hóa giàu nghèo là phân
tầng xã hội về mặt kinh tế, thể hiện trong xã hội có nhóm giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo

tầng đáy. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là khoảng cách về thu nhập và mức sống.
Vậy phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội
thành các nhóm xã hội có điều kiện kinh tế và chất lượng cuộc sống khác biệt nhau; là sự
phân tầng xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này về tài
sản, thu nhập, mức sống.
7
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
1.4 Tiêu chí để đánh giá sự phân hóa giàu nghèo
Trên thế giới người ta thường dùng 2 tiêu chí hay hai phương pháp để đánh giá sự
phân hoá giàu nghèo:
+ Theo công thức 1/n: trong đó n là % dân cư để so sánh. Ví dụ: nếu theo cột dọc
giữa người giàu và người nghèo ta lấy 5% người thu nhập thấp nhất ở cột thấp nhất so với
5% người thu nhập cao nhất thì tỷ lệ là 1/5, tức chênh lệch nhau 20 lần. Đây là độ an toàn
của sự phân hoá giàu nghèo.
+ Hệ số tập trung Gini là hệ số thay đổi từ 0 đến 1 cho biết mức độ công bằng phân
chia trong thu nhập thấp. Nếu hệ số này càng thấp thì mức công bằng càng cao. Hệ số
Gini cũng đã được sử dụng để đánh giá mức độ phân tầng, phân hoá, phân cực giữa các
vùng, miền hay nhóm xã hội.
Theo hệ số Gini này (hay theo nhà kinh tế học người Mỹ Kuznet) trong thời kỳ nền
kinh tế mới đi vào tăng trưởng: Sự bất bình đẳng sẽ tăng lên là tất yếu. Khi nền kinh tế
tăng trưởng đến mức độ nhất định sẽ giải quyết được vấn đề xã hội đó, công bằng sẽ được
thực hiện.
Từ việc phân tích những khái niệm "nghèo", “giàu”, "sự phân hoá giàu nghèo" ta cũng
thấy được tính hai mặt của sự phân hóa giàu nghèo đối với nền kinh tế. Từ đó cũng có thể
thấy sự tác động nhất định của nó đối với kinh tế- xã hội Việt Nam.
1.5 Nguyên nhân của sự phân hóa giàu nghèo ở thành thị
1.5.1 Nguyên nhân chủ quan
Có thể nói rằng vấn đề giàu cụ thể ở nước ta thế nào vẫn chưa được rõ vì thiếu số
liệu chính thức. Đó là do chúng ta chưa có chủ trương kê khai tài sản và thu nhập. Kết quả
do công chúng tự khai báo, nhưng thực tế thì ít người khai báo đúng thu nhập của mình,

người giàu khai báo ít đi để trốn thuế thu nhập, người nghèo khai báo ít hơn để được
hưởng trợ cấp từ chính sách nhà nước Tuy nhiên qua điều tra cũng thấy được nguyên
nhân cơ bản để không ít hộ giàu lên đó là:
8
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
- Phần lớn người giàu là ở lĩnh vực buôn bán và dịch vụ, trong lĩnh vực sản xuất số
hộ giàu rất ít. Trong số hộ giàu lên nhờ buôn bán, có không ít người đã lợi dụng các kẽ hở
của pháp luật để trốn thuế hoặc lẩn tránh các khoản nộp khác. Ở đây phải kể đến một bộ
phận không nhỏ các viên chức Nhà nước làm "dịch vụ tổng hợp" tại các công ty trách
nhiệm hữu hạn, các trung tâm tư vấn Ngoài ra là các hành vi buôn lậu, trốn thuế, làm
hàng giả, tham nhũng cực kỳ nguy hiểm cũng tạo nên một bộ phận cán bộ, viên chức giàu
lên rất nhanh.
- Về tay nghề, tính chất công việc, vị trí quyền lực:
Tay nghề cao, quyền lực càng lớn thì thu nhập càng lớn. Tất nhiên tay nghề và tính
chất công việc (đòi hỏi là lao động chân tay, trí óc nhiều, hay độ phức tạp của công
việc ) đều đòi hỏi trình độ, tri thức của người lao động được tích luỹ lâu dài mới có được
và những người sở hữu chúng có thu nhập cao là đúng. Tuy nhiên địa vị xã hội hay uy tín
có thể xuất phát từ tiềm lực kinh tế và hiện tượng người lạm dụng để làm giàu một cách
bất chính thì sẽ làm cho sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng vì thực sự dựa trên quyền
lực và địa vị xã hội, tiềm lực kinh tế để làm giàu chính là bóc lột giá trị của những người
khác.
Còn nguyên nhân cơ bản của nghèo là: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn hoặc không
có vốn, đông con, neo đơn thiếu sức lao động. Bên cạnh đó thì:
- Nguyên nhân nghèo chủ yếu ở thành thị là do có thể bị phá sản, đông con, thiếu
sức lao động, ốm đau, lười nhác, mắc các tệ nạn xã hội, thiếu tri thức, trình độ dân trí
thấp
Tất cả những nguyên nhân chủ quan trên đã làm những người nghèo ngày càng
nghèo thêm và những ngời giàu thì giàu thêm và tạo ra hố ngăn giữa người giàu và người
nghèo ngày càng rộng. Bên cạnh đó, những nguyên nhân khách quan càng làm cho sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng thêm và con người muốn điều chỉnh cũng khó được.

9
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
1.5.2 Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân nổi bật là do nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng chậm phát triển,
thu nhập bình quân theo đầu người quá thấp, lại bị ảnh hưởng bởi những hậu quả nặng nề
của mấy chục năm chiến tranh liên miên tàn phá đất nước. Vị trí địa lí của nước ta bên
cạnh mặt thuận lợi cho phát triển kinh tế cũng gây nhiều khó khăn do hình thế trải dài,
gây nên sự cách biệt chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các vùng lãnh thổ trong lịch sử.
Nước ta lại bị ảnh hưởng lớn bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt: thiên tai, lũ lụt, hạn hán,
sâu bệnh, mất mùa, đất đai cằn cỗi, diện tích canh tác ít, địa hình phức tạp (sở hữu ruộng
chua, mặn ) xa xôi hẻo lánh, giao thông đi lại không thuận tiện, cơ sở hạ tầng kém luôn
đe dọa và tước đi những thành quả lao động, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Từ đó dẫn
đến việc di cư từ nông thôn ra thành thị mà chủ yếu phần dân cư nghèo đói, không có đất
đai, trình độ thấp mong muốn ra thành thị tìm việc làm từ đó tạo nên hố ngăn cách ngày
càng sâu giữa giàu - nghèo.
Mặt khác, trong các yếu tố mang tính tính lịch sử, truyền thống thì cũng có mặt tiêu
cực và tích cực ảnh hưởng đến sự phân hoá giàu nghèo. Đó chính là sự đè nặng của
những truyền thống cổ hủ, lạc hậu, cá nhân bị hoà lẫn vào cộng đồng được duy trì theo
cộng đồng cùng với quan niệmn "ai giàu ba họ, ai khó ba đời","an bần lạc đạo" hay câu
"con vua rồi lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa " là triết lí một thời để an ủi người
ta cam chịu đói nghèo, coi đó là sự thật hiển nhiên không thể thay đổi được. Chính vì vậy
nó làm người dân trở nên nhụt trí, cam chịu trước số phận của mình, và làm kìm hãm sự
phát triển của đất nước. Nó tạo ra sự trì trệ nghèo nàn lạc hậu của nước ta nói chung, đặc
biệt là người nghèo nói riêng.
Nguyên nhân thứ ba là khi chúng ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trờng thì những di chứng của chế độ bao cấp như: bình quân, vừa đặc
quyền, vừa đặc lợi vẫn sót lại trong ý thức con người, làm cho con người trở nên lười lao
động, suy nghĩ không sáng tạo, năng động trong sản xuất.
Môi trờng pháp lý: hiện nay nhà nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống
pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính vì vậy dễ nhận thấy sự bất ổn định và

10
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
nhiều khiếm khuyết. Nhiều đạo luật còn thiếu đang đợc bổ sung. Những cái đó cũng cần
được sửa đổi, hoàn thiện. Tính khả thi của nhiều đạo luật và văn kiện dưới luật vẫn còn
yếu. Điều này dẫn đến còn nhiều khe hở tạo ra cơ hội, là mảnh đất cho các hành động
không theo đúng pháp luật, làm giàu bất chính. Đây là một trong những vấn đề gay cấn
nhất, có tác dụng tiêu cực, đẩy hiện tượng phân hoá giàu nghèo đôi khi trở thành không
bình thường, thái quá trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, có một số hộ gia đình giàu lên nhờ được thừa kế một số vốn lớn, hay
có đất nằm trong khu quy hoạch, gần đường xá
Do cơ chế chính sách chưa thoả đáng: trung ương cũng như địa phương chưa có
chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng thoả đáng, nhất là các vùng núi cao, vùng sâu, vùng căn
cứ kháng chiến cũ, thiếu các chính sách đồng bộ như: chính sách ưu đãi, khuyến khích
sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá
cũng như chuyển giao công nghệ, tổ chức chưa tốt việc chăm lo của cộng đồng xã hội đối
với người nghèo.
Các nguyên nhân trên tác động qua lại lẫn nhau làm cho tình trạng nghèo đói
trong thành thị ờ nước ta nói chung cũng như Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng thêm
trầm trọng, gay gắt khiến cho các hộ nghèo khó khó có thể vượt qua được nếu không có
những chính sách và giải pháp riêng đối với các hộ nghèo và khu vực nghèo.
Tóm lại, ta có thể thấy hàng loạt những nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo ở thành thị. Có rất nhiều nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp, nguyên nhân chủ quan,
khách quan và chúng tác động qua lại lẫn nhau và tạo nên vận may, cơ hội của mỗi cá
nhân, do vậy tạo nên sự khác biệt chênh lệch trong thu nhập, tài sản và hàng loạt các mặt
khác của cuộc sống tạo nên sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
1.6 Tác động của sự phân hóa giàu nghèo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.6.1 Mặt tích cực
Phân hóa giàu nghèo đã góp phần khơi dậy tính năng động xã hội trong con người ở
nhiều nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác cơ may, vận hội để phát triển vượt
11

Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
lên. Kích thích sự sáng tạo của con người, nhằm tạo môi trường cạnh tranh quyết liệt, qua
đó sàng lọc và tuyển chọn những thành viên vượt trội, tạo động lực cho sự phát triển của
mỗi ngành nghề, mỗi lĩnh vực hay mỗi địa phương. Đặc biệt là số nhóm và nhóm người
xã hội giàu lên do làm ăn đúng pháp luật. Và những hộ đã giàu hướng dẫn cách làm ăn
cho người nghèo làm cho nền kinh tế phát triển với năng suất lao động cao, tăng phúc lợi
xã hội cho người dân (y tế, giáo dục ) thông qua thuế thu nhập của người giàu
1.6.2 Mặt tiêu cực
Sự phân hóa giàu nghèo trên thực tế dẫn đến làm trầm trọng hơn những bất bình
đẳng xã hội. Đó là:
- Sự cách biệt giữa người giàu và người nghèo ngày càng rộng. Những người giàu
ngày càng có cơ hội phát triển do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật còn người
nghèo phải làm thuê và bị bóc lột. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận và được đảm bảo những
điều kiện sống cơ bản, tối thiểu. Một mặt vì họ quá nghèo không đủ tài chính trang bị
vốn, tri thức, kĩ thuật mặt khác trong cơ chế thị trường hoạt động dịch vụ cơ bản có xu
hướng phục vụ người giàu là chính. người nghèo thường thiếu vốn làm ăn, muốn có vốn
họ phải thế chấp nhà cửa ruộng vườn nên không có khả năng đảm bảo tài chính nếu thiên
tai xảy ra, chính vì vậy họ không dám đầu tư nên không thoát khỏi tình trạng nghèo thâm
niên. Chính vì vậy trong xã hội sự bất bình đẳng ngày càng trầm trọng.
- Trong các hộ gia đình nghèo thì phụ nữ, trẻ em, người già lại là những ngời thiệt
thòi nhất, đặc biệt hộ nghèo thường rơi vào những gia đình là đối tượng quan tâm của xã
hội (gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với nước ) thì vấn đề này càng trở nên
phức tạp hơn.
- Với nền kinh tế thị trường như hiện nay, thì phân phối không thể công bằng: Đối
với một số người giàu, giàu lên nhanh chóng nhờ một số hoạt động siêu lợi nhuận như
kinh doanh địa ốc, bất động sản, một số loại hình hoạt động thơng mại nhưng họ phải có
vốn có tri thức tuy nhiên bên cạnh đó có một số người làm giàu bất hợp pháp (buôn lậu,
trốn thuế, tham nhũng ). Đặc biệt là tình trạng tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã
12
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp

hội làm ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị- xã hội và không tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế- xã hội.
- Về hành vi, lối sống:
Phân hóa giàu nghèo góp phần tạo sự đa dạng trong các hình mẫu lối sống. Sự phát
triển của lối sống tiêu dùng xa hoa, lãng phí trong bộ phận dân cư khá giả có ảnh hưởng
xấu tới các nhóm dân cư khác. Đặc biệt một số bộ phận gia đình mới phất lên (nhờ gặp
may, hoặc do kế thừa ) sử dụng tiền theo lối sống buông thả, bất chấp các chuẩn mực giá
trị, đạo đức, hoặc không quan tâm đến con cái, để chúng hư hỏng với cuộc sống sa đoạ,
đồi trụy mà không biết. Đây là một trong những nguồn gốc của tệ nạn ma tuý xã hội mại
dâm và tình trạng tội phạm gia tăng như hiện nay. Và chính sự tiêu xài hoang phí này
cũng làm ảnh hưởng tới những người nghèo, hoặc những người thuộc tầng lớp trung lưu.
Những người nghèo thì họ cảm thấy không còn gì để mất vì vậy họ hành động không như
xã hội mong đợi là ăn cắp, trung gian trong những con đường buôn lậu, vận chuyển ma
tuý, bán dâm nhằm mục đích giàu lên nhanh chóng, còn người khá giả, trung lưu dựa
trên cơ sở sẵn có của mình (của cải, vốn, mối quan hệ ) mốc ngoặc với nhau làm ăn phi
pháp.
- Ảnh hưởng của phân hóa giàu nghèo còn lệch lạc các định hướng giá trị và chuẩn
mực đạo đức, lối sống của xã hội nhất là đối với thế hệ trẻ:
Phân hóa giàu nghèo gây tình trạng thiếu hụt văn hoá trong phát triển. Những thanh
niên được sinh ra trong những gia đình khá giả, có quyền lực thường có tư tưởng "con
ông cháu cha" coi thường luân lý, đạo đức xã hội, không chịu củng cố kiến thức. Còn
những gia đình nghèo lại không đủ điều kiện để cho con ăn học chính vì vậy nó gây nên
tình trạng thiếu hụt văn hoá trong xã hội. Nếu không sớm phát hiện và nhận thức đầy đủ
tác động tiêu cực của xu hướng này để sớm có giải pháp khắc phục thì xã hội không thể
đạt được sự phát triển bền vững.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo
có xu hướng ngày càng tăng lên và nó có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với xã hội.
Vì vậy chúng ta phải nhận diện rõ ảnh hưởng của nó để phát huy mặt tích cực và giải
13
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp

quyết mặt tiêu cực của sự phân hóa giàu nghèo. Nếu không giải quyết được mặt tiêu cực
thì nó sẽ làm lệch hướng đường lối xây dựng đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta
và lây nhiễm nặng dần bệnh "nan y" của CNTB.
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO Ở TP. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đông dân, đồng thời cũng là trung
tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Trên cơ sở diện tích tự nhiên, thì
thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn thứ nhì Việt Nam (sau khi thủ đô Hà Nội được mở
rộng). Tính đến năm 2012, dân số toàn thành phố Hồ Chí Minh đạt gần 7.750.900 người.
Trong đó dân nhập cư chiếm khoảng trên 1,3 triệu người. Với số lượng dân cư ngày càng
tăng nhanh, kinh tế phát triển mạnh mẽ… đã tạo ra nhiều mặt tích cực và tiêu cực trong
cuộc sống của người dân, trong đó nổi bật hơn cả là tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày
càng mạnh mẽ. Thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện qua
các mặt như:
2.1 Về thu nhập
Theo tổng cục Thống kê điều tra về mức sống dân cư, giai đoạn 1992 – 2002, thu
nhập bình quân đầu người của nhóm nghèo nhất tăng lên rất chậm. Năm 2001-2002 so
với 1999-1993: nhóm nghèo nhất tăng khoảng 49,1%; nhóm giàu nhất tăng tới 223,5%.
Tuy thu nhập rất quan trọng nhưng chi tiêu mới là cái phản ánh mức sống thực tế của
người dân. Khi nền kinh tế TP.HCM phát triển theo cơ chế thị trường thì khoảng cách
giàu nghèo lại có khả năng tăng lên cao gấp nhiều lần so với tỷ lệ giảm nghèo.
Mức sống của người dân TP.HCM không ngừng tăng lên và hiện nay thu nhập bình
quân đầu người đạt khoảng 2.500 USD/năm. Nhưng nếu tính bình quân chung giữa nhóm
có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất thì con số này chênh nhau 6,9 lần.
Theo chuẩn nghèo mới được áp dụng tại TP.HCM từ ngày 24-01-2014 vừa qua, người có
thu nhập dưới 16 triệu đồng/người/năm (khoảng 2 đô la Mỹ/ngày) sẽ nằm trong diện
nghèo, thay vì 12 triệu như 2013. Như vậy số người nằm trong diện nghèo của TPHCM sẽ
14
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
tăng lên 130.000 hộ (chiếm 7,12% dân số TP.HCM). Thu nhập bình quân đầu người ở TP.
HCM năm 2013 đạt 4.513 đôla. Tuy nhiên thu nhập của người nghèo nhìn chung rất thấp

và không ổn định. Các kết quả điều tra cho thấy bình quân thu nhập của người nghèo là
700.000/tháng/người. Mỗi hộ gia đình có thể thu nhập từ một hoặc nhiều nguồn, có thể kể
đến các khoản thu từ việc làm (việc làm chính, việc làm phụ ở các lĩnh vực nông nghiệp,
phi nông nghiệp) và ngoài việc làm (lương hưu, thân nhân giúp đỡ…). Mặt khác, ảnh
hưởng đến thu nhập bình quân nhân khẩu của các hộ gia đình còn là hệ số phụ thuộc, tức
tỉ lệ phần trăm số người ăn theo trên số người có thu. Hoạt động thu nhập chủ yếu của cư
dân đô thị vẫn là buôn bán nhỏ, dịch vụ nhỏ, làm mướn, các khoản thu ngoài việc làm
chính không quan trọng lắm. Điều này giải thích tại sao thu nhập của người nghèo lại thấp
vì đa số họ chỉ có thể làm những công việc giản đơn trong khu vực phi chính thức. Người
nghèo hầu như chỉ sống trong những cộng đồng nghèo nên khả năng tiếp cận với sự giúp
đỡ bên ngoài cũng ít hơn. Hơn nữa, khi được hỏi cảm nhận của người nghèo ở mặt nào thì
đa số đều trả lời việc làm của họ có thu nhập thấp. Hẳn nhiên điều này là kết quả tất yếu
của một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Để làm chậm lại tiến trình gia tăng
tình trạng bất bình đẳng này cần có sự can thiệp hiệu quả của Nhà nước trong việc tạo
thêm cơ hội và điều kiện việc làm cho các tầng lớp có thu nhập thấp trong xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những người thu nhập hàng tháng rất cao hàng nghìn
USD/tháng, thậm chí cao gấp vài chục lần thu nhập của người nghèo, đặc biệt là những
người làm trong các lĩnh vực kinh doanh, tài chính…
2.2 Về chi tiêu
Đi đôi với thu nhập là chi tiêu của các hộ gia đình. Phân tích về chi tiêu còn là một
phương thức khám phá sự bố trí ngân sách gia đình cho những vấn đề ưu tiên hay không
ưu tiên, đặc biệt là ở các hộ nghèo. Hiện nay theo điều tra cũng cho thấy chỉ có khoảng
24,3% hài lòng với mức thu nhập của mình và con số không hài lòng cao hơn: 35%. Chi
tiêu ăn uống chiếm hơn phân nửa trong tổng thu nhập của hộ gia đình, cá nhân, khoảng
20% chi cho việc học hành. Nếu lấy thu nhập trừ cho chi tiêu thì số tiền dư ra của khoảng
15
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
40% tổng số hộ gia đình là không đáng kể, thậm chí nhóm có mức thu nhập và chi tiêu
thấp nhất còn bị âm nên cuộc sống của những hộ này không đảm bảo.
Phân tích về mối liên hệ giữa thu nhập và chi tiêu cho thấy rằng có một cách thức

chi tiêu tương ứng với sự khá giả hay nghèo khó của các hộ gia đình. Sự gia tăng chi tiêu
phản ánh trên bình diện chung một mức sống khá hơn nhưng điều này không hoàn toàn là
sự nâng cao mức sống vì chi tiêu mang tính ổn định nhưng dễ bị đột biến theo những biến
cố của gia đình. Nhìn chung, mức chi cho ăn uống chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi tiêu
thường xuyên của các hộ gia đình nghèo, trung bình hơn 875.000 đồng (70% cơ cấu tiêu
dùng). Trong đó, các hộ có thu nhập cao hơn có xu hướng chi cho ăn uống nhiều hơn. Số
hộ gia đình nghèo có mức chi tiêu thường xuyên dưới 1 triệu đồng/tháng chiếm đa số trên
toàn thành phố. Mức chi những khoảng không thường xuyên cũng khá lớn bình quân
hàng tháng các hộ gia đình có mức không dưới 200.000đồng. Tổng chi tiêu của các hộ gia
đình nghèo toàn thành phố chủ yếu từ 1 - 1,5 triệu đồng.
Các nhóm thu nhập thấp thường có khuynh hướng chi vượt khỏi thu. Do nguồn thu
nhập ít ỏi nên hầu như phần lớn thu nhập chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu ăn
uống thường ngày của người nghèo. Lương thực thực phẩm chiếm từ 70 dến 75 % chi
tiêu hằng tháng của những gia đình nghèo, còn lại để chi cho khám chữa bệnh, hiếu hỉ… .
Riêng về học hành, chi cho học hành của con cái vẫn chiếm một tỷ lệ nhất định trong
ngân sách gia đình.
Thực tế cũng cho thấy tình trạng chi tiêu vượt quá mức thu nhập dẫn đến việc vay
nợ chồng chất. Thực ra chi tiêu chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến vấn đề có hay không vượt
được nghèo. Điều đó tạo nên những thuận lợi hay cản trở con đường vượt nghèo của họ.
Tuy nhiên, bố trí cách chi tiêu lại là cách giải quyết tạm thời cho sự giảm sút kinh tế hộ
gia đình. Nhu cầu 2.100 calori một ngày cho một người thì số tiền chi dùng cho ăn uống
tối thiểu phải lên đến khoảng 300.000đ/người/tháng. Người nghèo đang bị suy dinh
dưỡng đó là khả năng hoàn toàn hiện thực.
Người có thu nhập thấp chỉ gói gọn cuộc sống trong mức thu của mình, cắt giảm
những khoản chi ngắn gọn cho những nhu cầu cơ bản. Tuy nhiên các khoản chi biểu hiện
16
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
cho chất lượng sống như giáo dục và y tế lại giảm đi dần ở các nhóm có nguồn thu nhập
thấp hơn. Tuy thu nhập thấp không ảnh hưởng lớn lắm đến việc người ta dành ra bao
nhiêu trong ngân sách để chi cho giáo dục nhưng sự giảm đi ở khoản chi y tế và giáo dục

ở những nhóm thu nhập thấp hơn này cũng là điều đáng lo ngại cho chiến lượt vượt nghèo
trong tương lai, làm cho khả năng đổi đời trở nên khó khăn hơn. Nhu cầu tiêu dùng của
họ, theo chủ quan của họ, còn khiêm tốn và mặt đó nào đó nói lên nhận thức chưa đầy đủ
về tình trạng nghèo của mình.
Hình ảnh đối lập về nơi mua sắm của ngưởi giàu, người nghèo

Cơ cấu chi tiêu cho đời sống của nhóm nghèo
17
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
Khoản chi Số tiền (nghìn đồng) Tỷ trọng (%)
Tổng số
I. Chi cho ăn uống
1. Lương thực
2. Thực phẩm
3. Chất đốt
4. Ăn uống ngoài gia đình
5. Uống và hút thuốc
II. Chi không phải ăn uống
1.May mặc, mũ nón, giày dép
2. Nhà ở, điện nước, vệ sinh
3. Thiết bị và đồ dùng gia đình
4. Y tế và chăm sóc sức khoẻ
5. Đi lại và bưu điện
6. Giáo dục
7. Văn hoá, thể thao, giải trí
8. Đồ dùng và dịch vụ khác
112,5
85,9
37,7
36,5

6,1
2,1
3,6
36,6
6,8
2,8
6,7
7,1
4,5
6,0
0,1
2,6
100,0
70,1
30,8
29,8
49,8
1,7
2,9
29,9
5,5
2,3
5,5
5,8
3,7
4,9
0,1
2,1
Trong khi đó, trong nhóm người giàu chi tiêu rất nhiều vào các mặt hàng xa xỉ.
Những năm qua, mức sống của người dân nói chung đã cải thiện, nhưng sự chênh lệch về

mức sống ngày càng khắc họa rõ hơn sự phân hóa giàu nghèo trong dân cư. Nhóm người
giàu có mức chi cao ở những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống cao gấp 7,5 lần
nhóm nghèo, trong đó chi nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp gần 12 lần; chi phí đi lại và bưu
điện gấp hơn 12 lần; chi phí văn hóa, thể thao, giải trí gấp 131 lần…
Cơ cấu chi tiêu của nhóm hộ giàu
Khoản chi Số tiền (nghìn đồng) Tỷ trọng (%)
I. Chi cho ăn uống
1. Lương thực
2. Thực phẩm
3. Chất đốt
271,0
40,8
141,9
11,8
49,5
7,5
25,9
2,2
18
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
4. Ăn uống ngoài gia đình
5. Uống và hút thuốc
II. Chi không phải ăn uống
1.May mặc, mũ nón, giày dép
2. Nhà ở, điện nước, vệ sinh
3. Thiết bị và đồ dùng gia đình
4. Y tế và chăm sóc sức khoẻ
5. Đi lại và bưu điện
6. Giáo dục
7. Văn hoá, thể thao, giải trí

8. Đồ dùng và dịch vụ khác
55,1
21,5
276,0
24,9
29,4
52,2
28,5
72,6
36,0
11,4
20,7
10,1
3,9
50,5
2,5
5,4
9,5
5,3
13,3
6,6
2,1
3,8
Từ hai bảng cơ cấu chi tiêu trên ta thấy có sự chênh lệch khá lớn về mức thu chi
giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo. Như vậy chi tiêu cho đời sống cao hay thấp phụ thuộc
không những vào thu nhập, vào mức sống, mức đắt đỏ mà còn phụ thuộc vào tính tiết
kiệm của người dân.
2.3 Tình trạng nhà ở
Nhà ở không chỉ là vấn đề nhạy cảm của người dân mà còn tạo áp lực không nhỏ
lên vai những nhà quản lý trước những tình trạng như nhà ở trái phép, không đúng quy

hoạch, chưa xác định sở hữu, đặc biệt là sự phân hoá xã hội trên lĩnh vực nhà ở. Nhà ở
cho người nghèo là một trong những mục tiêu căn bản đang được quan tâm. Liệu những
người này có khả năng vươn tới một tình trạng cư trú tốt hơn không, liệu điều kiện cư trú
tốt có thay đổi gì đến tình trạng nghèo của họ? Câu trả lời là rất khó. Tính di chuyển năng
động của người nghèo rất thấp. Thường họ không có điều kiện chọn nơi cư trú tốt hơn, và
do đó khi đã ở đâu thì ở đó lâu dài trừ khi có một sự chuyển đổi bắt buộc
Điều quan trọng ở đây là đa số đều sở hữu nhà ở của mình (91,6%) nhưng kết cấu
nhà thì tạm bợ và bán kiên cố là chính và diện tích ở tương đối nhỏ, không gian chật hẹp
dưới 40m
2
và có khoảng 12% nằm trong diện quy hoạch phải giải tỏa di dời. Hệ thống cơ
sở hạ tầng kỹ thuật (đường sá, cấp điện, cấp và thoát nước) của khu vực nhà ở tương đối
19
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
tốt (vì nằm trong tình trạng thuận lợi chung của TP HCM), chỉ có khoảng 20-30% than
phiền là hệ thống giao thông, thoát nước, vệ sinh môi trường là không tốt. Hệ thống công
trình kỹ thuật hạ tầng tốt góp phần nâng cao chất lượng sống ở TP HCM, cao hơn đáng kể
so với các vùng lân cận và nông thôn. Điều này thể hiện qua một số chỉ báo về kiểu loại
nhà vệ sinh, mức độ sử dụng điện, nước sạch, tỉ lệ có các thiết bị sinh hoạt gia đình như ti
vi, tủ lạnh.
Các tiện nghi sinh hoạt trong các hộ gia đình nghèo đều có ở cấp độ những đồ
dùng cần thiết như: tivi, đầu video, bếp điện/ga, tủ lạnh, xe máy. Tuy nhiên chất lượng
không tốt lắm. Về điều kiện cấp điện, nước, nhà vệ sinh thì 86,3% các hộ gia đình nghèo
toàn thành có nhà vệ sinh riêng, 88,2% số hộ gia đình nghèo trên địa bàn thành phố có
đồng hồ điện riêng, 51,3% hộ gia đình nghèo có đồng hồ nước riêng trên toàn thành phố.
Giá điện câu nhờ với mức giá từ 1000 – 2000 đồng/1kwh, Giá nước câu nhờ phải trả là từ
2000 – 5000 đồng/1m. Nhìn chung không gian cư trú tại đô thị có dãn ra nhưng sự phát
triển đó không tương ứng cho các tầng lớp dân cư khác nhau. Với sự gia tăng dân số (kể
cả cơ học) mà không có sự can thiệp nhà nước thông qua chương trình nâng cấp đô thị và
xây nhà cho người thu nhập thấp thì sẽ xuất hiện những khu nhà lụp xụp với những điều

kiện cư trú hết sức sơ sài, mật độ cư trú đậm đặc, vừa ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị,
vừa làm giảm chất lượng sống của dân cư, nhất là những người có nguồn thu nhập không
đảm bảo.
Ngay giữa lòng TP.HCM, bên cạnh những cao ốc sang trọng, hiện đại vẫn còn tồn
tại những khu nhà lụp xụp, “ổ chuột”. Những khu vực ấy tập trung chủ yếu tại các quận 3,
4, 7, 8, Bình Thạnh, Gò Vấp…Trong những ngôi nhà ọp ẹp, nhà vệ sinh tạm bợ, thiếu
điện, thiếu nước, rác vứt ngổn ngang… người dân phải sống trong tình trạng mất vệ sinh
trầm trọng. Chúng thường nằm sâu trong các con hẻm chỉ lọt một người đi, hay được gác
sơ sài trên những dòng kênh đen ngòm quanh năm bốc mùi hôi thối.
Chỉ cách trung tâm TP. HCM khoảng 20-30 phút đi xe máy, người ta có thể dễ
dàng bắt gặp những khu dân cư lao động nghèo rất tồi tàn nằm ở dưới gầm cầu Nguyễn
Tri Phương (quận 8). Tại đây lúc nào cũng thấy mùi hôi, tanh bốc lên. Hầu hết những
20
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
người dân nơi đây là những lao động nghèo có việc làm thời vụ, thu nhập thấp. Những
đứa trẻ gầy gò hằng ngày phải hít thở không khí độc hại nên bệnh sổ mũi, ghẻ lở, suy dinh
dưỡng, tiêu chảy… thường xuyên “hỏi thăm”.
Môt khu biệt thự tại quận 7 TP.HCM Một góc khu nhà "ổ chuột" ở quận 8, TP.HCM
2.4 Chăm sóc sức khoẻ
Tỷ lệ người bệnh trong các hộ gia đình không cao lắm chiếm một tỷ lệ khoảng
12,5% tổng số người trong các hộ nghèo, và thực tế tuy không ghi nhận những khoản chi
lớn về y tế trong cơ cấu tiêu dùng các hộ, nhưng tỷ lệ chi cho y tế là 7,1% cao hơn mức
bình quân chung thành phố là 6%. Tuy mức chi tuyệt đối thấp hơn (chỉ bằng ½ so với
mức chung thành phố, 20.000đ/ng/tháng so với 40.000đ/ng/tháng) nhưng điều này không
thể nói rằng người nghèo không chi nhiều cho vấn đề chăm sóc sức khoẻ mà vì họ cần chi
vào những khoản mục khác hơn, một số người nghèo được giảm một phần hay toàn bộ
viện phí và thường họ sử dụng nhiều dịch vụ y tế cũng như thuốc chữa bệnh rẻ tiền. Như
vậy, người nghèo khổ có thu nhập thấp thường chịu thiệt thòi hơn trong việc chăm sóc sức
khoẻ cho mình bởi “tiền nào thì của đó”.
Tăng cường hiệu lực của các nguồn dịch vụ xã hội sẽ là một yêu cầu quan trọng để

hỗ trợ thêm cho người nghèo về mặt y tế, trong đó vai trò của bảo hiểm y tế cần được đề
cập đến hàng đầu để có thể chia sẻ nhiều hơn những rủi ro trong cuộc sống cho người
nghèo. Để xã hội hoá dịch vụ y tế và thẻ bảo hiểm thì không chỉ khuyến khích ý thức của
người nghèo mà nhà nước còn phải tăng cường hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt số lượng lẫn
chất lượng phục vụ. Một thực trạng phổ biến hiện nay là tuy một số những người nghèo
21
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
được cấp thẻ bảo hiểm khám chữa bệnh nhưng con số thực sự sử dụng có hiệu quả loại
hình này còn rất ít do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ thái độ phục vụ
của các cán bộ y tế. Vì vậy, tạo lập một “văn hoá” bao gồm thói quen sử dụng bảo hiểm y
tế lẫn sự chấp nhận việc sử dụng bảo hiểm y tế một cách tích cực là yêu cầu cao nhất đối
với việc nâng cao hơn nữa khả năng chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo trong tương lai.
2.5 Tình chất và quy mô hộ gia đình
Bình quân chung TP.HCM có 4,6 người/hộ, trong đó gia đình từ 1-4 người chiếm
43,3%. Số người trong độ tuổi lao động là 69,7%, cao hơn bình quân cả nước, dân số phụ
thuộc (bao gồm những người chưa đến độ tuổi lao động) chiếm khoảng 19,6% và những
người ngoài độ tuổi lao động chiếm 10,7%. “Với cơ cấu dân số này, TP.HCM không còn
là cơ cấu dân số trẻ nữa mà đang dần đi tới giai đoạn cơ cấu dân số bắt đầu già”.
Về thời gian cư trú, có gần phân nửa số hộ cư trú dưới 25 năm và người định cư
trong vòng 10 năm trở lại đây chiếm phần lớn. Điều này cho thấy số người từ các khu vực
khác di chuyển đến và định cư tại TP.HCM ngày càng nhiều và xu hướng ngày càng tăng
nhanh.
Số lượng hộ nghèo ở mức thấp nhất (dưới 4 triệu đồng còn chiếm một tỷ lệ khá cao
trên 40%). Những người nghèo có một quá trình lịch sử hay nói cách khác họ nghèo từ ít
nhất vài thế hệ. Tuyệt đại đa số đều là người dân TP HCM và có hộ khẩu thường trú tại
thành phố. Một tỷ lệ đáng quan tâm là 17,1% số hộ nghèo thuộc các gia đình thuộc diện
chính sách.
Quy mô hộ gia đình nghèo bình quân 6 người, cao hơn mức bình quân chung thành
phố. Trong một số hộ, có những người bà con thân thuộc ở nhờ nhưng không có quan hệ
kinh tế với chủ hộ. Tỷ lệ dân số phụ thuộc (<15 tuổi và trên 16 tuổi) chiếm 32,2%.

Ngược lại ở những gia đình khá giả thì quy mô lại ít, chỉ 1 hoặc 2 thế hệ trong 1
gia đình, số con của họ cũng từ 1 đến 2 con.
22
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
2.6 Trình độ học vấn và chuyên môn
Một số nghiên cứu đã cho thấy học vấn làm tăng khả năng có việc làm và do đó
làm tăng thu nhập, nên có thể nói học vấn làm giảm nguy cơ gây nghèo đói và đối với
những hộ đã nghèo, học vấn có thể làm tăng khả năng thoát khỏi tình trạng đó (vượt
“nghèo”). Và như vậy, học vấn xét một cách toàn diện hơn, là chìa khoá cho các cá nhân
có được việc làm tốt hơn và có thu nhập cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng sống của
mình và gia đình mình.
Trình độ học vấn của người nghèo (từ 6 tuổi trở lên) toàn thành phố nhìn chung
phổ biến ở cấp 1 chiếm 46,5 %, kế đến là cấp 2 chiếm 33,6%; cấp 3 chỉ chiếm 19,9 %, và
một tỷ lệ không nhỏ không đến trường lớp và bỏ học trong độ tuổi. Tỷ lệ cấp III thấp, đặc
biệt ở các nhóm thu nhập thấp. Điều này cho thấy càng nghèo thì trình độ học vấn càng
thấp vì không có điều kiện cho con em học lên cao. Tỷ lệ trẻ em học không đúng tuổi tăng
dần ở những lớp cao. 7,4% số người nghèo không biết chữ (đặc biệt ở nhóm có mức thu
nhập thấp nhất <4triệu thì tỷ lệ này).
Người nghèo không có trình độ chuyên môn chiếm tỉ lệ gần như tuyệt đối, tới hơn
95,9% trong tổng số. Số người này tập trung phần lớn trong các hộ gia đình có thu nhập
dưới 4 triệu đồng hay nói cách khác, hộ càng nghèo thì trình độ học vấn và chuyên môn
càng kém. Số người có trình độ đại học chỉ chiếm 2 %, trung học chuyên nghiệp là 1,4 %
công nhân kỹ thuật 0,7 %. Thực tế cho thấy chính sách thu học phí của nhà nước chỉ đóng
một vai trò thứ yếu trong việc xác định toàn bộ mức chi phí mà gia đình phải bỏ ra cho
con em họ đến trường. Toàn bộ mức chi phí đó lớn hơn nhiều mức thu học phí của nhà
nước. Vẫn có vô số khoản mà học sinh phải chi không kê được, các khoản chi này các
tăng dần lên đối với từng cấp học và ở mức cao nhất là bậc cao đẳng, đại học. Số tiền này
có một ý nghĩa sâu sắc nếu ta so sánh với chuẩn nghèo đói của một người dân ở Thành
phố Hồ Chí Minh cho nên khả năng của người nghèo học cao là rất khó khăn. Đặc biệt là
trong tình hình hiện nay, với chủ trương tăng dần học phí ở bậc đại học, thì có thể đoán

chắc rằng con em nhà nghèo vào rất ít dù có mở rộng đối tượng miễn giảm. Rõ ràng
nghịch lý là học vấn có khả năng tạo cơ hội kiếm việc làm và do đó tăng thêm thu nhập
23
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
của hộ gia đình nhưng chi phí học vấn là gánh nặng đối với người nghèo, làm cản trở con
đường tiến thân của thanh thiếu niên trong việc học tập để đạt đến một trình độ nào đó
hầu để mưu sinh.
Từ trình độ học vấn và chuyên môn quá thấp, dẫn đến tình trạng hoạt động của
người nghèo có phần kém năng động, hiệu quả. Trên toàn thành phố, tỉ trọng người dân
nghèo (từ 13 tuổi trở lên, có 2286 người) có việc làm ổn định chỉ chiếm 27,7%, việc làm
bấp bênh là 21% , không có việc làm là 8,7%, đi học 14,6%, nội trợ 8%, già mất sức là
10%. Tỷ lệ thất nghiệp khá lớn trong cộng đồng người nghèo, cao hơn mức trung bình
của Thành phố.
Chưa cần nói đến trình độ học vấn cao, học vấn ở mức trung bình cũng đang trở
thành một nỗi bức xúc của người nghèo đang chuyển đổi kinh tế cho phù hợp với môi
trường mới. Trong thời đại kinh tế thị trường, với sự tập trung một nguồn lao động lớn tại
thành phố Hồ Chí Minh, để có được những công việc thu nhập ổn định thì học vấn là một
trong những cánh cửa quan trọng. Do đó, nâng cao trình độ dân trí cho nguời nghèo cũng
đồng nghĩa tạo thêm nhiều cơ may cho họ trong việc có được một công việc tốt đẹp hơn
trong tương lai.
Giữa việc làm và học vấn cũng như vốn xã hội lại có một mối liên hệ mật thiết với
nhau. Trình độ học vấn cũng như mức độ được đào tạo nghề nghiệp có mối quan hệ mạnh
tới khu vực hoạt động kinh tế của mỗi cá nhân. Để có được trình độ học vấn và có tay
nghề, ngoài sự cố gắng của mỗi cá nhân, mức sống gia đình và mạng lưới trợ giúp của xã
hội đóng vai trò quan trọng. Đây là một vòng tương đối luẩn quẩn khó thoát ra. Chính vì
vậy vai trò của Nhà nước và các tổ chức xã hội phải được thể hiện nhiều hơn nữa để giúp
các hộ nghèo có được cơ hội thực sự trong đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Có như thế thì
khả năng thoát nghèo mới có thể nằm trong tầm tay của những hộ có thu nhập thấp.
Việc làm - khả năng nắm bắt và chuyển đổi: Hoạt động nghề nghiệp phổ biến nhất
của người nghèo đô thị là hoạt động buôn bán dịch vụ nhỏ với quy mô gia đình. Họ

thường làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức (informal sector) với những loại
công việc không đòi hỏi tay nghề, mang tính chất thu nhập thấp và không ổn định. Có thể
24
Sự phân hóa giàu nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
nói khu vực kinh tế phi chính thức là khu vực cần thiết cho sự tồn tại và mưu sinh của đa
số người nghèo, đặc biệt đối với người nghèo thành thị mà thành phố Hồ Chí Minh là một
điển hình với khoảng 50 % trong tổng số lao động thu nhập thuộc về khu vực kinh tế phi
chính thức. Điểm đáng báo động ở đây là tỷ lệ thất nghiệp cao trên 10% trong tổng số
người trong độ tuổi lao động và cứ 2 người có việc làm thì một người ở tình trạng việc
làm bấp bênh. Thất nghiệp và việc làm bấp bênh là hai dấu chỉ của tình trạng nghèo còn
rất căn cơ của một hộ gia đình. Những nỗ lực có thể cải thiện trong từng thời điểm nhưng
trên bước đường vượt nghèo, những bước thụt lùi là điều có thể xảy ra. Đó là cái mà các
nhà khoa học gọi là tính dễ tổn thương của người nghèo.
Toàn thành phố thì tỉ lệ người có việc làm ổn định không cao (chiếm 47,8%) và hầu
hết đều tập trung ở các cá nhân khá giả, tỉ lệ thất nghiệp chiếm khoảng 4,5% và nhóm làm
việc bấp bênh là 4,1%.
- Vốn xã hội của người nghèo: Vốn xã hội, chẳng hạn như các mối quan hệ gia đình,
cộng đồng và xã hội của một cá nhân hay hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng giúp người
nghèo nâng cao cuộc sống của mình. Bên cạnh các yếu tố đo lường được, của vốn con
người, có ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động như học vấn, tay nghề, vốn… thì
còn có những yếu tố vô hình nhưng đôi khi lại là yếu tố quyết định đến thu nhập của
người nghèo. Các yếu tố vô hình đó có thể là những quan hệ xã hội mà một người có
được từ vị trí xã hội hoặc gia đình mình. Mạng lưới xã hội đóng vai trò đáng kể với sự
định vị trong phân tầng mức sống và thăng tiến của cư dân đô thị.
Như vậy, mạng lưới xã hội cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp cho những
nhóm nghèo thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vốn xã hội của
người nghèo còn rất hạn chế. Người nghèo thường sống trong những cộng đồng nghèo,
hay nói rộng ra trong những khu vực nghèo, trong những xóm lao động. Họ cũng thường
có họ hàng nghèo, bạn bè nghèo vì vậy khả năng giúp đỡ từ người khác là rất ít. Tỷ lệ
76,9% chủ hộ không tham gia hoạt động các đoàn thể, và 83,1% số hộ không có thành

viên tham gia các hoạt động như tổ xoá đói giảm nghèo nói lên mối quan hệ xã hội của
các hộ nghèo không rộng rãi lắm và như vậy các cơ hội làm ăn cũng có phần hạn chế.
25

×